intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cơ sở thực tiễn xuất khẩu gạo Việt nam thời gian tới theo quan điểm marketing và tìm ra hướng đi mới - 3

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:38

118
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

- Cung cấp các dữ liệu tiếp cận thông tin về giá cả, sản xuất lương thực, thị trường quốc tế và thị trường tiếp thị. Trong thời đại ngày nay, việc trao đổi thông tin giữa các nguồn cung và thị trường là một yếu tố không thể thiếu trong việc Marketing sản phẩm. Chiến lược thông tin ở Việt Nam cho xuất khẩu gạo vẫn còn những bất cập. Các doanh nghiệp không thường xuyên có được những thông tin và dự báo trong việc xác định các thị trường đầu ra, khối lượng gạo có thể xuất...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cơ sở thực tiễn xuất khẩu gạo Việt nam thời gian tới theo quan điểm marketing và tìm ra hướng đi mới - 3

  1. - Cung cấp các dữ liệu tiếp cận thông tin về giá cả, sản xuất lương thực, thị trường quốc tế và thị trường tiếp thị. Trong thời đại ngày nay, việc trao đổi thông tin giữa các nguồn cung và thị trường là một yếu tố không thể thiếu trong việc Marketing sản phẩm. Chiến lược thông tin ở Việt Nam cho xuất khẩu gạo vẫn còn những bất cập. Các doanh nghiệp không thường xuyên có được những thông tin và dự báo trong việc xác định các thị trường đầu ra, khối lượng gạo có thể xuất khẩu, các chính sách khuyến khích khả năng cạnh tranh của gạo cũng như nhu cầu khách hàng. Khâu nghiên cứu thị trường xuất khẩu gạo vẫn chưa được đầu tư đúng mức. Các nguồn tài liệu về thị trường gao thế giới phục vụ cho kinh doanh xuất khẩu cũng như phục vụ công tác quản lý xuất khẩu, công tác nghiên cứu nhìn chung còn quá ít ỏi, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế trong khi hoạt động xuất khẩu đòi hỏi những thông tin sâu rộng về thị trường để theo dõi kịp thời và hệ thống các diễn biến cung cầu, giá cả. Do nghiên cứu thị trường bị hạn chế nên các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam không xử lý được kịp thời những diễn biến của thị tr ường, bỏ lỡ rất nhiều cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu gạo, gây thiệt hại tới bản thân doanh nghiệp nói riêng và cho Nhà nước nói chung. Cụ thể là năm 1994, nhu cầu nhập khẩu gạo của Nhật Bản đột ngột tăng tới 2 triệu tấn. Các nhà kinh doanh của ta đã hy vọng có thể xuất khẩu sang thị tr ường này song do thiếu những thông tin cụ thể về cách thức nhập khẩu, tiến trình nhập sẽ tập trung vào thời gian nào, cấp loại gạo nào... nên không xử lý được linh động, hiệu quả trước tình hình biến động cung cầu, lỡ một hợp đồng lớn mà đáng lẽ chúng ta có thể giành được. Năm 1997, do
  2. ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, cầu về gạo trên thị trường thế giới tăng mạnh. Các nhà xuất khẩu Việt Nam do thiếu thông tin cập nhật đã đề nghị giá gạo thấp hơn giá thị trường và đã bán hết dự trữ gạo trước khi giá gạo trên thị trường thế giới đạt mức giá trần cao nhất. Đầu năm 1998, giá gạo trên thế giới tiếp tục nhích lên, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã ồ ạt ký hợp đồng. Chỉ trong quý I, số lượng gạo trong hợp đồng xuất khẩu đã ký lên tới 3 triệu tấn. Sang đến quý II, giá gạo xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh, giá lúa đồng bằng sông Cửu Long cũng tăng. Những doanh nghiệp đã ký hợp đồng số lượng lớn bị thua lỗ do không dự đoán được thị trường. Để giải quyết, Chính phủ đã hai lần chỉ đạo tạm ngưng ký hợp đồng mới vào tháng tư và tháng tám nhằm rà soát lại các hợp đồng cũ. Nhiều doanh nghiệp phải tìm cách trì hoãn những hợp đồng đã ký, chịu mất uy tín với bạn hàng. Thiệt hại về giá gạo xuất khẩu 4 tháng đầu năm vào khoảng hàng chục triệu USD, chưa kể đến việc tổ chức thu mua ồ ạt, thậm chí cả tranh mua, đẩy giá gạo cả nước lên quá