intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ

Chia sẻ: Nguyễn Thế Dự | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:136

162
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ được nghiên cứu với mục đích đánh giá thực trạng hệ thống đê biển Nam Bộ; xác định quy luật diễn biến của dải ven biển Nam Bộ; xác định được các thông số kỹ thuật, giải pháp thi công đê biển Nam Bộ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ

  1.                                                        3 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Là một quốc gia với chiều dài bờ biển khoảng 3260 km, Việt Nam có một  lợi thế rất lớn trong việc phát triển kinh tế  biển và khai thác nguồn lợi từ  vùng   bãi ven bờ. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng phải gánh chịu những thiệt hại hết  sức nặng nề do thiên tai từ biển mang lại. Hàng năm, những cơn bão liên tiếp đổ  bộ từ biển vào đất liền đã mang đi một khối lượng lớn về tài sản, tính mạng con   người đồng thời để lại những thảm họa không nhỏ về môi trường mà nhiều năm  sau con người vẫn chưa khắc phục được. Trong những năm gần đây sự khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên của   con người làm cho khí hậu toàn cầu thay đổi. Nhiệt độ  trái đất ngày càng nóng   lên là vấn đề  thời sự  tạo ra mối quan tâm đặc biệt cho tất cả  các quốc gia trên  thế giới. Hậu quả của hiện tượng này là mực nước biển ngày càng dâng cao kéo  theo những thảm họa như bão biển, sóng thần, động đất … Một trong những biện pháp khắc phục những thiên tai đó được các nước  trên thế giới và Việt Nam áp dụng đã mang lại những hiệu quả rất thiết thực là   xây dựng hệ thống đê biển để phòng chống thiên tai, bảo vệ tính mạng và tài sản  của cư dân vùng ven biển. Vùng ven biển Nam Bộ  từ  Bà Rịa ­ Vũng Tàu đến Kiên Giang là vùng đa   dạng về  sinh thái, có vai trò lớn trong sự  phát triển kinh tế  của của miền Nam   cũng như  của cả  nước. Dù vậy, tiềm năng kinh tế  đa dạng của vùng này vẫn  chưa được khai thác tương xứng, kém ổn định, vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro do   thiên tai. Một trong những nguyên nhân là hệ thống đê biển được hình thành qua   nhiều thế  hệ  với quy mô, nhiệm vụ, chức năng ở  từng thời kỳ  khác nhau, việc  xây dựng mang tính chắp vá, hiện tại chưa  đủ  khả  năng chống triều cường,   nước biển dâng, để bảo vệ sản xuất và đời sống của nhân dân. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  2.                                                        4 Vì vậy, việc xây dựng hệ  thống đê biển, đê ngăn mặn cửa sông Nam Bộ  hoàn chỉnh, đồng bộ với quy mô công trình có khả năng giảm nhẹ thiên tai là một   nhu cầu cấp thiết nhằm ứng phó với những thay đổi về khí hậu toàn cầu, bảo vệ  sự phát triển bền vững cho sản xuất và ổn định đời sống nhân dân trong vùng.  Để hệ thống đê biển làm việc ổn định, an toàn và phát huy hiệu quả phòng  chống thiên tai đồng thời tiết kiệm kinh phí đầu tư  xây dựng cần phải nghiên  cứu các giải pháp xây dựng dựa trên các căn cứ khoa học. 2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI ­ Đánh giá thực trạng hệ thống đê biển Nam Bộ; ­ Xác định quy luật diễn biến của dải ven biển Nam Bộ; ­ Xác định được các thông số kỹ thuật, giải pháp thi công đê biển Nam Bộ. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Toàn bộ tuyến đê biển từ Bà Rịa – Vũng Tàu đến Kiên Giang, trong đó tập   trung nghiên cứu một số đoạn điển hình, đại diện cho từng khu vực. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ­ Điều tra, thu thập, hệ thống hóa các tài liệu cơ bản phục vụ nghiên cứu; ­ Kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây; ­ Nghiên cứu lý thuyết cơ bản; ­ Sử dụng các phần mềm tin học hiện đại. 5. KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC ­ Đưa ra được bức tranh toàn cảnh về thực trạng hệ thống đê biển Nam Bộ. ­ Kiến nghị vị trí tuyến, quy mô công trình và các thông số kỹ thuật đê biển   Nam Bộ. ­ Đề xuất kỹ thuật xây dựng đê biển Nam Bộ qua từng thời kỳ. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  3.                                                        5 CHƯƠNG I GIỚI THIỆU CHUNG 1.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG ĐÊ BIỂN 1.1.1. Đê biển và giảm nhẹ thiên tai Trong vài thập niên gần đây khí hậu toàn cầu có sự  biến đổi mạnh khiến   cho ngày càng có nhiều tác động bất lợi đến môi trường sinh thái của trái đất.   