ĐỐI CHIẾU SỰ TRI NHẬN CỦA NGƯỜI ANH VÀ NGƯỜI VIỆT<br />
QUA THÀNH NGỮ CÓ CHỨA YẾU TỐ CHỈ THỰC VẬT<br />
HOÀNG THỊ PHI YẾN<br />
Trường Đại học Nguyễn Huệ<br />
Tóm tắt: Qua khảo sát 8.000 mục thành ngữ tiếng Việt và 10.000 mục thành<br />
ngữ tiếng Anh, bài báo đã đối chiếu và đưa ra một số nhận xét về sự tương<br />
đồng và dị biệt về sự tri nhận của người Anh và người Việt qua các thành<br />
ngữ có chứa yếu tố chỉ thực vật nhằm giúp cho việc nghiên cứu, giảng dạy<br />
và học tập tiếng Anh, tiếng Việt được tốt hơn.<br />
Từ khóa: thành ngữ, tri nhận, thực vật<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
“Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc, ngôn ngữ phản ánh cách tư duy của mỗi dân tộc<br />
dùng nó” (Humboldt). Ngôn ngữ học tri nhận với việc xem ngôn ngữ trong tư cách là<br />
một khả năng tri nhận, một trong những thành tố trong cấu trúc tri nhận thế giới của con<br />
người, đã chứng minh rằng: ngôn ngữ chính là sự phản ánh cách nhìn riêng, lối nghĩ<br />
riêng của từng dân tộc, bên cạnh những cách hình dung mang tính phổ quát của tư duy<br />
nhân loại, đối với cùng một hiện thực khách quan, và thường được gọi là “mô hình thế<br />
giới”, hay “bức tranh thế giới” (world picture), “hình ảnh thế giới” (world image), “biểu<br />
tượng về thế giới”. Điều đó có nghĩa là, chính “cách nhìn thế giới” của mỗi dân tộc, chứ<br />
không phải các sự vật, sự tình tồn tại khách quan, đã tác động, chi phối đến ngôn ngữ<br />
của dân tộc đó.<br />
Như vậy, ứng với mỗi mô hình về thế giới, ngoài cái chung, cái phổ quát, còn có những<br />
cái riêng, cái đặc thù, phản ánh cách tri giác, cách nhận thức riêng biệt của mỗi một<br />
cộng đồng ngôn ngữ (khác với những cộng đồng ngôn ngữ khác) đối với hiện thực<br />
khách quan, được gọi là “cách nhìn thế giới”. Ta có thể hình dung rõ hơn “cách nhìn thế<br />
giới” thông qua sơ đồ sau:<br />
THẾ GIỚI KHÁCH QUAN (physical world/ world picture)<br />
ä<br />
THẾ GIỚI TINH THẦN / Ý NIỆM (conceptual world picture)<br />
ä<br />
BỨC TRANH NGÔN NGỮ VỀ THẾ GIỚI (linguistic world picture)<br />
Ở sơ đồ trên, cái phổ quát, trong mối liên hệ giữa thế giới khách quan, thế giới ý niệm<br />
và bức tranh ngôn ngữ về thế giới, xét về mặt nhận thức tư duy nhân loại, là cái quan<br />
trọng, là cơ sở để con người có thể giao tiếp, học hỏi lẫn nhau. Còn cái đặc thù chính là<br />
đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận, để tìm hiểu và giải thích những<br />
sự khác nhau giữa các ngôn ngữ.<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 01(37)/2016: tr. 80-89<br />
<br />
ĐỐI CHIẾU SỰ TRI NHẬN CỦA NGƯỜI ANH VÀ NGƯỜI VIỆT...<br />
<br />
81<br />
<br />
Mỗi một bức tranh ngôn ngữ đều liên quan đến một “logic” nhìn nhận thế giới, hay nói<br />
chính xác hơn là cách thức người bản ngữ tri giác và nhận thức thế giới. Do đó, thông<br />