cao làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu bị thua lỗ lớn. Đến giai đoạn cuối 1998, đầu năm 1999, giá gạo xuất khẩu ở mức cao thì số lượng hợp đồng đã ký lại ở mức thấp do các doanh nghiệp vẫn không dự đoán được thị trường, xu hướng cung cầu và giá cả trong tương lai. Sự thiếu thông tin về gạo trên thế giới luôn làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi khi thực hiện đàm phán, ký kết hợp đồng dẫn đến hiệu quả kém trong hoạt động xuất khẩu. Trong lĩnh vực sản xuất, những thông tin liên quan đến công nghệ và thị trường cũng đóng một vai trò thiết yếu. Người nông dân ở Việt Nam chủ yếu có được những thông tin qua các mối quan hệ thân quen và trao đổi với những nông dân
  3. khác. Vào tháng 11 năm 1999, Trung tâm thông tin của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã xuất bản nguyệt san “Tin lương thực”. Tuy nhiên, phần lớn những tin tức về thị trường trong và ngoài nước đều lấy từ Trung tâm thông tin của Bộ Thương mại, không đủ đáp ứng nhu cầu cập nhật về giá cả thị tr ường của người sản xuất. Các Hiệp hội lương thực và các tổng công ty đang có hướng mở ra các nhóm nghiên cứu tình hình thị trường trong nước và quốc tế nhưng các hoạt động này vẫn còn nhiều yếu kém. Cùng một báo cáo ngành mà có tới 3, 4 số liệu khác nhau trong khi nguồn cán bộ của cả hai bộ trên đều rất yếu, chưa dám sử dụng những chuyên gia đã được đào tạo chính quy về ngành kinh doanh cho nông nghiệp nên không làm tốt chức năng dự báo thị trường. Về phía các nhà xuất khẩu, tuy thông tin là thực sự cần thiết nhưng ít chủ động đầu tư thời gian và vốn cho nghiên cứu thị trường. Bên cạnh đó, thông tin phản hồi từ các khách hàng thường không nhiều và các chiến dịch quảng cáo cho sản phẩm gạo gần như không có. Chính phủ Việt Nam còn thiếu những biện pháp để truyền bá, giới thiệu những lợi thế của gạo Việt Nam tới các khách hàng quốc tế, tạo một lỗ hổng lớn trong các kênh thông tin từ người sản xuất tới người tiêu dùng. Hơn nữa, các nguồn tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ cho công tác xuất khẩu và nghiên cứu quá ít ỏi, chưa đấp ứng được yêu cầu thực tế. Hiện nay, mạng Internet đã trở nên rất phổ biến Việt Nam. Đây là một phương tiện thông tin có tính toàn cầu hoá, có khả năng truy cập một khối lượng thông tin khổng lồ song các doanh nghiệp vẫn hạn chế sử dụng do chi phí thuê bao và các nguyên nhân chủ
  4. quan khác. Điều đó tạo cho các doanh nghiệp thói quen bị động trước các biến cố xảy ra trên thị trường, dễ gây những hậu quả lớn và khó tránh khỏi. 2.3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam theo mô hình SWOT Qua những phân tích về tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những nă m qua theo quan điểm Marketing-mix tập trung vào 4 vấn đề: chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh, chúng ta đã có một cái nhìn chi tiết về xuất khẩu gạo trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang chuyển mình sang giai đoạn mới. Phải khẳng định rằng gạo đã trở thành một mặt hàng chiến lược không thể thiếu trong chính sách phát triển của Việt Nam. Với các phân tích trên, chúng ta còn rút ra những nhận định và đánh giá để từ đó hình thành những chiến lược cụ thể theo Marketing-mix cho xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm tới. Theo quan điểm Marketing, cơ sở hình thành chiến lược gồm bốn điểm: - S (streengths) - điểm mạnh: ở đây hiểu là mặt mạnh mà chúng ta có được trong quản lý vĩ mô đối với sản phẩm gạo và vị trí, khả năng cạnh tranh của xuất khẩu gạo Việt Nam trên trường quốc tế. - W (weeknesses) - điểm yếu: những khó khăn của Nhà nước trong cơ chế điều tiết gạo. - O (oppotinites) - cơ hội: những yếu tố thuận lợi trong bối cảnh khu vực và quốc tế mà chúng ta cần tranh thủ để tăng cường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo.