Một trong những hậu quả  của sự  thay đổi khí hậu toàn cầu đó là hiện tượng   nước biển dâng. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do  ảnh hưởng của   hiệu ứng nhà kính dẫn đến sự nóng dần lên của Trái đất, khiến cho các dải băng   ở Bắc Cực tan nhanh hơn, nhiều nơi dải băng tan tới hơn 1 mét mỗi tháng; ngòai  ra việc khai thác nước ngầm đang ngày càng gia tăng, đặc biệt tại các đô thị lớn,   làm mặt đất bị  sụt lún. Theo cảnh báo của Liên hiệp quốc thì Việt Nam có thể  chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của hiện tượng tan băng [15]. Theo tính toán, nếu mực nước biển toàn cầu tăng thêm 1 mét, Việt Nam sẽ  phải đối mặt với mức thiệt hại lên tới 17 tỷ  USD/năm; 1/5 dân số  sẽ  mất nhà   cửa và 12,3% diện tích đất trồng trọt của cả nước sẽ biến mất; 40.000 km² diện   tích đồng bằng và 17 km² diện tích bờ  biển  ở  khu vực các tỉnh lưu vực sông  Mêkông sẽ chịu tác động của những trận lũ ở  mức độ  không thể dự  đoán được.  Theo các nhà khoa học, tại Việt Nam trong năm thập niên gần đây, hiện tượng  Enso (hiện tượng nhiễu động nhiệt độ  của nước biển vùng xích đạo Thái Bình  Dương) ngày càng có tác động mạnh mẽ  đến chế  độ  thời tiết và đặc trưng khí   hậu trên nhiều khu vực. Dự báo nhiệt độ sẽ tăng tại các tỉnh miền Nam từ 0,1 ÷  0,50C vào năm 2010, từ 0,4 ÷ 30C (năm 2070) và tại miền Bắc từ 0,3 ÷ 0,70C (năm  2010) và từ  1,2÷4,50C (năm 2070). Mực nước biển dự  báo sẽ  dâng cao thêm  3÷15cm (năm 2010) và từ 15÷90cm (năm 2070). Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  4.                                                        6 Hình 1.1: Bản đồ dự báo các vùng ảnh hưởng nước biển dâng  ở Đồng bằng Sông Cửu Long (Nguồn: ICEM) Cũng liên quan đến sự thay đổi khí hậu toàn cầu đã khiến cho ngày càng có   nhiều dạng thiên tai xảy ra như: bão, động đất, sóng thần, sạt lở..., với tần suất   xuất hiện nhiều, cường độ  lớn cũng như  diễn biến khó lường, không tuân theo  quy luật nào. Do vậy thiệt hại do thiên tai gây ra là rất lớn, theo thống kê chưa   đầy đủ trong những năm gần đây chúng ta đã phải chứng kiến các thảm họa như:  cơn bão Linda (bão số 5) tháng 11/1997 đổ bộ vào Nam Bộ làm 445 người chết,   3.409 người bị  mất tích, 857 người bị  thương, 3.783 tàu thuyền bị  chìm, 22.000  ngôi nhà bị  phá hủy, tổng thiệt hại về vật chất lên tới 5.569 tỷ  đồng. Đợt sóng  thần xảy ra vào cuối năm 2004  ở   vùng Nam Á và Đông Nam Á, làm chết hơn   200.000 người, 2 triệu người mất nhà cửa, tổng thiệt hại lên tới nhiều tỷ  USD.   Trận bão Katrina đổ  bộ  vào nước Mỹ  cuối tháng 8/2005 với sức gió mạnh nhất   Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  5.                                                        7 lên tới 240 km/h đã cướp đi mạng sống của hàng trăm người, đã gây thiệt hại về  vật chất lên tới 100 tỷ  USD. Năm 2005 được xem là mốc quan trọng của Việt  Nam trong công tác phòng chống thiên tai từ  phía biển. Liên tiếp các cơn bão số  2, 4, và 6 đổ bộ vào các tỉnh miền Bắc trong vòng 3 tháng đã làm suy yếu đáng kể  sức chống đỡ  của toàn hệ  thống đê biển. Tiếp theo đó, cơn bão số  7 (Damrey)   tháng 9/2005 đổ  bộ  vào các tỉnh từ  Quảng Ninh đến Nghệ  An, nước dâng kết  hợp với triều cường và sóng lớn đã gây vỡ đê và ngập lụt tại nhiều nơi thuộc các   tỉnh Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hóa, gây ra hậu quả nặng nề về kinh tế của   toàn vùng. Gần đây nhất là cơn bão Durian (số 9) được hình thành ở  ổ  bão Bắc   Thái Bình Dương vào ngày 26­11­2006 và kết thúc  ở  Vịnh Thái Lan ngày 5­12­ 2006. Bão Durian với quỹ đạo đường di chuyển bất thường, không tuân theo quy   luật nào đã gây thiệt hại lớn cho các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, khiến cho  hàng trăm km đê biển bị  hư  hỏng, mùa màng bị  thiệt hại, hàng ngàn căn nhà bị  sập và tốc mái, nhiều công trình công cộng như: đường giao thông, đường điện,   trụ sở, trường học... bị tàn phá. Ước tính thiệt hại do cơn bão số 9 gây ra lên đến  hàng trăm tỷ đồng [3]. Tất cả những thiệt hại do thiên tai gây ra nói trên đối với Việt Nam đều có  thể giảm nhẹ nếu như chúng ta có hệ thống đê biển vững chắc, với quy mô, kích  thước công trình đủ lớn để đủ sức chống chọi với thiên tai. Nhận thức được vai  trò quan trọng của hệ thống đê biển, qua nhiều thế hệ, cha ông chúng ta đã xây  