Nguyễn Quốc Tiến<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
81(05): 41 - 44<br />
<br />
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VÙNG TRUNG DU<br />
MIỀN NÚI BẮC BỘ VÀ NHỮNG CÂU HỎI CẦN ĐƯỢC GIẢI ĐÁP<br />
Nguyễn Quốc Tiến*<br />
Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đào tạo nguồn nhân lực du lịch để phát triển hoạt động du lịch Vùng trung du miền núi Bắc Bộ một trong 7 vùng du lịch giàu tiềm năng của nước ta đang là một đòi hỏi bức thiết. Hiện nay, nhu<br />
cầu sử dụng lao động qua đào tạo dẫn đến nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở vùng này rất<br />
lớn, nhưng thực trạng năng lực và kết quả đào tạo trên địa bàn còn thấp xa so với nhu cầu của các<br />
địa phương và doanh nghiệp thuộc Vùng. Vậy, làm thế nào để đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực<br />
du lịch cho vùng này? Bài báo đã phân tích và đề xuất 5 giải pháp để đẩy mạnh đào tạo nhằm đáp<br />
ứng nhu cầu nguồn nhân lực du lịch của các địa phương và doanh nghiệp ở đây.<br />
Từ khóa: Đào tạo nguồn nhân lực du lịch; Vùng du lịch; Nhân lực du lịch; Du lịch vùng; Trung<br />
du miền núi Bắc Bộ<br />
<br />
Phát triển du lịch – “Ngành công nghiệp<br />
không khói” để tăng trưởng kinh tế là hướng<br />
đi đúng đắn, được ưu tiên lựa chọn ở nhiều<br />
nước trên thế giới. Đặc biệt, với một nước<br />
giàu tài nguyên du lịch như nước ta, thì việc<br />
phát triển du lịch càng có ý nghĩa, tầm quan<br />
trọng lớn. Đó chẳng những là việc khai thác,<br />
phát huy tiềm năng, lợi thế của đất nước, mà<br />
còn là việc làm thiết thực để đẩy mạnh<br />
chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng kinh tế, tạo<br />
ra nhiều việc làm cho người lao động, cải<br />
thiện đời sống nhân dân, mở rộng và tăng<br />
cường giao lưu văn hóa giữa các vùng, miền<br />
trong nước, giữa nước ta với các nước trên<br />
thế giới...*<br />
Để phát triển du lịch, ngoài yếu tố tài nguyên<br />
du lịch, chính sách của Nhà nước, vốn đầu tư<br />
cơ sở vật chất kỹ thuật... thì việc đào tạo<br />
nguồn nhân lực cho Ngành để nhanh chóng<br />
có một đội ngũ những người làm du lịch có<br />
nghề, giỏi nghề là việc cấp thiết và có tầm<br />
quan trọng hàng đầu. Vậy thực trạng năng lực<br />
và kết quả đào tạo nguồn nhân lực du lịch cho<br />
Vùng trung du- miền núi Bắc Bộ hiện nay<br />
như thế nào? Cần có những giải pháp gì để<br />
đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân<br />
lực du lịch cho các địa phương và doanh<br />
nghiệp trên địa bàn này? Đó là vấn đề chúng<br />
tôi muốn đề cập trong bài viết.<br />
<br />
*<br />
<br />
Tel: 0912580531; Email: nqtientn@yahoo.com.vn<br />
<br />
Vùng du lịch Trung du miền núi Bắc Bộ<br />
(TDMNBB) theo Quyết định số 91/2008/QĐBVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2008 của<br />
Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch<br />
(phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du<br />
lịch vùng Trung du miền núi Bắc Bộ đến năm<br />
2020) gồm 14 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng<br />
Sơn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hà Giang,<br />
Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai,<br />
Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình[1], có<br />
diện tích hơn 95.460 km2 và số dân trên<br />
11,064 triệu người (kết quả tổng điều tra dân<br />
số 01- 4- 2009 do Tổng cục thống kê công<br />
bố), chiếm khoảng 28,8% diện tích tự nhiên<br />
và gần 12,9% dân số cả nước. Đây là một<br />
trong 7 vùng du lịch của đất nước, có tiềm<br />
năng, tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn<br />
rất phong phú, đa dạng, bao gồm: các vườn<br />
quốc gia (Hoàng Liên Sơn, Ba Bể...), các thác<br />