  5. - T (threats) - thách thức: những nguy cơ từ bên ngoài có thể ảnh hưởng xấu đến tình hình chung và xu hướng xuất khẩu của Việt Nam, cần được phát hiện, điều chỉnh một cách kịp thời cho phù hợp và tránh những hậu quả xảy ra. Cả bốn yếu tố trên tạo thành mô hình SWOT - là cơ sở hình thành chiến lược trong Marketing-mix mà các nhà hoạch định vẫn thường sử dụng để tạo kế hoạch cho chương trình hành động trong thời gian tới. Nghiên cứu mô hình này đối với sản phẩm gạo ở tầm vĩ mô đòi hỏi có một cách nhìn tổng quát, sắc bén để từ đó rút ra những nhận định đúng đắn và có hiệu quả cao. 2.3.1. S - Điểm mạnh 2.3.1.1. Cơ chế chính sách Thành công trong xuất khẩu gạo của Việt Nam do nhiều yếu tố tác động trong đó sự điều chỉnh và đề ra các chính sách của Đảng và Nhà nước ta đóng một vai trò rất quan trọng. Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo được hoàn thiện liên tục qua từng năm để tạo những điều kiện thuận lợi, đẩy mạnh xuất khẩu gạo với số lượng lớn, nâng vị trí của Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới. Cụ thể là: Thứ nhất, từ trước đến nay, hạn ngạch được giao một lần và giao trước khi bước vào năm tài chính. Tuy nhiên, đến năm 2001, Chính phủ đã quyết định hạn ngạch xuất khẩu gạo, tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu không bị hạn chế số lượng bởi hạn ngạch.
  6. Thứ hai, khi ban hành cơ chế điều hành xuất khẩu gạo thường đi cùng với cơ chế nhập khẩu phân bón, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc theo dõi, giám sát tình hình xuất nhập chung của hai mặt hàng này. Thứ ba, trước đây, Nhà nước điều tiết lượng gạo xuất khẩu: tiến độ xuất khẩu thông qua hạn ngạch, đầu mối xuất khẩu gạo và biện pháp hành chính tạm dừng xuất khẩu. Số lượng đầu mối xuất khẩu được mở rộng thận trọng. Cụ thể là năm 1996 chỉ có 15 doanh nghiệp được phép tham gia xuất khẩu gạo, năm 1997 con số này là 16 và đến năm 2000 lên tới 47 đầu mối. Tuy nhiên, Nhà nước phân bố số lượng gạo xuất khẩu hàng năm theo hướng giảm dần sự độc quyền của các doanh nghiệp đầu mối, hạn chế tình trạng tranh mua, tranh bán. Năm 2001, bãi bỏ đầu mối và hạn ngạch sẽ tạo một bước tiến mới, thuận tiện hơn cho xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp ngoài đầu mối trước kia. Ngoài các doanh nghiệp đầu mối, Nhà nước cho phép các công ty của Trung ương, các tổng công ty, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu với hạn ngạch quy định. Các doanh nghiệp ngoài đầu mối của tất cả các thành phần kinh tế, có đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nếu tìm được thị trường tiêu thụ mới (ngoài các nước như Philippin, Inđônêxia, Malaixia và Irăc, Iran), ký được hợp đồng với các điều kiện thương mại có lợi, giá cả cao hơn hoặc bằng giá cả hướng dẫn trong từng thời kỳ, thì gửi văn bản kèm theo hợp đồng về bộ Thương mại để được xem xét cho xuất khẩu.
  7. Chính phủ đã trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu gạo thông qua việc ký kết các hiệp định, nghị định thư trao đổi hàng hoá với chính phủ các nước khác hoặc hợp đồng bán gạo ổn định cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài rồi giao lại cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Bên cạnh đó, Chính phủ còn khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo sản xuất ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung tạo thế cân bằng với khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo với nội dung như trên đã đóng góp tích cực vào hoạt động xuất khẩu gạo. Với cơ chế trên chúng ta có thể yên tâm rằng lượng gạo xuất khẩu sẽ tăng ổn định và vững chắc đồng thời đảm bảo mục tiêu về an ninh lương thực quốc gia, tăng cường tính bền vững trong phát triển sản xuất lương thực. Với cơ chế này sẽ tạo khả năng mở rộng và tăng cường các hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp ngoài đầu mối, hiện chiếm 20% lượng gạo xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. 