dựng, củng cố, nâng cấp hệ  thống đê biển từ  những năm xa xưa cho đến ngày   này. Chính vì vậy mà các thảm họa nêu trên đã được giảm thiểu, đã được ngăn  chặn  ở  nhiều nơi, không cho nước biển tràn vào tàn phá nhà cửa, đất đai, hoa   màu và cơ sở hạ tầng vùng ven biển. Để đối mặt với những ảnh hưởng bất lợi   của thời tiết và các hiện tượng tự  nhiên bất thường có thể  xảy ra, trong những  năm tới nước ta cần phải tiếp tục chú ý hơn nữa đến công tác đê điều và phòng   chống lụt bão, thông qua việc nâng cấp duy tu và bảo trì hệ  thống đê hiện có,  nghiên cứu làm mới các hệ  thống đê cần thiết tại những khu vực xung yếu cần  Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  6.                                                        8 bảo vệ. Việc tiến hành nâng cấp và xây mới hệ  thống đê biển cần được tiến   hành trên cơ  sở các nghiên cứu chuyên ngành cụ  thể  về  tiêu chuẩn an toàn, tính   khả thi, tính thực tiễn liên quan đến các khía cạnh kinh tế và kỹ thuật, gắn liền   với chiến lược phát triển chung của từng vùng, từng khu vực và toàn quốc. 1.1.2. Đê biển và “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” Vừa qua tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X)  cũng đã đưa ra nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Trong   Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu để  nước ta trở  thành  một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc   gia trên biển, góp phần giữ  vững  ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt   chẽ giữa phát triển kinh tế ­ xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ  môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển   kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt   động kinh tế  biển làm động lực quan trọng đối với sự  phát triển của cả  nước.   Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế  biển đóng góp khoảng 53­55% GDP, 55­60%  kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề  xã hội, cải thiện   một bước đáng kể  đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển. Để  đạt được  những mục tiêu này, cần thấy rõ nhiệm vụ của hệ thống đê biển trong tương lai. + Hệ  thống đê biển là tiền đề  để  hình thành và phát triển các đô thị  ven  biển, các trung tâm phát triển kinh tế biển. Trước hết, cần phải khai thác lợi thế  và phát triển du lịch biển trên hàng nghìn ki­lô­mét bờ  biển, ngành công nghiệp  sạch mà thiên nhiên đã ban tặng tiềm năng cho Việt Nam, một lợi thế không nhỏ  so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng phục vụ  cho phát triển   du lịch hiện nay còn yếu kém, đặc biệt là giao thông. Do vậy cần xây dựng một   hệ thống đê biển vững chắc, vừa kết hợp làm đường giao thông, vừa làm lá chắn  chống ngập lụt, bảo vệ dân cư và cơ sở hạ tầng các trung tâm du lịch, các đô thị  ven biển trong tương lai. Hệ  thống đê biển này sẽ  trở  thành con đường huyết   Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  7.                                                        9 mạch, liên lạc giữa các đô thị ven biển, đồng thời là tuyến phòng thủ bảo đảm an   ninh quốc phòng. + Hệ thống đê biển khép kín sẽ bảo vệ an toàn cho dải ven biển của các địa   phương, phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp và nuôi  trồng thủy sản. Các công trình thủy lợi dưới đê biển (như cống, âu thuyền …) sẽ  đảm nhiệm chức năng chủ động điều tiết nước ngọt, mặn phù hợp với từng giai  đọan phát triển kinh tế nông nghiệp và thủy sản, góp phần xóa đói, giảm nghèo  và phát triển kinh tế bền vững cho các địa phương.  Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ  bờ  biển và phòng   chống lũ từ phía biển, Chính phủ đã quyết định lập kế hoạch đầu tư một chương   trình cấp quốc gia về  xây dựng và củng cố  hệ  thống đê biển  (“Chương trình   Nhà nước về  xây dựng và nâng cấp hệ  thống đê biển”). Theo đó, từ  2005 đến  năm 2020 Nhà nước đầu tư trên 10 nghìn tỉ đồng cho việc xây dựng nâng cấp và   làm mới các tuyến đê biển. Để  việc xây dựng hệ  thống đê biển có đủ  căn cứ  khoa học, Nhà nước đã giao cho Bộ  NN&PTNT chủ  trì thực hiện một chương  trình nghiên cứu phục vụ xây dựng hệ thống đê biển, bao gồm 2 giai đoạn:  Giai đoạn 1: Chương trình khoa học công nghệ  phục vụ xây dựng đê biển   và công trình thủy lợi vùng cửa sông ven biển; Phạm vi thực hiện của giai đoạn 1   bao gồm các địa phương có đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam; Giai đoạn 2: Chương trình củng cố, nâng cấp và xây dựng mới đê biển các  tỉnh từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang; Các đề  tài của giai đoạn 1 đã và đang được thực hiện, các đề  tài của giai   đoạn 2 mới trong giai đoạn đề xuất. Do những vai trò to lớn đã nêu trên, việc đầu tư xây dựng hệ thống đê biển  Nam Bộ đúng yêu cầu kỹ thuật, đáp  ứng được mục đích đặt ra, tạo tiền đề  để  phát triển bền vững và ổn định đời sống của nhân dân vùng ven biển nói riêng và   cả nước nói chung là rất cấp thiết. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  8.                                                        10 1.2.   TÌNH   HÌNH  NGHIÊN   CỨU   VÀ   XÂY   DỰNG   ĐÊ   BIỂN   TRONG   VÀ   NGOÀI NƯỚC 1.2.1. Tình hình xây dựng đê biển trên thế giới Tổ hợp đê và các hạng mục khác trong hệ thống công trình phòng chống các  hiểm họa do thiên tai gây ra từ biển được các quốc gia trên thế  giới, đặc biệt là  các quốc gia có biển quan tâm. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm tự  nhiên, khí  hậu, địa hình và trình độ phát triển của mỗi quốc gia mà các hệ thống này được  phát triển ở mức độ khác nhau. Hà Lan là một đất nước có đến 2/3 diện tích thấp hơn mực nước biển, vì   vậy sự bền vững của các hệ thống đê biển là vấn đề sống còn đối với người Hà  Lan. Chính vì lẽ  đó họ  đã bằng mọi cách bảo vệ  vững chắc hệ thống đê trước   tác động  của thiên nhiên. Sau thảm họa đê biển năm 1953, chính phủ Hà Lan đã  có những chính sách quan tâm đặc biệt tới hệ thống này như  đê là công trình có   cấp đặc biệt cao; Với đê sông thông thường, tần suất thiết kế  là (1:1.250); hệ  thống đê biển được thiết kế với tần suất thấp hơn (1:10.000), thậm chí thấp hơn   nữa.  Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  9.                                                        11 Hình 1.2: Bản đồ phân vùng tần suất thiết kế đê biển Hà Lan  Đê biển được xây dựng sao cho không cho phép nước tràn dưới tác động  của sóng bão; kết cấu của đê được đặc biệt quan tâm và được kiểm soát rất chặt  chẽ  về  chất lượng trong quá trình xây dựng thông qua một  ủy ban riêng thuộc  Nhà nước. Đê thường có cả  cơ  ngoài và cơ  trong kết hợp giao thông. Tùy theo   mức   độ   quan   trọng   mà   kết   cấu  của đê cũng khác nhau. Chẳng hạn  đê   không   trực   diện   với   biển  thường là đê đất với lõi đất hoặc  lõi cát bảo vệ  bằng đất sét, ngoài  Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  10.                                                        12 trồng cỏ  cả  mái trong và mái ngoài, tần suất thiết kế  cũng thấp hơn. Đối với   những đê trực diện với biển thì lõi không khác so với những đê khác, nhưng nền   đê được xử  lý và gia cố  rất cẩn thận, lớp bảo vệ  khá đặc biệt. Đó là các khối   bảo vệ  có xu hướng chuyển từ  dạng “bản” như  đang được sử  dụng phổ  biến   hiện nay sang dạng cột để  tăng  ổn định và dễ  sửa chữa khi có sự  cố. Kết cấu  của đê có xu thế  mở  rộng với việc bố trí cơ  ngoài đủ  lớn để  chiết giảm tối đa   năng lượng sóng leo và sóng tràn đỉnh, đồng thời đó cũng là đường giao thông kết   hợp đường sửa chữa, bảo dưỡng đê khi cần thiết. Việc bảo vệ mái ngoài và chân  đê cũng được xem là đặc biệt quan trọng trong xây dựng đê biển. Tại những   vùng có tác động sóng lớn, bảo vệ  mái ngoài đê và chân đê thường được tăng   cường bằng lớp vỏ hợp bởi các cấu kiện bê tông đúc sẵn, có thể  theo hình thức   loại   kết   cấu   tự   chèn   hoặc   các   khối   hình   lập   phương   (ví   dụ   như:   Tetrapod,   Accrepod, X­block hay Cube), với khối lượng từ  vài tấn đến vài chục tấn thả  phía bãi trước để triệt tiêu bớt năng lượng sóng trước khi sóng vào đến đê.  Hình 1.3: Đê biển kết hợp giao thông ở Hà Lan Hệ  thống đê biển của Mỹ  đa dạng hơn do địa hình nước này không giống  Hà Lan. Chính vì vậy chiến lược phòng chống thiên tai của Mỹ cũng khác dẫn tới  kết cấu của đê cũng khác. Ngoài những thành phố quan trọng ven biển thì dải bờ  biển rộng lớn của nước Mỹ  là những khu vực không quá đông dân cư, đất lại  rộng nên chiến lược đối với các vùng này là xây dựng một cơ sở hạ tầng rất tốt   với hệ thống đường giao thông rộng, nhiều làn, nhiều kiểu để nếu rủi ro xảy ra   thì sơ tán ra khỏi vùng nguy hiểm rất nhanh. Vì vậy, kết cấu đê biển không quá  kiên cố như ở Hà Lan. Xu thế “tự nhiên” tác động ít nhất tới môi trường cũng là  quan điểm phát triển của Mỹ. Các nước gần chúng ta thì Nhật Bản có hệ thống đê biển khá đặc biệt. Là  quốc gia có bốn mặt là biển, thường xuyên bị  động đất, sóng thần đe dọa với   nguy cơ phá hoại hệ thống đê điều rất lớn nên Nhật Bản cũng đặc biệt quan tâm   Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  11.                                                        