nước (Bản Giốc...), các hồ lớn trên núi (Núi<br />
Cốc, Ba Bể, Cẩm Sơn, Thác Bà...), nhiều đảo<br />
trên hồ, hang động, cổng trời, cao nguyên đá,<br />
rừng nguyên sinh, các di tích lịch sử (Điện<br />
Biên Phủ, Nhà tù Sơn La, Đền Hùng, An toàn<br />
khu Định Hóa, Tân Trào, hang Pác Bó...), các<br />
di tích văn hóa, lễ hội và phong tục tập quán<br />
của gần 40 dân tộc anh em. Khu vực này có<br />
thể phát triển các loại hình du lịch sinh thái,<br />
lịch sử- văn hóa, nghỉ dưỡng, thể thao mạo<br />
hiểm và du lịch quá cảnh. Tại đây sẽ hình<br />
thành các khu du lịch quốc gia có vai trò động<br />
41<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Quốc Tiến<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
lực thúc đẩy phát triển du lịch Vùng<br />
TDMNBB như: Pác Bó, Bản Giốc (Cao Bằng);<br />
Ba Bể (Bắc Kạn); Điện Biên Phủ, Pá KhoangMường Phăng (Điện Biên); Sa Pa (Lào Cai);<br />
Thác Bà (Yên Bái); Hồ Hòa Bình (Hòa Bình);<br />
Đền Hùng (Phú Thọ); ATK (Thái Nguyên,<br />
Tuyên Quang, Bắc Kan); Định Hóa (Thái<br />
Nguyên ), Mộc Châu (Sơn La). Mục tiêu phát<br />
triển du lịch của Vùng theo Quy hoạch là: Phấn<br />
đấu đến năm 2020 khách du lịch quốc tế đạt<br />
khoảng 1.600.000 lượt người, khách du lịch nội<br />
địa đạt khoảng 12.500.000 lượt người với thu<br />
nhập du lịch khoảng 1.300 triệu USD[1].<br />
Thực hiện được mục tiêu đó, ngành Du lịch<br />
vùng TDMNBB cần phải có một lực lượng<br />
lớn lao động qua đào tạo nghiệp vụ. Theo dự<br />
báo của Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch,<br />
thì số lao động trong Ngành phải qua đào tạo<br />
nghiệp vụ ở Khu vực năm 2011 là 27.330<br />
người, hàng năm tăng thêm từ 2.480 đến<br />
3.280 người, đến năm 2015 số lao động phải<br />
được đào tạo nghiệp vụ lên tới 38.510 người<br />
và đến 2020 con số này là 60.000 người.<br />
Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực du lịch nêu<br />
trên chỉ có thể được đáp ứng tốt qua hoạt<br />
động đào tạo, bồi dưỡng của các cơ sở đào tạo<br />
<br />
81(05): 41 - 44<br />
<br />
với sự quan tâm, giúp đỡ của các cơ quan<br />
quản lý Ngành ở trung ương và địa phương<br />
cùng sự ủng hộ thiết thực của các doanh<br />
nghiệp du lịch trên địa bàn. Vụ Đào tạo Bộ<br />
Văn hóa Thể thao và Du lịch cùng với các cơ<br />
sở đào tạo của Bộ và của các bộ ngành khác<br />
có đào tạo về khách sạn - du lịch trên địa bàn<br />
khu vực này đã có nhiều giải pháp để mở<br />
rộng ngành, nghề và quy mô đào tạo nhằm<br />
đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động qua đào<br />
tạo của các cơ quan, đơn vị trong ngành Du<br />
lịch ở đây. Song, qua nghiên cứu thực tế,<br />
chúng tôi thấy năng lực và kết quả đào tạo<br />
nguồn nhân lực du lịch của các cơ sở đào tạo<br />
trên địa bàn Vùng Trung du- miền núi Bắc Bộ<br />
hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng lao<br />
động qua đào tạo của Vùng.<br />
Theo thống kê của Vụ Đào tạo - Bộ Văn hóa,<br />
Thể thao và Du lịch, thì hiện nay trên địa bàn<br />
Vùng có 17 cơ sở tham gia đào tạo nguồn nhân<br />
lực du lịch, gồm 01 trường đại học, 12 trường<br />
cao đẳng, 04 trường trung cấp (xem biểu).Tuy<br />
nhiên, ngoài Trường Cao đẳng Thương mại<br />
và Du lịch - Bộ Công Thương đào tạo tất cả<br />
các chuyên ngành, nghề có trong ngành du<br />
lịch và có số lượng học sinh, sinh viên<br />
(HSSV) tương đối lớn, thì phần lớn các<br />
<br />
Cơ sở đào tạo du lịch Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ<br />
TỈNH<br />
1. Hòa Bình<br />
2. Sơn La<br />
3. Điện Biên<br />
4. Lai Châu<br />
5. Lào Cai<br />
6. Yên Bái<br />
7. Phú Thọ<br />
8. Hà Giang<br />
9.Tuyên Quang<br />
10. Cao Bằng<br />
11. Bắc Kạn<br />
12.Thái Nguyên<br />