2.3.1.2. Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo. Ngoài những lợi thế về chi phí sản xuất, chủng loại gạo, giá thành... như đã đề cập ở phần trước, gạo xuất khẩu Việt Nam còn có những ưu điểm sau: * Truyền thống sản xuất lúa gạo Từ ngàn đời nay, cây lúa vẫn là cây lương thực chính của nhân dân Việt Nam. Lúa mang đến cho chúng ta cuộc sống ấm no và đã tạo nên một nếp nghĩ trong mỗi người khi hay quy tất cả các giá trị các vật dụng khác ra thóc gạo. Truyền thống sản xuất lúa là một thế mạnh, giúp chúng ta có được kinh nghiệm gieo cấy, chăm sóc, tạo điều kiện cho cây lúa phát triển đảm bảo được năng xuất tối đa. Lịch sử
  8. sản xuất lúa Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm, nên chúng ta có thể tích tụ được các phương pháp sản xuất có hiệu quả, khai thác triệt để các lợi thế khác của đất nước ứng dụng vào phát triển cây lúa. * Điều kiện tự nhiên thuận lợi. ở Việt Nam, sản xuất lúa đã, đang và sẽ là ngành sản xuất quan trọng bậc nhất. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào có thể dựa trên những điều kiện thuận lợi về tự nhiên để phát triển cây lúa n ước, hợp với đất đai và đặc tính về sinh thái, khí hậu. Tài nguyên đất đai và khí hậu đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng lượng và các yếu tố khác cho cây lúa. Diện tích đất trồng lúa của Việt Nam rộng, phì nhiêu cao, chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, hệ sinh thái của ta do kết hợp các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa... nên có thể tạo lợi thế thâm canh, tăng vụ cho cây lúa ở cả hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Nghề trồng lúa Việt Nam còn có một ưu thế nữa về nguồn nước- yếu tố không thể thiếu đối với sự phát triển của cây lúa. Ngoài nguồn nước sẵn có, chúng ta đã xây dựng một hệ thống thuỷ lợi đảm bảo và đã mang lại những thành quả bước đầu cho việc năng suất lúa. * Vị trí địa lý và hệ thống cảng khẩu. Phải nói rằng, Việt Nam có một vị trí địa lý hết sức thuận lợi cho buôn bán và giao lưu quốc tế, nằm ở cửa ngõ của các con đường nối liền các nước. Hệ thống đường sắt, đường biển thuận lợi là những thế mạnh nổi bật của chúng ta trong việc đẩy
  9. mạnh xuất khẩu gạo. Việt Nam có hơn 3000 km bờ biển với các cảng thuận lợi, nằm gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đi Đông Bắc á, Đông Nam á - Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ... là những thị trường chính của gạo xuất khẩu nước ta. Các cảng biển này giúp cho việc vận chuyển gạo tiện lợi, thông dụng với mức cước phí rẻ hơn nhiều so với các phương thức khác, tạo cho Việt Nam một thế mạnh lớn trong xuất khẩu. 2.3.1.3. Hệ số chi phí nguồn lực nội địa ( DRC) của gạo xuất khẩu Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, mặt hàng gạo của Việt Nam đang vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các nước xuất khẩu khác. Nói đến cạnh tranh là phải nói đến vấn đề chất lượng, mẫu mã, vệ sinh, giá cả... Trong những vấn đề này, điều dễ được người nhập khẩu quan tâm nhất là giá cả. Trên thị trường người mua thường so sánh giá cả mặt hàng cùng loại để đi đến quyết định mua hay không. Như vậy, giá cả là nội dung đầu tiên mà các doanh nghiệp phải quan tâm. Một mặt hàng được coi là có khả năng cạnh tranh nếu như giá trong nước không lớn hơn trong nền kinh tế cạnh tranh. Cụ thể là mặt hàng gạo có khả năng cạnh tranh khi giá gạo tiêu thụ không lớn hơn giá của gạo cùng loại trên thị trường thế giới. Lợi thế cạnh tranh của gạo có thể đo bằng hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC), là tỷ lệ giữa các chi phí nguồn lực trong nước và các yếu tố đầu vào trung gian bất khả thương (tính bằng giá mờ) cho việc sản xuất trong một sản phẩm nhất định so với ngoại tệ ròng thu được do sản xuất lúa gạo trong nước.