13 tới đê cửa sông và đê biển mặc dầu đất đai của Nhật Bản hầu hết cao hơn mực   nước biển.  Ở  đất nước này, qui định thiết kế  với từng loại đê theo cấp công   trình được giám sát chặt chẽ. Đê cũng là một công trình đa mục tiêu, trong đó vấn   đề  giao thông được  ưu tiên hàng đầu, chính vì vậy đê biển của Nhật Bản cũng  rất chỉnh thể. Một đặc điểm quan trọng của hệ thống đê biển của các nước phát triển là  công nghệ xây dựng rất tiên tiến; qui trình công nghệ  được đảm bảo. Máy móc  được áp dụng trong mọi khâu của quá trình từ  khảo sát, thiết kế, xây dựng, vận  hành và bảo dưỡng nên những hỏng hóc nhỏ  trong điều kiện bình thường rất ít   xảy ra, trừ những sự cố thiên tai lớn mà thôi. Ở  những nước như: Hà Lan, Đức, Bỉ, Anh, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản.   Ngoài việc tăng cường hệ thống đê biển thì việc duy trì bãi trước như  một giải  pháp không chỉ  giúp tăng an toàn cho đê mà còn là chiến lược phát triển du lịch   biển, vì vậy, người ta quan tâm đến những giải pháp mềm như: nuôi bãi, trồng  rừng ngập mặn v.v... Các đội tàu hút cát hoạt động thường xuyên làm rộng các  bãi tắm, tạo thêm cảnh quan, dải đất ven biển được trồng cây chắn sóng, bài  toán phát triển bền vững môi trường sinh thái biển luôn được đặt ra trong các dự  án phát triển. 1.2.2. Tình hình xây dựng đê biển trong nước Đường bờ biển nước ta trải dài từ  Bắc tới Nam đi qua nhiều vùng với các   điều kiện địa chất, thủy văn và khí hậu khác nhau, chính vì vậy mà hệ thống đê   biển  ở  mỗi vùng đều có đặc thù riêng về  quy mô, kiến trúc, cũng như  mức độ  quan trọng. Đê biển Việt Nam bao gồm các hệ thống chính như sau: 1.2.2.1. Hệ thống đê biển và đê cửa sông vùng đồng bằng Bắc Bộ (từ Quảng   Ninh  đến Ninh Bình) Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  12.                                                        14 Được xây dựng bồi trúc, phát triển theo thời gian và do rất nhiều thế  hệ  thực hiện. Đê chủ  yếu là đê đất, vật liệu lấy tại chỗ  và người địa phương tự  đắp bằng những phương pháp thủ công.  Hình 1.4: Thi công đê biển Hải Hậu Hệ thống đê biển hình thành từ kinh nghiệm của cha ông chúng ta khi thấy  rằng điều kiện mở đất có thể bắt đầu được là tiến hành. Chính vì vậy, đê không   thành tuyến rõ ràng mà là các đoạn nằm giữa các cửa sông. Có những địa phương   chỉ  trong vòng một thế  kỷ  đã có nhiều  lần lấn đê phát triển ra ngoài, mà cho  đến nay vẫn còn tồn tại những tuyến  đó như  đê huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo  (Hải Phòng); đê Thái Thụy, Tiền Hải  (Thái Bình),  đê  Kim  Sơn  (Ninh Bình)  v.v... Hình 1.5: Đê biển Hải Hậu – Nam Định bị tàn phá do bão Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  13.                                                        15 1.2.2.2. Vùng ven biển Bắc Trung Bộ (Từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh) Theo thống kê chiều dài các tuyến đê biển, đê cửa sông khu vực Bắc Trung   Bộ khoảng 406 km. Mặc dù đã được quan tâm đầu tư khôi phục, nâng cấp thông  qua dự  án PAM 4617, OXFAM, EC, CARE, ADB, tuy nhiên quy mô tuyến đê  biển vùng này nhìn chung là thấp nhỏ, khi có bão lớn thường xảy ra hiện tượng  tràn và vỡ đê. Một số tồn tại chính của tuyến đê biển Bắc Trung Bộ như sau: ­ Còn khoảng 223km/406km đê biển, đê cửa sông thấp nhỏ, chưa đủ  cao  trình chống lũ, nước tràn thường xuyên khi có bão hoặc gió mùa duy trì dài ngày. ­ Chiều rộng mặt  đê khoảng 2 ÷ 2,5m, số  đoạn có chiều rộng trên 3m  khoảng 200km gây khó khăn trong việc duy tu bảo dưỡng, đặc biệt trong những  trận bão gây sạt lở  hay vỡ đê. Mặt khác, nếu coi đê là một tuyến giao thông thì   cũng chưa đạt được mục đích. Đây cũng là một vấn đề  được đặt ra trong việc   phát triển kinh tế vùng biển. Một khi cơ sở hạ tầng giao thông đủ mạnh thì mới   có cơ hội phát triển kinh tế và là điều kiện đầu tư trở lại cho nâng cấp, củng cố  hệ thống đê biển sẵn có. ­ Lõi đê gồm phần lớn là đất cát, phần gia cố  bằng lớp đất sét bao bên  ngoài lại không đủ  dày, không đảm bảo các chỉ  tiêu cơ  lý đất đắp, nên chỉ  cần  một hư hỏng cục bộ sẽ dẫn tới hậu quả sẽ phá hỏng cả một đoạn đê lớn. Thực  tế cho thấy rằng, khi gặp bão có nước tràn là đê bị vỡ nhiều đoạn. ­ Mặt đê mới được gia cố  cứng hóa một phần, về  mùa mưa bão mặt đê  thường bị sạt lở, lầy lội nhiều đoạn không thể đi lại được. ­ Mái phía biển nhiều nơi chưa được bảo  vệ, vẫn thường xuyên có nguy cơ  sạt lở  đe dọa đến an toàn của đê, đặc biệt trong  Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  14.                                                        