qua bức tranh ngôn ngữ về thế giới, chúng ta có thể tìm hiểu những cách nhìn thế giới<br />
khác nhau của từng dân tộc.<br />
Mục đích nghiên cứu “Đối chiếu sự tri nhận của người Việt và người Anh qua thành<br />
ngữ có yếu tố chỉ thực vật” của chúng tôi là đối chiếu sự phân bố của yếu tố chỉ thực vật<br />
trong thành ngữ của hai ngôn ngữ, những ý nghĩa biểu trưng mà yếu tố đó gắn liền để<br />
làm rõ đặc sắc văn hóa qua hai loại hình ngôn ngữ. Đồng thời, tìm hiểu xem vấn đề dị<br />
bản của các thành ngữ giữa hai quốc gia. Vì thế, chúng tôi tiến hành khảo sát và so sánh<br />
đối chiếu vấn đề trên ở cả ba bình diện như Lê Quang Thiêm [4] đưa ra: hình thức, phân<br />
bố và ý nghĩa.<br />
2. Đối chiếu sự tri nhận của người Anh và người Việt qua thành ngữ có chứa yếu<br />
tố chỉ thực vật<br />
2.1. Định nghĩa thành ngữ có yếu tố chỉ thực vật<br />
Theo Từ điển tiếng Việt [2], “thực vật” được định nghĩa là “tên gọi chung các cây cỏ và<br />
những sinh vật bậc thấp khác có tính chất như cây cỏ, trong các tế bào cơ thể thường có<br />
các màng bằng cellulos” [2, tr. 974 - 975]. Như vậy, đặc điểm của thực vật theo quan<br />
điểm của Hoàng Phê là những sinh vật bậc thấp, nghĩa là có “sự sống”. Nếu xếp theo<br />
quan điểm này, các yếu tố như “gạo, thóc, trấu” không được xem là thực vật.<br />
Khi nhìn về văn hóa ẩm thực của người Việt Nam, Trần Ngọc Thêm [3] cho rằng cơ cấu<br />
bữa ăn của người Việt thiên về thực vật, đứng đầu là lúa gạo “Người sống về gạo, cá<br />
bạo về nước” [3, tr. 188 - 189]. Từ đó, ông cho rằng: cuộc sống của người Việt gắn liền<br />
với môi trường tự nhiên, với cỏ cây, bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa nông<br />
nghiệp lúa nước.<br />
Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi nhận thấy thông qua thành ngữ có chứa yếu tố chỉ thực<br />
vật, bản sắc văn hóa của dân tộc được thể hiện rõ nét trên nhiều phương diện: ăn, ở,<br />
sống. Vì thế, chúng tôi quyết định tổng hợp cả hai quan điểm trên, nhằm mở rộng nội<br />
hàm và ngoại diên của yếu tố chỉ thực vật, làm phong phú thêm nguồn ngữ liệu phục vụ<br />
cho công việc so sánh đối chiếu. Theo quan điểm này, chúng tôi không chỉ xem sinh vật<br />
bậc thấp mang “sự sống” là thực vật, mà còn xem các sản phẩm ở các giai đoạn phát<br />
triển khác nhau trong quá trình sinh trưởng của cây cỏ là yếu tố chỉ thực vật, ví dụ: thóc,<br />
lúa, gạo, que củi...<br />
2.2. Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu<br />
2.2.1. Phương pháp thu thập ngữ liệu<br />
2.2.1.1. Nguồn ngữ liệu<br />
Nguồn ngữ liệu của đề tài chủ yếu được lấy trong hai văn bản chính sau: “Từ điển thành<br />
ngữ Việt Nam” do Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành biên sọan,<br />
NXB Văn hóa ấn hành năm 1993 tại Hà Nội, và “Từ điển thành ngữ Việt - Anh” do<br />