  10. Qua phân tích tình hình xuất khẩu gạo trong thời gian gần đây, ta có được sơ đồ nói lên sự biến động hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC) của gạo như sau: Năm 1995 1996 1997 1998 1999 DRC 0,500 0,474 0,500 0,400 0,500 Trong tất cả các năm phân tích, DRC đều nhỏ hơn 1 và tương đối ổn định chứng tỏ nền kinh tế nước ta đã tiết kiệm được ngoại tệ thông qua sản xuất gạo ở trên cả hai mặt trận: xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Điều đó cũng nói lên chi phí cơ hội của các tài nguyên trong nước và các yếu tố sản xuất khác được sử dụng để tạo ra mặt hàng gạo nhỏ hơn so với ngoại tệ thu được. Hệ số chi phí nguồn lực nội địa không phát huy tối đa hiệu quả vì tính cạnh tranh của gạo Việt Nam vẫn không cao so với các quốc gia xuất khẩu gạo khác. Nói chung, Việt Nam có khá nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Tuy nhiên, để biến những điểm mạnh này thành sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần rất nhiều sự cố gắng, nỗ lực của tất cả các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo ở nước ta. 2.3.2. W - Điểm yếu 2.3.2.1. Cơ chế, chính sách Cơ chế hiện hành dù đã được chỉnh sửa và có nhiều tiến bộ nhiều năm qua song nhìn chung vẫn tồn tại những hạn chế, phần n ào làm giảm khả năng xuất khẩu gạo Việt Nam được biểu hiện cụ thể trên các mặt sau: * Thứ nhất: việc duy trì đầu mối xuất khẩu trước năm 2001 nhiều khi làm lỡ mất thời cơ xuất khẩu, nhất là khi tham gia đấu thầu các hợp đồng mua gạo của các đối
  11. tác nước ngoài. Chỉ những đầu mối mà Chính phủ chỉ định mới được tham gia đấu thầu cung cấp gạo. Điều kiện đó không tạo xu hướng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, dễ dẫn đến các tiêu cực trong công tác quản lý. Năm 1998-1999, nhiều đầu mối do Chính phủ chỉ định tham gia đấu thầu đã thất bại, gây tổn thất đáng kể cho tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Việc Chính phủ Việt Nam xác định đầu mối và phân bổ hạn ngạch chỉ dựa vào tỷ lệ và khối lượng gạo xuất khẩu năm trước của các đơn vị mà không phân biệt lượng xuất khẩu uỷ thác so với lượng xuất khẩu thực sự của các đơn vị đó là bao nhiêu, nên vẫn còn hiện tượng một số đầu mối bán quota và xuất khẩu uỷ thác để được hưởng một tỷ lệ xuất khẩu nhất định trên giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo, phát sinh nhiều tiêu cực trong việc mua bán quota. Hơn nữa, các doanh nghiệp rơi vào thế bị động trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo khi Chính phủ phân bổ hạn ngạch trọn gói cả năm nên sẽ không dự đoán được tương đối chính xác sản lượng gạo xuất khẩu. Hậu quả l à những lúc giá gạo trên thị trường thế giới tăng mạnh thì lượng xuất của ta không tăng hoặc tăng không đáng kể, ngược lại khi giá giảm thì chúng ta lại tăng lượng xuất. Tuy nhiên đến năm 2001, khi Chính phủ bỏ hạn hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu gạo lại gây tâm lý lo lắng cho các doanh nghiệp do băn khoăn không biết cơ chế điều hành mới có thuận lợi hay lại ngăn trở, gây khó khăn dưới hình thức khác. * Thứ hai, cơ chế được quy định chỉ có hiệu lực trong thời hạn một năm, do đó doanh nghiệp luôn ở trong thế bị động, thiếu ổn định, không muốn đầu tư dài hạn.
  12. * Thứ ba, cơ chế quy định đòi hỏi Chính phủ phải theo dõi sít sao hoạt động của các doanh nghiệp, làm mất khả năng chủ động của các doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề, vụ việc trong kinh doanh, dễ lỡ thời cơ ký kết các hợp đồng có lợi nhuận lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng phải ra quyết định với quy mô nhỏ làm mất thời gian và công sức của nhân viên các cấp. Từ năm 2001, Chính phủ thực hiện bỏ đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu gạo. Để thực hiện điều này, các cơ quan chức năng gồm Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... phải xây dựng một cơ chế mới về điều hành xuất khẩu gạo trình Chính phủ. Cơ chế điều hành phải giải quyết được mục tiêu: nông dân có lợi, doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả, bình ổn giá lương thực và giữ an ninh lương thực quốc gia. Khi bỏ đầu mối xuất khẩu, nhiều doanh nghiệ p trước kia không xuất khẩu gạo sẽ tham gia vào hoạt động này. Hơn nữa, gạo luôn là mặt hàng