16 mùa mưa bão. Mái đê phía đồng chưa được bảo vệ nên nhiều đoạn bị xói, sạt khi  mưa lớn hoặc sóng tràn qua. Hình 1.6: Tuyến đê biển Hậu Lộc ­ Dải cây chắn sóng trước đê biển tuy đã được quan tâm bảo vệ, nhưng do   đặc điểm khu vực có độ phì kém, cây khó phát triển, thêm vào đó ý thức bảo vệ  của dân địa phương chưa tốt dẫn đến hiệu quả  bảo vệ  của lớp đệm bãi trước  chưa cao trong khi bãi biển ở một số đoạn có xu hướng bào mòn, hạ thấp gây sạt  lở  chân kè, đe dọa đến an toàn của đê biển như  đoạn Ninh Phú, Hậu Lộc (tỉnh   Thanh Hóa), đoạn kè Cẩm Nhượng, đê Hội Thống (tỉnh Hà Tĩnh). ­ Một vấn đề tồn tại lớn đối với tuyến đê biển Bắc Trung Bộ là hệ  thống   cống dưới đê rất nhiều về  số  lượng, hầu hết được xây dựng từ  vài chục năm  trước đây với kết cấu tạm bợ  và đang bị  xuống cấp nghiêm trọng. Cần có quy   hoạch lại, sửa chữa và xây dựng mới để  đảm bảo an toàn cho đê, phù hợp với  quy hoạch chung về phát triển sản xuất. 1.2.2.3. Vùng ven biển Trung Trung Bộ (Từ Quảng Bình đến Quảng Nam)  Nằm kẹp giữa các cửa sông mà lưu vực chủ  yếu nằm gọn trong lãnh thổ  nước ta. Đất liền được bảo vệ bởi hệ thống đê khá nhỏ xung quanh các cửa sông   và một phần bờ biển. Phần lớn dải bờ biển được bảo vệ bởi các đụn cát, có nơi   cao đến 30 ÷ 50 m như  ở Quảng Bình, Quảng Trị, Bắc Thừa Thiên ­ Huế, rộng   tới hàng vài trăm mét, hoặc với cả  cây số  như   ở  Quảng Bình, Quảng Trị. Đê  thông thường chỉ có cao trình tới 3 ÷ 3.5 m và cho phép nước tràn. Đê biển ngắn,   bị chia cắt bởi các sông, rạch, địa hình đồi cát ven biển và bảo vệ một diện tích   canh tác nhỏ hẹp dọc theo đầm phá. Đê biển, đê cửa sông khu vực Trung Trung   Bộ có tổng chiều dài khoảng 560 km với nhiệm vụ ngăn mặn, giữ ngọt, chống lũ  tiểu mãn hoặc lũ sớm bảo vệ sản xuất hai vụ lúa đông xuân và hè thu, đồng thời   phải đảm bảo tiêu thoát nhanh lũ chính vụ. Một số tuyến đê bảo vệ các khu nuôi  trồng thủy sản. Đa số các tuyến đê biển bảo vệ diện tích canh tác nhỏ dưới 3000   Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  15.                                                        17 ha. Chính vì vậy, đê không cao, nhưng cần phải gia cố ba mặt để chống hư hỏng   khi lũ tràn. Phần lớn các tuyến đê được đắp bằng đất thịt nhẹ  pha cát, một số  tuyến  nằm sâu so với cửa sông và đầm phá đất thân đê là đất sét pha cát như  đê Tả  Gianh (Quảng Bình) đê Vĩnh Thái (Quảng Trị),... một số đoạn đê đã được bảo vệ  3 mặt hoặc 2 mặt bằng tấm bê tông để  cho lũ tràn qua như  tấm đê phá Tam   Giang (Thừa Thiên Huế), đê hữu Nhật Lệ  (Quảng Bình),... ngoài các đoạn đê  trực tiếp chịu tác động của sóng, gió được xây dựng kè bảo vệ, hầu hết mái đê   được bảo vệ  bằng cỏ, đê vùng cửa sông được bảo vệ  bằng cây chắn sóng với   các loại cây sú, vẹt, đước. Một số  tồn tại chính của các tuyến đê biển Trung  Trung Bộ như sau: ­ Còn 240 km/ 560 km đê biển, đê cửa sông chưa được đầu tư  tu bổ  nâng  cấp nên còn thấp nhỏ, chưa đảm bảo cao độ phong lũ yêu cầu. ­ Trừ  đoạn đê thuộc thuộc thành phố  Đà Nẵng có chiều rộng mặt đê trên   4,0m, còn lại hầu hết bề rộng mặt đê nhỏ hơn 3.5m, thậm chí có đến 272km mặt  đê chỉ rộng 1.5 ÷ 2.0m. Chiều rộng mặt đê nhỏ  gây khó khăn rất lớn trong việc   kết hợp giao thông bộ cũng như cứu hộ đê. ­ Toàn bộ  mặt đê chưa được gia cố  cứng hóa, về  mùa mưa bão mặt đê  thường bị lầy lội nhiều đoạn không thể đi lại được. ­ Đến nay mới có khoảng 165km/560km có kè bảo vệ mái, phần lớn mái đê  phía biển chưa được bảo vệ, hoặc lớp bảo vệ chưa đủ  kiên cố nên vẫn thường  bị sạt lở đe dọa đến an toàn của các tuyến đê biển. Một số đoạn đê thuộc Thừa   Thiên ­ Huế, Quảng Nam được gia cố  3 mặt trong các dự  án đầu tư  nâng cấp  trong những năm qua. ­ Cũng như  vùng Bắc Trung Bộ, số  lượng cống dưới đê rất lớn và được   xây dựng từ vài chục năm trước với kết cấu tạm bợ, nhiều cống kiên cố  không  có tường cánh mà đắp bằng đất. Nhiều cống không còn phù hợp với quy hoạch  Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  16.                                                        