<br />
82<br />
<br />
HOÀNG THỊ PHI YẾN<br />
<br />
nhóm tác giả trung tâm dịch thuật sách Sài Gòn dịch từ cuốn Dictionary of English<br />
Idioms, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành năm 2004. Ngoài ra, để làm phong<br />
phú thêm nguồn ngữ liệu thành ngữ tiếng Anh có chứa yếu tố thực vật, giúp cho việc<br />
đối chiếu sự tri nhận của người Anh với người Việt có hệ thống hơn, chúng tôi tiến hành<br />
khảo sát thành ngữ tiếng Anh trong cuốn “How to use common English Idioms and<br />
Preposition” do NXB Đồng Nai ấn hành năm 1998 và website www.usingenglish.com.<br />
2.2.1.2. Số liệu khảo sát<br />
Khi khảo sát thành ngữ tiếng Anh [5], chúng tôi tổng hợp được 67 thành ngữ có chứa<br />
yếu tố chỉ thực vật (trên tổng số 10.000 thành ngữ), chiếm tỉ lệ 0,67%. Con số này khá<br />
thấp so với tiếng Việt. Các yếu tố chỉ thực vật trong thành ngữ tiếng Anh vì thế cũng<br />
đơn giản hơn. Tần số xuất hiện của chúng như sau:<br />
Bảng 1. Tần số xuất hiện của các yếu tố chỉ thực vật trong thành ngữ tiếng Anh<br />
Stt<br />
1.<br />
2.<br />
3.<br />
4.<br />
5.<br />
6.<br />
7.<br />
8.<br />
9.<br />
10.<br />
11.<br />
12.<br />
13.<br />
14.<br />
15.<br />
<br />
Yếu tố chỉ thực vật<br />
Cây / bụi cây / rừng cây (tree, wood, bush, jungle, forests)<br />
Cỏ / đồng cỏ (grass, hay, hay stack, reed, weed, pasture)<br />
Hoa hồng (rose)<br />
Rơm (straw)<br />
Quả táo (apple)<br />
Hoa cúc (daisy)<br />
Que củi (stick)<br />
Hoa (flower)<br />
Hạt giống (seed)<br />
Hoa huệ tây / loa kèn (lily)<br />
Lá cây (leaf)<br />
Cây anh thảo (primrose)<br />
Cây thuốc phiện (poppie)<br />
Nho (vine)<br />
Hạt dẻ (chestnut)<br />
<br />
Tần số xuất hiện<br />
18<br />
12<br />
5<br />
4<br />
2<br />
2<br />
2<br />
2<br />
2<br />
1<br />
1<br />
1<br />
1<br />
1<br />
1<br />
<br />
Tiến hành khảo sát 8.000 mục thành ngữ tiếng Việt [6], chúng tôi tổng hợp được 320<br />
thành ngữ có chứa yếu tố chỉ thực vật, chiếm 4%. Với tổng số 320 thành ngữ này, mọi<br />
vấn đề trong đời sống xã hội, mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên, đối nhân<br />
xử thế… của người Việt hầu như đều được đề cập ở những mức độ quan tâm khác nhau.<br />
Tùy theo từng chủ đề, từng ý nghĩa biểu trưng mà người Việt lựa chọn các yếu tố chỉ<br />
thực vật khác nhau. Có thể mô tả tần số xuất hiện của các yếu tố chỉ thực vật trong<br />
thành ngữ tiếng Việt theo thứ tự giảm dần như sau:<br />
Bảng 2. Tần số xuất hiện của các yếu tố chỉ thực vật trong thành ngữ tiếng Việt<br />
Stt<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
<br />
Yếu tố chỉ thực vật<br />
Hoa<br />
Cây<br />
Lá<br />
Tre<br />
<br />
Tần số xuất hiện<br />
45<br />
31<br />
16<br />
15<br />
<br />
ĐỐI CHIẾU SỰ TRI NHẬN CỦA NGƯỜI ANH VÀ NGƯỜI VIỆT...<br />
<br />
5<br />
6<br />
7<br />
8<br />
9<br />
10<br />
11<br />
12<br />
13<br />
14<br />
15<br />
16<br />
17<br />
18<br />
19<br />
20<br />
21<br />
<br />
Bèo<br />
Cỏ<br />
Gạo và các yếu tố cùng họ (thóc, lúa, nếp, tẻ)<br />
Dưa<br />
Liễu<br />
Ớt<br />
Quả<br />
Rơm<br />
Chanh<br />
Mướp<br />
Đào<br />
Cam<br />
Quýt<br />
Gừng<br />
Mít<br />
Trầu<br />
Sen<br />
<br />
83<br />
<br />
13<br />
13<br />
11<br />
10<br />
10<br />
9<br />
9<br />
6<br />
4<br />
4<br />
4<br />
3<br />
3<br />
3<br />
3<br />
3<br />
3<br />
<br />
Căn cứ vào số liệu khảo sát này, chúng tôi sẽ bước đầu đối chiếu điểm tương đồng và dị<br />
biệt trong tri nhận về thế giới của người Anh và người Việt.<br />
2.2.2. Phương pháp phân tích, mô tả ngữ liệu<br />
2.2.2.1. Đặc điểm tri nhận của người Anh và người Việt qua hình thức, phân bố, ý nghĩa<br />
thành ngữ có chứa yếu tố chỉ thực vật<br />
Nhìn chung, mỗi một bức tranh ngôn ngữ đều liên quan đến một “logic” nhìn nhận thế<br />
giới, hay nói chính xác hơn là cách thức người bản ngữ tri giác và nhận thức thế giới.<br />
Do đó, thông qua bức tranh ngôn ngữ về thế giới, chúng ta có thể tìm hiểu những cách<br />
nhìn thế giới khác nhau của từng dân tộc.<br />
Từ kết quả nghiên cứu và khảo sát về hình thức của các thành ngữ chỉ thực vật trong<br />
tiếng Anh và tiếng Việt ta thấy được những lối nghĩ, kiểu tư duy khá đặc biệt. Người<br />
Anh, với lối tư duy lí trí, chú trọng đến giai đoạn nhận thức lí tính, do đó, thành ngữ của<br />
họ thường ngắn gọn, súc tích. Có nhiều thành ngữ chỉ có hai âm tiết. Bên cạnh đó,<br />
người Việt, với lối tư duy thiên về biện chứng, có tính dung hợp, mềm dẻo, do đó, thành<br />
ngữ của dân tộc Việt khá phong phú và đa dạng. Từ bốn âm tiết trở lên và thậm chí có<br />
những thành ngữ dài tám đến chín âm tiết.<br />
Ngoài ra, vốn thành ngữ trong mỗi hệ thống ngôn ngữ đều vô cùng phong phú và đa dạng,<br />
đặc điểm tự nhiên của mỗi dân tộc quy định sự phân bố các loại thực vật trong thành ngữ.<br />
Số liệu thống kê trong hai bảng trên cho thấy sự phân bố các loài thực vật có sự khác biệt,<br />
thể hiện tư duy, cách nhìn nhận và mức độ quan tâm của từng dân tộc không giống nhau.<br />
Nước Anh, với đặc trưng khí hậu khô lạnh thể hiện rõ ở sự phân bố của các loài thực vật<br />
trong thành ngữ, vì vậy, các loài cây thích hợp với khí hậu khô lạnh được ưu tiên xuất<br />
hiện với tần số cao trong các thành ngữ như: đồng cỏ, hoa hồng, dâu tây,… Tuy nhiên,<br />
nếu so với thành ngữ của dân tộc Việt thì thành ngữ của người Anh chỉ bó hẹp trong một<br />
<br />
84<br />
<br />
HOÀNG THỊ PHI YẾN<br />
<br />
số loài cây đặc thù. Trong khi đó, đối với người Việt, đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa,<br />
nóng ẩm; tâm lí hoà hợp với thiên nhiên đã tạo cho thành ngữ Việt thiên về nhiều loài<br />
thực vật dân dã. Điều đặc biệt là đối với thành ngữ Việt, các hình ảnh cây, trái xuất hiện<br />
nhiều, tỉ lệ phân bố cao hơn các loại rau, củ và hoa.<br />
Về ý nghĩa, các mảng đề tài mà thành ngữ Anh - Việt phản ánh có sự khác nhau về các<br />
vấn đề từng dân tộc quan tâm. Nếu thành ngữ Việt quan tâm đến mọi mặt của con người<br />
trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội: thân phận con người, đối nhân xử thế, ứng xử<br />
với môi trường và với mọi người, vấn đề giai cấp - sang hèn… thì thành ngữ tiếng Anh<br />
hầu như chỉ quan tâm đến vấn đề đối nhân xử thế, cách con người ứng xử với thiên<br />
nhiên và xã hội mà không quan tâm đến gia cảnh sang - hèn, thân phận thấp kém của<br />
người phụ nữ. Điều này có thể được lí giải bởi lối sống phóng khoáng của văn hóa du<br />
mục, ít bị bó hẹp ở một nơi và điều kiện sớm được tiếp xúc với nền văn minh công<br />
nghiệp của người Anh.<br />
2.2.2.2. Những điểm tương đồng và dị biệt trong sự tri nhận của người Anh và người<br />
Việt qua hình thức, phân bố, ý nghĩa thành ngữ có chứa yếu tố chỉ thực vật<br />
Những điểm tương đồng<br />
a. Về hình thức<br />
Trên cơ sở những điểm phổ quát của ngôn ngữ, các ngôn ngữ trên thế giới đều có xu<br />
hướng sử dụng những cụm từ cố định, sẵn có trong đó có thành ngữ. Do đó, thành ngữ<br />
của hai dân tộc nói chung và thành ngữ có chứa yếu tố chỉ thực vật nói riêng đều có cấu<br />
trúc ngắn gọn, thông thường chỉ có 4 - 5 yếu tố tạo thành. Ví dụ: “whatch grass grow”,<br />
“forest for the trees”, “little strokes fell great oaks”,… (tiếng Anh)<br />
“nước đổ lá khoai”, “nghèo rớt mùng tơi”, “mặt hoa mày liễu”,… (Tiếng Việt)<br />
Đặc biệt, thành ngữ của cả hai dân tộc đều khá phong phú về mặt hình thức. Vừa có<br />
thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng, thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng và thành ngữ so sánh.<br />
b. Về phân bố<br />
Nhìn chung, mặc dù ở hai phương khác nhau song trong sự tri nhận cũng có điểm tương<br />
đồng giữa người Việt và người Anh. Điều này thể hiện rõ qua sự phân bố của các yếu tố<br />
chỉ thực vật trong thành ngữ của hai dân tộc. Kết quả thống kê ở trên cho thấy, thành<br />
ngữ của cả hai dân tộc đều có tỉ lệ phân bố tập trung ở các yếu tố như “cây”, “cỏ”,<br />
“hoa”, “lá”,… Tỉ lệ phân bố thành ngữ có sử dụng những yếu tố chỉ các loài rau, củ khá<br />
thấp. Điều này chứng tỏ, xu hướng chung của tư duy con người là xuất phát từ những<br />
loài thực vật phổ biến, thường gặp trong cuộc sống hàng ngày, đồng thời mang tính chất<br />
khái quát nhất để gán cho những ý nghĩa biểu trưng. Như vậy, trong bức tranh ngôn ngữ<br />
của mỗi dân tộc, ngoài những nét khác biệt do điều kiện tự nhiên và một số yếu tố khác<br />
quy định vẫn có những nét tương đồng về ý niệm.<br />
c. Về ý nghĩa biểu trưng<br />
<br />