intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII (THÁNG 6-1991)_1

Chia sẻ: Trần Lê Kim Yến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

132
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo bài viết 'đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ vii (tháng 6-1991)_1', tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII (THÁNG 6-1991)_1

  1. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII (THÁNG 6-1991) Đại hội VII của Đảng đã được tiến hành qua hai bước: Đại hội nội bộ từ ngày 17 đến ngày 22-6-1991 và Đại hội công khai từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho trên hai triệu đảng viên. Nhận lời mời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta, các đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng Cộng sản Cu Ba và nhiều khách quốc tế đã tham dự Đại hội. Đại hội đã nghe đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đọc Diễn văn khai mạc và đọc Báo cáo chung về các văn kiện Đại hội, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Báo cáo chung nêu bật những vấn đề quan trọng sau đây: - Đảng ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và quyết tâm thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tư tưởng, chính trị và thực tiễn
  2. trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước bị khủng hoảng và sụp đổ. - Sự nghiệp phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt con người ở vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Chính sách kinh tế nhiều thành phần được thực hiện nhất quán; kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và phải được củng cố, phát triển; kinh tế tập thể cần được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động để đạt hiệu quả thiết thực. Áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tăng cường kinh tế gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Có chính sách công nghệ thích hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, vốn ít, lao động dư thừa. Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ - coi đó là quốc sách hàng đầu. - Đổi mới hệ thống chính trị giữ vai trò rất quan trọng trong công cuộc đổi mới và phải xác định đúng nội dung, bước đi thích hợp. Đảng là người lãnh đạo hệ thống chính trị. Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ phải gắn liền với tập trung, kỷ cương và kỷ luật; không chấp nhận chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. - Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan
  3. trọng thể hiện ở những tiến bộ về kinh tế, đời sống và dân chủ hoá xã hội, cũng như ở những thành tựu trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Mặc dù vậy, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội và không thể coi thường những nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị. - Mục tiêu của kế hoạch 5 năm tới là vượt qua những khó khăn gay gắt trước mắt, tăng cường ổn định chính trị, đưa đất nước cơ bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Phương hướng thực hiện nhiệm vụ trên là đoàn kết và động viên lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. - Về vấn đề Đảng, các văn kiện trình Đại hội đều khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thảo luận và thông qua, đã tổng kết tiến trình cách mạng
  4. Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và nêu ra những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo thắng lợi cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xác định rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Chế độ xã hội đó mang những đặc trưng: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được Đại hội thảo luận và thông qua đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000: đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho
  5. đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI, tăng tổng sản phẩm trong nước đến năm 2000 gấp đôi so với năm 1990. Chiến lược đề ra phương hướng đổi mới cơ cấu kinh tế, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chiến lược nêu rõ các chính sách và giải pháp về vốn và kinh tế đối ngoại, dân số và việc làm, văn hoá, giáo dục, khoa học, tài nguyên và môi trường; phương hướng cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác cán bộ. Báo cáo chính trị đánh giá tình hình đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội và đề ra những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995. Báo cáo nhận định: nhân tố quyết định đưa lại những thành tựu đổi mới là sự lãnh đạo kiên định, vững vàng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng và sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân. Báo cáo cũng chỉ rõ những mặt yếu kém, những khó khăn của đất nước biểu hiện tập trung ở tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; pháp luật, kỷ cương chưa được chấp hành nghiêm; an ninh, trật tự an toàn xã hội còn nhiều hiện tượng phức tạp, những yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị vẫn tồn tại. Báo cáo chính trị tổng kết bước khởi đầu tiến trình đổi mới, rút ra năm bài học kinh nghiệm; một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới;hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi và cách làm phù hợp; ba là, phát triển kinh tế
  6. hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội; bốn là, phát huy dân chủ phải được lãnh đạo tốt;năm là, trong quá trình đổi mới, phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát triển và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Báo cáo chính trị xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được trong những năm 1991 - 1995 là: tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nền kinh tế quốc dân; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số; ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân; tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hoạt động của Nhà nước; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng. Báo cáo về xây dựng Đảng xác định nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng là: phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, và phải gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới
  7. công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi), trong đó có nhiều điểm mới được bổ sung và sửa đổi, như tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng; giữa hai kỳ đại hội đại biểu, Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp (trừ Đảng bộ cơ sở) triệu tập hội nghị đại biểu; Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp chỉ có uỷ viên chính thức, không có uỷ viên dự khuyết, chức vụ Tổng Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Uỷ viên Bộ Chính trị. Đại hội đã bầu 146 đồng chí vào Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trọng trách là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương khoá VII.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2