chủ lực của Việt Nam, khi số doanh nghiệp tăng lên sẽ tạo tình trạng tranh mua, bán, làm giảm hiệu quả xuất khẩu gạo nhưng cũng sẽ tăng sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tránh tình trạng độc quyền xuất khẩu của các đầu mối như tình trạng trước đây. 2.3.2.2. Quản lý giá cả Tuy đã áp dụng cơ chế và chính sách mới và có nhiều chấn chỉnh để thích ứng với tình hình hiện tại của nền kinh tế. Song trên thực tế, hệ thống tổ chức của ta vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác quản lý giá cả. Giá mua lúa gạo nội địa do Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn bằng cách căn cứ vào giá thành sản xuất để quy định giá sàn và giá trần sao cho đảm bảo được quyền lợi của nông dân, còn giá xuất
  13. khẩu gạo do Bộ Thương mại căn cứ vào diễn biến, tình hình thị trường thế giới để đưa ra khung giá tối thiểu cho từng mặt hàng và khống chế hợp đồng xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp đã đạt được mức giá tối thiểu này trở nên thì mới được cấp giấy phép xuất khẩu. Do sự không thống nhất với nhau trong quy định vế giá như trên thường dẫn đến việc giá gạo của Việt Nam không thích ứng được với giá trên thị trường quốc tế làm phát sinh giá cả nội địa cao hơn mặt bằng giá gạo quốc tế. Hơn thế, khung giá quy định của các cơ quan Chính phủ thường cứng nhắc, thiếu độ nhạy bén với biến động trên thị trường, gây khó khăn không ít cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Bộ Thương mại ban hành giá chậm thay đổi nên các doanh nghiệp không thể ký hợp đồng vì không được cấp giấy phép khi giá thị trường thấp hơn khung giá quy định. Ngược lại, khi giá thị trường cao hơn khung giá quy định dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp tự ý hạ thấp miễn là vẫn đảm bảo cao hơn giá Nhà nước nhằm bán được cho nhà nhập khẩu số lượng lớn gạo làm giảm hiệu quả xuất khẩu chung. Chính từ sự yếu kém của các doanh nghiệp và khâu quản lý giá dẫn đến việc khách hàng nước ngoài lợi dụng, ép giá nhằm có lợi tối đa cho họ. Khi trên thị trường thế giới giá có xu hướng giảm thì họ tìm cách trì hoãn việc nhận hàng, cam kết thanh toán, gây tâm lý lo lắng cho các nhà xuất khẩu nước ta, sau đó mới đề nghị đàm phán lại điều khoản giá cả của hợp đồng và mới đồng ý đi nhận hàng. Ngược lại, khi xu hướng giá trên thị trường thế giới tăng lên thì họ ép ta phải ký kết hợp đồng và giao hàng ngay nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam. 2.3.2.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng của các cảng khẩu
  14. Gần như phần lớn số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giao tại cảng Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh (70%), có xuất xứ từ đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng phục vụ các khâu chuyên chở, kho tàng bảo quản, thiết bị bốc xếp còn nhiều yếu kém và đang trở thành đáng quan tâm. Hơn nữa, cảng Sài Gòn luôn bị tắc nghẽn, và số lượng gạo xuất khẩu được xuất cảng lại chịu trách nhiệm về phí vận chuyển gạo rất cao trên mức đề xuất. Quốc lộ 1A đoạn thành phố Hồ Chí Minh đến Cần Thơ tuy đã được hoàn thành về cơ bản việc nâng cấp nhưng chưa đủ rộng để cho phép hàng đoàn xe tải nặng đi lại thường xuyên. Cảng Cần Thơ ở giữa khu vực đồng bằng sông Cửu Long - khu vực dư thừa gạo chính của cả nước - đang nhanh chóng mở rộng các hoạt động nhưng vẫn bị hạn chế nghiêm trọng bởi thiếu đầu tư để nâng cấp giao thông đường thuỷ. Cảng này có năng lực bốc xếp theo thiết kế là một triệu tấn/năm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong 3 năm trở lại đây, công suất bốc xếp hàng năm của Cảng chỉ khoảng 40.000 tấn/năm. Cảng chưa đủ điều kiện để đón và phục vụ tàu viễn dương có trọng tải trên 10.000 tấn, mặc dù cảng chỉ cách cửa biển 20km. Cơ sở hạ tầng yếu kém không phải là cản trở duy nhất. Giá vận chuyển cao ở Việt Nam gắn liền với sự chậm trễ trong quá trình chất và vận chuyển hàng chậm dọc theo các kênh nối giữa cảng Sài Gòn với phía Nam biển Trung Quốc phần nào giải thích sự giảm giá hơn nữa của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Mặc dù những chi phí này do các nhà nhập khẩu gạo trả vì hầu hết xuất khẩu gạo nước ta tính theo giá FOB nhưng chi phí này được tính vào giá bán của gạo xuất khẩu.