<br />
13. Lạng Sơn<br />
<br />
CƠ SỞ ĐÀO TẠO<br />
Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình; Cao đẳng Văn hóa nghệ<br />
thuật Tây Bắc<br />
Cao đẳng Sơn La<br />
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên; Cao đẳng Sư<br />
phạm Điện Biên<br />
<br />
GHI CHÚ<br />
02 trường cao đẳng<br />
01 trường cao đẳng<br />
2 trường cao đẳng<br />
<br />
Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật<br />
Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật du lịch Yên Bái<br />
Cao đẳng Hóa chất; Đào tạo nghề: Trường Cao đẳng<br />
Kinh tế - Kỹ thuật Phú Thọ<br />
<br />
01 trường trung cấp<br />
01 cao đẳng<br />
02 cao đẳng<br />
<br />
Đại học KT&QTKD; Cao đẳng Công nghiệp thực<br />
phẩm; Cao đẳng Thương mại và du lịch; Cao đẳng<br />
VHNT Việt Bắc<br />
Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn; Trung cấp kinh tế Lạng<br />
sơn; Trung cấp Văn hóa nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn<br />
<br />
01 trường đại học,<br />
03 trường cao đẳng<br />
<br />
14. Bắc Giang<br />
Trung cấp Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Giang<br />
Nguồn: Vụ Đào tạo Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch<br />
<br />
01 trường cao đẳng<br />
(chuyên nghiêp),<br />
2 trường trung cấp<br />
1 trường trung cấp<br />
<br />
42<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Quốc Tiến<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
trường còn lại mới chỉ đào tạo một vài chuyên<br />
ngành thuộc ngành học QTKD (Nhà hàng,<br />
Khách Sạn, Lữ hành) hoặc ngành Việt Nam<br />
học (chuyên ngành Hướng dẫn du lịch) hoặc<br />
ngành Văn hóa (chuyên ngành Văn hóa du<br />
lịch)[2] với số lượng HSSV rất khiêm tốn,<br />
thậm chí có trường chỉ 20 - 30 HSSV/ khóa<br />
học. Với ngành nghề và quy mô đào tạo như<br />
thế, thì số HSSV tốt nghiệp các trường này và<br />
số lao động trong Ngành được đào tạo, bồi<br />
dưỡng ( kể cả đào tạo nghề ngắn hạn dưới 03<br />
tháng) hàng năm còn thấp xa so với nhu cầu<br />
sử dụng lao động qua đào tạo của Ngành trên<br />
địa bàn Khu vực. Thực trạng này đặt ra ba câu<br />
hỏi cần được giải đáp:<br />
1- Tại sao nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực<br />
của ngành Du lịch rất lớn, nhưng các trường<br />
đào tạo về du lịch vẫn khó tuyển sinh? Phải<br />
chăng nhận thức của nhiều doanh nghiệp và<br />
của xã hội về tầm quan trọng của ngành Du<br />
lịch và công tác đào tạo nguồn nhân lực cho<br />
ngành Du lịch vẫn còn bất cập? Phải chăng<br />
việc quảng bá tuyên truyền về ngành nghề đào<br />
tạo chưa đủ? Phải chăng chất lượng đào tạo<br />
chưa cao và việc sử dụng lao động qua đào tạo<br />
chưa được các doanh nghiệp coi trọng?...<br />
2- Làm thế nào để các em yêu thích và sẵn<br />
sàng theo học các nghề xã hội có nhu cầu rất<br />
cao, nhưng lại ít người học như Kỹ thuật chế<br />
biến sản phẩm ăn uống?<br />
3- Làm thế nào để tăng cường hợp tác giữa<br />
nhà trường và các sở quản lý Ngành, các<br />
doanh nghiệp trên địa bàn Khu vực trong việc<br />
đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực<br />
du lịch cho từng địa phương và cơ sở?<br />
Nhằm góp phần giải đáp những câu hỏi trên,<br />
chúng tôi có ý kiến sau: Du lịch là một ngành<br />
dịch vụ xã hội điển hình, phục vụ du khách ăn<br />
uống, nghỉ ngơi, tham quan các danh lam<br />
thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hóa và vui<br />
chơi, giải trí...Vì thế, yếu tố thu hút, thỏa mãn<br />
nhu cầu và để lại ấn tượng tốt đẹp trong du<br />
khách, ngoài chất lượng của những sản phẩm<br />
hàng hóa hữu hình, chính là yếu tố cơ sở vật<br />
chất kỹ thuật và con người phục vụ. Trong đó,<br />
yếu tố con người có tầm quan trọng hàng đầu.<br />