18 sản xuất, ngoài một số  cống được tu bổ, nâng cấp thông qua dự  án PAM 4617,   hầu hết các cống còn lại đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Cần có quy hoạch lại,   sửa chữa và xây dựng mới để  đảm bảo an toàn cho đê, phù hợp với quy hoạch  chung về phát triển sản xuất. 1.2.2.4. Đê biển Nam Trung Bộ Vùng Nam Trung Bộ đã hình thành một số tuyến đê ven biển, đê cửa sông   khá sớm như: Đê Đông tỉnh Bình Định với chiều dài hơn 40km, được xây dựng từ  những năm 1930;   đê Xuân Hòa, Xuân Hải được xây dựng phía trong đầm Cù   Mông tỉnh Phú Yên được xây dựng và bồi trúc trong những năm 1956­1958; đê  Ninh Giang, Ninh Phú huyện Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa được đắp trước năm  1975. Còn lại các tuyến đê khác  ở  các tỉnh Nam Trung bộ  phần lớn được hình  thành sau những năm 1975. Hệ thống đê biển, đê cửa sông ở khu vực này thường  ngắn và bị chia cắt bởi các cửa sông, đầm phá, dãy núi hoặc đồi cát. Các tuyến đê  được hình thành chủ  yếu do người dân tự  đắp, mang tính tự  phát, xuất phát từ  những bức xúc bảo vệ mùa vụ, đất đai sản xuất nông nghiệp, lập thành vành đai  dân cư  cho từng làng, xóm riêng lẻ  cũng như  lấn biển để  nuôi trồng thủy sản.   Chính vì vậy đê biển  ở  khu vực này khá tạm bợ  và manh mún, chỉ  có một số  ít   đoạn đê được Nhà nước đầu tư  xây dựng có kết cấu khá vững chắc, một số  đoạn đê được lát bê tông cả 3 mặt nhằm vừa đảm bảo chống triều cường, ngăn  mặn vừa đảm bảo yêu cầu thoát lũ. Tiêu biểu cho các tuyến đê được xây dựng  trong giai đoạn sau 1975 là : ­ Đê Bình Chánh, Bình Dương với chiều dài gần 10km thuộc huyện Bình  Sơn tỉnh Quảng Ngãi được xây dựng và đắp bồi trúc những năm 1993÷2002; sau  đó năm 2005 được hoàn thiện và kiên cố hóa, đê được lát bêtông 3 mặt từ nguồn   vốn ODA không hoàn lại do chính phủ Úc tài trợ. ­ Từ  năm 1999 ÷ 2006 các tuyến đê thuộc huyện Mộ Đức, Đức Phong tỉnh  Quảng Ngãi được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Trung ương. Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  17.                                                        19 ­ Đê kè Bắc sông Đà Rằng thành phố Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, xây dựng năm  2002, với chiều dài tuyến 3,2km. Đê được kết hợp làm đường giao thông và  chỉnh trang đô thị. ­ Đê kè Trần Phú thành phố  Nha Trang  tỉnh Khánh Hòa với chiều dài 1km, xây  dựng năm 2001. Hình 1.7: Kè Trần Phú – Nha Trang Hiện nay toàn bộ  miền Nam Trung Bộ có: 18 tuyến đê biển với chiều dài  101,8km; 31 tuyến đê cửa sông với chiều dài 131,35 km; 19 tuyến kè với chiều  dài 23,26 km. Các tồn tại chính của đê biển Nam Trung Bộ: ­ Hầu hết các tuyến đê có bề  rộng mặt B 
  18.                                                        20 Đê An Biên ­ An Minh dài 24km, được xây dựng để ngăn mặn từ biển Tây   vào khu vực An Biên – An Minh. ­ Từ năm 1975 đến nay: Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng và Nhà nước ta đó rất quan  tâm tới công tác trị thủy trong đó có việc tu bổ, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống   đê biển. Nhận thức được tầm quan trọng, tính bức xúc của hệ  thống đê biển,  Nhà nước đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế  biển, nhiều chương trình   cấp   quốc   gia   về   điều   tra,   khảo   sát   tài   nguyên   biển   đã   được   thực   hiện,   các  chương trình nâng cấp đê biển do Nhà nước và các tổ chức quốc tế trợ giúp thực  sự tạo ra sự ổn định giúp cho việc phát triển kinh tế biển. Song song với các hoạt   động tư vấn, nhiều chương trình, đề  tài nghiên cứu các cấp từ  Trung ương đến   địa phương có biển đã được triển khai nhằm điều tra, xác định lượng bùn cát bồi   tích  ở  các vùng được bồi và lượng bùn cát bị  xói mất  ở  các vùng biển lấn, các  nghiên cứu về thủy triều, nước dâng, trường sóng, gió, dòng chảy,... trong điều   kiện bình thường cũng như khi gặp bão nhằm xây dựng được các luận cứ  khoa   học cho các giải pháp thiết kế, thi công hệ thống đê biển, phòng chống thiên tai.  Hiện nay trên toàn khu vực Nam Bộ có 16 tuyến đê biển với chiều dài 444,36km;   2 tuyến kè biển với tổng chiều dài 16,5 km. Đánh giá chung về hệ thống đê biển, đê cửa sông Nam Bộ: ­ Đê biển, đê cửa sông đã phát huy tác dụng ngăn mặn xâm nhập vào đồng,  bảo vệ đất canh tác cho những vùng ngọt hóa. ­ Nhiều nơi đê đã góp phần khai hoang lấn biển, mở rộng đất canh tác. ­ Việc xây dựng đê biển và các công trình trên đê trong các năm qua trên  thực tế  đã góp phần quan trọng trong việc chủ động điều tiết nguồn nước góp  phần chuyển đổi cơ  cấu sản xuất, phát triển giao thông nông thôn, củng cố  an  ninh quốc phòng.  Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  19.                                                        21 ­ Cao trình nhiều tuyến đê biển, đê cửa sông hiện chưa đủ  khả  năng phòng  chống thiên tai, khi gặp triều cường và bão thường bị thiệt hại lớn. ­ Các tuyến đê biển, đê cửa sông hầu hết còn thiếu cống nên chưa chủ động   trong tiêu úng, tiêu phèn, hạn chế  hiệu quả  ngăn mặn, giữ  ngọt, chưa đáp  ứng  yếu cầu chuyển đổi sản xuất cho một số vùng. ­ Do được xây dựng qua nhiều thời kỳ nên đê biển Nam Bộ  thiếu tính hệ  thống về vùng và đối tượng bảo vệ, không thống nhất về tiêu chuẩn kỹ thuật. 1.2.2.6. Những vấn đề  còn hạn chế  trong khảo sát thiết kế  và thi công đê   biển Trong những năm qua công tác khảo sát thiết kế và thi công đê biển đã đạt   được nhiều thành tích đáng khích lệ và đúc rút được nhiều kinh nghiệm quý báu.   Bước đầu đã áp dụng những giải pháp tiên tiến vào hoàn cảnh thực tế   ở  từng  vùng, từng địa phương và đã có những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên trong công  tác khảo sát, thiết kế, thi công và quản lý sử dụng các tuyến đê hiện nay còn tồn  tại những bất cập như sau : a. Về công tác khảo sát Chạy dọc dải ven biển, các tuyến đê thường rất dài, địa chất đất nền luôn  thay đổi trên toàn tuyến, trong khi khoảng cách các hố khoan quá xa nên khó mô  tả  hết được đặc điểm địa chất dưới đất nền. Hiện nay, công tác khảo sát địa   chất và thí nghiệm đất phục vụ  thiết kế thi công xây dựng đê chủ  yếu sử  dụng  các phương pháp sau đây : ­ Khoan bằng tay, bằng máy và lấy mẫu nguyên dạng; ­ Khoan xuyên tĩnh, cắt cánh; Do địa chất ở vùng nghiên cứu chủ yếu là đất sét bão hoà nước, công việc   lấy mẫu nguyên dạng gặp nhiều khó khăn, mức độ  phá hoại của mẫu tăng cao  khi độ nhạy của đất tăng lên. Các mẫu sau khi được lấy và bảo quản bằng cách  Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
  20.                                                        22 bọc sáp để  cách ly với không khí và nước bên ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình  vận chuyển do khoảng cách từ  nơi lấy mẫu đến phòng thí nghiệm rất xa, làm  cho mẫu bị  rung động, phá hoại kết cấu, rạn nứt lớp bọc bảo vệ dẫn đến việc   bay hơi nước trong mẫu…. Bên cạnh đó mẫu đất lại được thí nghiệm trên những   thiết bị cũ và lạc hậu… Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng rất nhiều, thậm   chí làm sai lệch đến kết qủa các chỉ tiêu của mẫu đất. b.Về công tác thiết kế thi công Vấn đề  lún cố  kết của lớp đất đắp vẫn chưa được nghiên cứu triệt để.   Trong nhiều trường hợp độ lún này chiếm tỷ lệ rất cao so với độ lún toàn thể; Không kể  đến độ  sâu vùng  ảnh hưởng của khối đất đắp. Độ  sâu tính lún  phải kể đến chiều rộng của mặt đê; Không kể đến độ lún theo thời gian và độ lún thứ phát của nền sau cố kết; Không đưa ra các biện pháp xử  lý nền, lựa chọn sai hoặc không hiệu quả  các giải pháp xử lý nền đất yếu; Không thực hiện công tác kiểm tra chất lượng trong quá trình thi công theo   từng lớp, không tiến hành so sánh dung trọng khô tại hiện trường và dung trọng   khô trong phòng thí nghiệm; Thiếu các tài liệu, thiết bị quan trắc lún của công trình trên nền đất yếu; Ở  một số tuyến đê các đơn vị  thi công không có kinh nghiệm hoặc vì một   số  lý do nào đó không tuân thủ  đồ  án thiết kế, sử  dụng các thiết bị  thi công cơ  giới lớn, đắp nhanh tới cao trình thiết kế làm phá hủy lớp đất mặt gây sụt lún và  các sự cố nghiêm trọng khác. 1.2.3. Kết luận Việc nghiên cứu, thiết kế và thi công hệ  thống đê biển đã được thực hiện   trong nhiều năm qua. Các chương trình, đề tài nghiên cứu đã tập trung giải quyết  các vấn đề  về  các điều kiện biên thủy lực, thủy hải văn, vấn đề  xử  lý nền đất  Nghiên cứu giải pháp xây dựng hệ thống đê biển Nam Bộ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2