  15. Điều này giải thích thực tế rằng giá FOB của gạo Việt Nam thấp từ 13-15% so với các đối thủ cạnh tranh khác như Thái Lan. 2.3.2.4. Về phía các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo Việt Nam cũng tồn tại nhiều điểm yếu thể hiện trên các mặt sau: * Thứ nhất, bộ máy quản lý của phần lớn các doanh nghiệp ch ưa đồng bộ, chưa có sự thống nhất với nhau về cách làm việc. Công tác quản lý còn nhiều yếu kém, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban, đặc biệt trong các doanh nghiệp Nhà nước còn hiện tượng chỉ làm cho đủ số giờ mà không đảm bảo hiệu quả công việc. Đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu ở một số nơi còn yếu kém về trình độ, năng lực, bề dày kinh nghiệm nên hiệu quả không cao. Nhiều doanh nghiệp có thói quen ỷ lại, không tích cực tìm kiếm bạn hàng, nguồn hàng mà coi Chính phủ là một tác nhân quan trọng đến hiệu quả kinh doanh của họ nên nỗ lực để có càng nhiều ưu tiên, giấy phép, hạn ngạch trợ cấp và bảo hộ xuất khẩu. * Thứ hai, các doanh nghiệp trong cả hai lĩnh vực tư nhân và Nhà nước đều bị hạn chế nghiêm trọng trong việc tiếp cận nguồn vốn cần thiết để tiến hành các hoạt động mua bán, tích trữ tài chính và cấp vốn đầu tư cho sản xuất. Theo tính toán, yêu cầu về vốn ở thời điểm cao nhất bằng khoảng 5 lần mức vốn nhận được của các doanh nghiệp Nhà nước và 10 lần so với các doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù trong các năm vừa qua, các thiết bị vận chuyển và chế biến đã được đầu tư một cách đáng kể nhưng không đáp ứng hết nhu cầu. Do đó, cần phải nâng cao vốn phát hành hiện tại và bổ sung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất (máy móc, nhà máy và
  16. các phương tiện vận chuyển) cũng nh ư nguồn vốn nhân lực có qua đào tạo, tiếp thị quản lý chất lượng và tài chính vì với lượng vốn hạn hẹp, các doanh nghiệp không thể cấp tín dụng thương mại cho khách hàng cũng như không có khả năng mua dự trữ nên không thể chủ động kỳ hạn bán ra theo hướng thị trường có lợi, bỏ lỡ nhiều cơ hội, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp. Sự tồn tại nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp cũng không có nghĩa là Chính phủ phải bao cấp các doanh nghiệp toàn bộ nguồn vốn đầu tư mà tạo điều kiện để tiếp thị tín dụng, cung cấp môi trường cho công việc này và cho phép các thành viên trong các doanh nghiệp đóng góp đầu tư của họ về dự trữ, chế biến và vận chuyển lúa gạo. Tất cả những điểm yếu trên đã và đang làm giảm thế mạnh trong thương mại quốc tế và khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trước những biến động gay gắt trên thị trường thế giới. 2.3.3. O - Cơ hội và T - Thách thức Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế và bước đầu đã hoà nhập được với nền kinh tế thế giới. Sau một loạt những sự kiện quan trọng trong hợp tác phát triển như bình thường hoá quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN, ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ… và sắp tới sẽ gia nhập Tổ chức kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), chúng ta sẽ có những cơ hội để phát triển thị trường, đưa sản phẩm của ta sánh ngang với các nước khác về chất lượng và đẩy mạnh nền kinh tế... Vì quy mô nhỏ, đề tài chỉ xin đề cập đến cơ hội của gạo xuất khẩu Việt Nam khi Hiệp định
  17. Việt - Mỹ đi vào thực thi và khi chúng ta chính thức tham gia vào khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) vào năm 2003. Hiệp định Việt - Mỹ 2.3.3.1. Khi thực hiện Hiệp định Thương mại, Mỹ sẽ áp dụng thuế suất phù hợp với quy định của WTO (ước tính thuế nhập khẩu trung bình của hàng hoá Việt Nam vào Mỹ sẽ giảm từ 40% xuống còn 4%), loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, các hạn chế định lượng và mở đường cho gạo Việt Nam thâm nhập và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường Mỹ. Hiệp định Thương mại Việt Mỹ không những thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam vào một trong những thị trường lớn nhất thế giới, mà còn tạo thêm động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Thị trường Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ nông sản nhiều nhất trên thế giới, có tính đa dạng và tiềm năng rất lớn. Nhập khẩu nông nghiệp của Mỹ hàng năm lên tới 38 tỷ USD. Tuy nhiên, so với các thị trường có mức thu nhập và tiêu dùng bình quân đầu người tương đương như Mỹ và Nhật Bản thì xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Vì thuế nhập khẩu trung bình đối với các mặt hàng gạo của các thị trường này cao hơn rất nhiều so với Mỹ, nên khi Hiệp định Thương mại được thi hành thì xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ có cơ hội tăng đáng kể. Giá trị xuất khẩu gạo trên đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp so với Thái Lan và khả năng sản xuất vẫn còn mạnh, do đó tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn rất lớn. * Cơ hội
  18. Tác động của hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đến xuất khẩu gạo của Việt Nam có thể thông qua các hướng sau: - Thứ nhất, việc giảm hàng rào thuế quan và tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế quan của cả Mỹ và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho gạo tiếp cận thị trường dễ dàng hơn và do đó sẽ thúc đẩy thương mại hai chiều. - Thứ hai, khả năng tiếp cận thị trường Mỹ dễ dàng hơn, cùng với những điều kiện ưu đãi về đầu tư vào sản xuất gạo sẽ làm tăng đầu tư của Mỹ và các nước khác vào ngành này của Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. - Thứ ba, Hiệp định Thương mại sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu gạo Việt Nam phát triển hơn nữa theo chiến lược mới: tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam, hình thành nền sản xuất hành hoá mạnh, giúp cho gạo Việt Nam thay đổi cơ cấu theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế (trước hết là đối với Mỹ), tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia rộng rãi hơn vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như xuất khẩu gạo. * Thách thức Bên cạnh những lợi ích tạo ra, việc thực thi Hiệp định Việt - Mỹ cũng đem lại những thách thức lớn đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trước đây được hưởng lợi từ sự bảo hộ của một nền kinh tế đóng thì nay sẽ gặp nhiều khó khăn. Những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt gồm có: - Thứ nhất, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ sẽ mở cửa cho gạo của Mỹ vào thị trường Việt Nam. Đây không phải là lo lắng hàng đầu vì khả năng tiêu dùng gạo Mỹ sẽ không nhiều, do giá cao và chỉ phù hợp với một bộ phận nhỏ dân cư cu trú
  19. tại các đô thị lớn. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp Mỹ và các nước khác đầu tư vào thị trường Việt Nam sẽ tăng lên nhằm xuất khẩu gạo sang thị trường Mỹ hay khai thác thị trường nội địa, do đó sẽ gây áp lực tới các doanh nghiệp sản xuất lúa gạo trong nước. Nhà nước ta đ• cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư xuất khẩu gạo nên các doanh nghiệp của Mỹ cũng có thể tham gia. Nếu không có những chuẩn bị cần thiết thì các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh. - Thứ hai, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ phải đối mặt với sự canh tranh của các đối thủ trên thị trường Mỹ. Chúng ta đã biết rằng Mỹ là một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nên khi gạo Việt Nam thâm nhập vào Mỹ sẽ vấp phải những rào cản về số lượng và chất lượng gạo của Mỹ. Hơn thế nữa, mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường Mỹ so với trước đây nhưng lại có sự cạnh tranh gay gắt từ các nước xuất khẩu gạo truyền thống như Thái Lan, nước đã có chỗ đứng trên thị trường Mỹ từ lâu hoặc Trung Quốc, quốc gia đã ký Hiệp định với Mỹ năm 1999 và vừa gia nhập WTO cũng sẽ là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. - Thứ ba, muốn xuất khẩu gạo Việt Nam sang Mỹ, các doanh nghiệp phải tìm hiểu những quy định về thương mại và hải quan vốn rất phức tạp của Mỹ. Luật pháp Mỹ quy định tất cả mọi vấn đề có liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào đều thuộc thẩm quyền của Chính phủ liên bang. Bộ Thương mại, văn phòng đại diện thương mại, uỷ ban thương mại quốc tế và cụ thể nhất là Hải quan Mỹ là những cơ quan có trách nhiệm đối với vấn đề này. Ngoài các thủ tục hải
  20. quan còn có các quy định thương mại liên quan đến luật như chống độc quyền, chống bán phá giá trách nhiệm sản phẩm, thương mại thống nhất... Tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) 2.3.3.2. Tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN là bước khởi động đầu tiên, có ý nghĩa đối với quyết định đối với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Theo lộ trình gia nhập AFTA thì từ nay đến năm 2006, Việt Nam phải từng bước cắt giảm thuế xuống đối với các mặt hàng. Khi đó sự bảo hộ thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước sẽ không còn tác dụng, câu hỏi đặt ra là liệu gạo Việt Nam có thể cạnh tranh với gạo các nước khác tại thị trường trong nước lẫn thị trường ASEAN được không? Đối với sản xuất và xuất khẩu gạo, ảnh hưởng lớn nhất trong bối cảnh quốc tế hiện nay sẽ là quá trình tự do hoá thương mại trong khuôn khổ AFTA của Việt Nam và tác động của cắt giảm thuế quan, phi thuế quan tới khả năng cạnh tranh của ngành gạo xuất khẩu. Sự tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam trong những năm qua cho thấy thế mạnh và tiềm năng có thể tham gia vào thị trường thế giới và khu vực các nước ASEAN, kể cả các trong các điều kiện thương mại quốc tế có sự tự do hoá. Vì gạo là một mặt hàng thiết yếu đối với nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt là các nước trong khu vực, các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam không nhiều, chủ yếu là Thái Lan và một số nước xuất khẩu tiềm năng có tác động tích cực đến ngành sản xuất lúa gạo và ngành công nghiệp xay xát của nước ta.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2