Người lao động trong ngành Du lịch, nhất là<br />
cán bộ, nhân viên phục vụ ở các nhà hàng,<br />
khách sạn, những hướng dẫn viên... ngoài cái<br />
<br />
81(05): 41 - 44<br />
<br />
đẹp về hình thể, trang phục, phải có cái đẹp<br />
về tâm hồn, đặc biệt là việc giao tiếp, ứng xử<br />
có văn hóa, phù hợp với từng loại du khách.<br />
Hơn thế, người trực tiếp phục vụ khách ăn,<br />
nghỉ, tham quan, vui chơi...phải nắm vững<br />
kiến thức và thành thạo kỹ năng nghề nghiệp<br />
(tính chuyên nghiệp cao) mới có thể phục vụ<br />
tốt khách hàng, chiếm được tình cảm, niềm<br />
tin của khách và để lại ấn tượng tốt đẹp trong<br />
họ. Muốn vậy, những người lao động này<br />
phải được tuyển chọn và đào tạo tốt. Song<br />
trên thực tế hiện nay, tỷ lệ cán bộ, nhân viên,<br />
nhất là nhân viên trực tiếp phục vụ khách ở<br />
các cơ sở kinh doanh trong Ngành, đã qua đào<br />
tạo còn thấp. Một số đáng kể chủ doanh<br />
nghiệp (chủ nhà hàng, nhà nghỉ...) chưa nhận<br />
thức rõ tầm quan trọng của việc sử dụng nhân<br />
viên qua đào tạo, kết hợp với tính cạnh tranh<br />
về chất lượng dịch vụ trên thị trường chưa<br />
cao, dẫn đến lối kinh doanh “ăn sổi”, đề cao<br />
lợi nhuận trước mắt, không chú trọng sự phát<br />
triển bền vững lâu dài, nên đã chủ động thuê<br />
mướn, sử dụng số lượng lớn người lao động<br />
chưa qua đào tạo để trả tiền lương, tiền công<br />
thấp và dễ thay đổi khi cần thiết. Điều này đã<br />
dẫn tới chất lượng dịch vụ kém, chẳng những<br />
để tiếng xấu cho các cơ sở kinh doanh đó, mà<br />
còn ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, hình<br />
ảnh chung của ngành Du lịch Việt Nam.<br />
Để khắc phục tình trạng trên, tăng nhanh số<br />
lượng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi<br />
dưỡng nguồn nhân lực du lịch cho Vùng,<br />
chúng tôi mạnh dạn đề nghị với các cơ quan<br />
quản lý ngành Du lịch các cấp và các cơ sở<br />
kinh doanh trong Ngành như sau:<br />
Một là, các cơ sở kinh doanh phải nhận thức<br />
rõ việc sử dụng lao động qua đào tạo để nâng<br />
cao chất lượng dịch vụ chẳng những là việc<br />
cần thiết để thu hút khách hàng, nâng cao hiệu<br />
quả kinh doanh của chính doanh nghiệp, mà<br />
còn là trách nhiệm đối với ngành Du lịch, với<br />
đất nước. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp<br />
cần có những giải pháp chủ động, tích cực để<br />
nâng cao tỷ lệ cán bộ, nhân viên qua đào tạo<br />
nghề nghiệp của doanh nghiệp mình.<br />
Hai là, việc sử dụng lao động, nhất là cán bộ<br />
nhân viên trực tiếp phục vụ trong các cơ sở<br />
kinh doanh nhà hàng ăn uống, khách sạn... có<br />
43<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Quốc Tiến<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
liên quan trực tiếp tới chất lượng phục vụ<br />
khách hàng, lợi ích người tiêu dùng, uy tín,<br />
hình ảnh của doanh nghiệp và của Ngành, nên<br />
phải được quản lý chặt chẽ. Nhà nước (trực<br />
tiếp là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) cần<br />
có quy định mang tính pháp quy về tiêu chuẩn<br />
người lao động trong các cơ sở kinh doanh<br />
của Ngành như phải có sức khỏe, không bệnh<br />
tật truyền nhiễm, ngoại hình khá và phải qua<br />
đào tạo nghề ít nhất từ 3 tháng trở lên (cấp<br />
chứng chỉ), coi đó là một trong những điều<br />
kiện kinh doanh bắt buộc (tương tự như kinh<br />
doanh xăng dầu, khí dầu mỏ hóa lỏng...). Có<br />
như vậy mới sớm tạo ra được đội ngũ nhân<br />
viên chuyên nghiệp ở các đơn vị kinh doanh<br />
trong Ngành và mới thực hiện được văn minh<br />
thương mại dịch vụ. Điều này được nhiều<br />
nước trên thế giới như Cộng hòa Liên bang<br />
Đức, Pháp, Mỹ... đã thực hiện từ lâu.<br />
Ba là, cần tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát<br />
của các cơ quan quản lý Ngành các cấp về việc<br />
thực hiện các điều kiện kinh doanh, nhất là<br />
điều kiện về người lao động được đào tạo, sức<br />
khỏe của họ... để đảm bảo tính chuyên nghiệp<br />
trong phục vụ và lợi ích người tiêu dùng.<br />
Bốn là, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan<br />
quản lý ngành Du lịch với các cơ quan quản<br />
lý Nhà nước về Giáo dục - Đào tạo (Bộ, Sở<br />
Giáo dục Đào tạo) và dạy nghề (Bộ, Sở<br />
LĐTB&XH) các cấp để tăng cường kiểm tra,<br />
phát hiện và loại bỏ những cơ sở đào tạo<br />
không đủ điều kiện (đội ngũ giáo viên, cơ sở<br />
vật chất kỹ thuật) đào tạo các ngành nghề về<br />
kinh doanh dịch vụ ăn uống, lưu trú, hướng<br />
<br />
81(05): 41 - 44<br />
<br />
dẫn du lịch... nhằm đảm bảo chất lượng đào<br />
tạo nguồn nhân lực cho Ngành.<br />
Năm là, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa<br />
các cơ sở kinh doanh trong Ngành với các cơ<br />
sở đào tạo nguồn nhân lực về du lịch để gắn<br />
kết giữa đào tạo với sử dụng người lao động.<br />
Trong mối quan hệ đó, các cơ sở kinh doanh<br />
sẽ cung cấp địa bàn thực tế, thực hành, thực<br />
tập cho học sinh, sinh viên, còn các nhà<br />
trường sẽ tìm hiểu nhu cầu, lắng nghe và tiếp<br />
thu ý kiến của các doanh nghiệp để đổi mới,<br />
hoàn thiện mục tiêu, nội dung chương trình,<br />
phương pháp đào tạo, cơ sở vật chất kỹ thuật<br />
và đội ngũ giảng viên nhằm nâng cao chất<br />
lượng, hiệu quả đào tạo và đáp ứng tốt hơn<br />
nhu cầu nguồn nhân lực qua đào tạo ở các<br />
trình độ khác nhau của các doanh nghiệp...<br />
Thực hiện được những giải pháp nêu trên,<br />
chúng ta có thể tin tưởng rằng sự nghiệp đào<br />
tạo nguồn nhân lực cho ngành Du lịch trên<br />
địa bàn trung du, miền núi phía Bắc cũng như<br />
trên phạm vi cả nước sẽ phát triển mạnh mẽ<br />
và đạt kết quả tốt.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Quyết định<br />
số 91/2008/QĐ-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm<br />
2008 của Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL phê duyệt<br />
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Vùng trung<br />
du miền núi Bắc Bộ đến năm 2020.<br />
[2]. Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, Kỷ yếu Hội<br />
thảo quốc gia lần thứ II “Đào tạo nhân lực du lịch<br />
theo nhu cầu xã hội”(gồm Báo cáo và Tập hợp<br />
tham luận), tài liệu do Bộ Văn hóa Thể thao và Du<br />
lịch phát hành, tháng 8-2010.<br />
<br />
SUMMARY<br />
WORKING OF TRAINING TOURISM HUMAN RESOURCESIN NORTHERN<br />
MOUNTAINOUS MIDLAND AND QUESTION SHOUL BE ANSWERED<br />
Nguyen Quoc Tien* - College of Trade and Tourism<br />
Training human resources for tourism development of tourist activities in the northern<br />
mountainous midland - one of seven regional tourism potential of our country is an urgent<br />
requirement. Currently, the demand for trained workers to the training needs of tourism human<br />
resources in this area is very large, but the real situation and the capacity of training results in the<br />
area are also far lower than the needs of local and regional enterprises. So, how to promote human<br />
resources training and tourism for the region? This paper has analyzed and proposed solutions in<br />
order to promote training to meet human resources needs of the local tourism and businesses here.<br />
Keywords: Training of human resources in tourism; tourism region; tourism human resources;<br />
tourism regions; the northern mountainous midland<br />
*<br />
<br />
Tel: 0912580531; Email: nqtientn@yahoo.com.vn<br />
<br />
44<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />