Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
GÂY MÊ SỬ DỤNG MẶT NẠ THANH QUẢN CẢI TIẾN PROSEAL<br />
<br />
CHO CAN THIỆP NỘI SOI TIẾT NIỆU<br />
Nguyễn Anh Tuấn*, Nguyễn Hoàng Đức** và cộng sự<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục đích: Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây mê sử dụng mặt nạ thanh quản cải tiến (PLMA) cho<br />
các can thiệp nội soi đường tiết niệu<br />
Phương pháp nghiên cứu: Tổng kết phân tích những trường hợp gây mê có sử dụng PLMA từ 1-12/2006<br />
tại BVĐHYD. Tổng kết tập trung vào các can thiệp theo vùng, cách sử dụng và một số biến chứng hay gặp khi<br />
sử dụng PLMA.<br />
Kết quả: 280 trường hợp can thiệp nội soi tiết niệu: 205 trường hợp tán sỏi (141 niệu quản vùng chậu; 29<br />
tán sỏi niệu quản lưng; 36 vùng bàng quang-niệu đao); 71 trường hợp can thiệp khác vùng niệu quản; 3 trường<br />
hợp chuyển sang phẫu thuật và 1 trường hợp kết hợp với phẫu thuật cắt túi mật nội soi. Thuốc chủ yếu sử dụng<br />
để khởi mê và duy trì mê chủ yếu là Propofol (98,57%) và Isofluranc(98,21%). Tất cả các trường hợp đặt PLMA<br />
đều không sử dụng thuốc giãn cơ. Tỷ lệ đặt PLMA thành công bằng phương pháp “ngón tay”sau một lần đặt là<br />
92,86%; sau hai lần đặt là 4,3%. Bảy trường hợp (2,50%) đặt PLMA lần thứ 3 với kỹ thuật đặt qua nòng dẫn, 1<br />
trường hợp (0,34%) đặt PLMA thất bại phải chuyển sang đặt nội khí quản. Thời gian trung bình để đặt PLMA<br />
là 20 giây. Kiểu thở của bệnh nhân trong quá trình duy trì mê lần lượt là: tự thở hoàn toàn 48,85% ; tự thở kết<br />
hợp thở hỗ trợ theo yêu cầu của can thiệp có hoặc không thêm thuốc giãn cơ 48,92%; thở hỗ trợ hoàn toàn 3,23%.<br />
Hai trường hợp xuất hiện trào ngược dịch vị qua ống dẫn của PLMA nhưng không có biểu hiện của hiện tượng<br />
hít sặc trên lâm sàng. Một trường hợp sốc phản vệ xảy ra sau khi gây mê nhưng đã được điều trị thành công. Hai<br />
trường hợp xuất hiện trào ngược dịch vị qua ống dẫn của PLMA nhưng không có biểu hiện của hiện tượng hít<br />
sặc trên lâm sàng. Một số biến cố nhỏ với tỉ lệ thấp liên quan đến việc sử dụng PLMA là ho ruớn, đau họng và<br />
chảy máu vùng họng miệng.<br />
Kết luận: Gây mê sử dụng PLMA tỏ ra an toàn và phù hợp với các phẫu can thiệp nội soi tiết niệu. Kiểm<br />
soát đường thở nhanh chóng và hiệu quả sau moät laàn ñaët, đặt không cần sử dụng thuốc giãn cơ cho phép hồi<br />
tỉnh nhanh, khả năng bảo vệ đường thở khỏi hiện tượng hít sặc khi trào ngược xảy ra là những ưu điểm nổi bật<br />
cuả PLMA khi sử dụng trong gây mê. PLMA giúp người gây mê chủ động đối phó với các biến cố phát sinh<br />
trong quá trình phẫu thuật và gây mê<br />
<br />
ABSTRACT<br />
GENERAL ANESTHESIA USING PROSEAL LARYNGEAL MASK AIRWAY FOR UROLOGICAL<br />
ENDOSCOPIC PROCEDURES<br />
Nguyen Anh Tuan, Nguyen Hoang Duc<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 258 - 261<br />
Purpose of study: This study examines the efficacies of general anesthesia (GA) using Proseal laryngeal<br />
mask airway (PLMA) for urological endoscopic procedures at University Medical Center (UMC)<br />
Material and methods: Prospective data was recorded by the anesthesiologists-in-charge of urological<br />
endoscopic procedures underwent GA using PLMA over one year period (January to December 2006). The<br />
analysis focused on types of procedures, characteristics of usage of PLMA<br />
* Khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức Bệnh viện Đại Học Y Dược<br />
** Phân khoa Tiết Niệu, Bệnh viện Đại Học Y Dược<br />
<br />
Niệu Khoa<br />
<br />
1<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Results: 280 cases were analyzed; 205 of lithotripsy, 71 of different techniques, and 4 of combination with<br />
laparoscopic surgery. Main anesthetic agents for induction and maintenance were propofol (98.57%), isoflurane<br />
(98.21%). Success rate in first and second attempt by digital insertion technique without muscle relaxants was<br />
92.96%, 4.3% respectively. Gum elastic bougie guided technique used in 7 cases (2.50%). Endotracheal tube was<br />
replaced PLMA in one case (0.34%). Time to achieve effective airway control was 20 sec. Mode of ventilation<br />
during anesthesia was spontaneous (47.85%), spontaneous – controlled combination without /with muscle<br />
relaxants adjusted (54.4%), and controlled (3.23%). Gastric regurgitation occurred in 2 cases when PLMA in<br />
place, but no signs of pulmonary aspiration detected clinically. Severe anaphylactic reaction occurred in one case<br />
but treated successfully. Minor complications such as cough, minor trauma of mouth cavity, sore throat was<br />
observed in low rate.<br />
Conclusion: GA using PLMA was safe and appropriate for urological endoscopic procedures. Easy insertion<br />
with high success rate, insertion without muscle relaxants, and possibility of airway protection from gastric<br />
content regurgitation was some most significant benefits of PLMA. PLMA was helpful to control the unpredicted<br />
events during anesthesia and surgery<br />
vào tính chất can thiệp theo vùng. Một số đặc<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
tính và biến cố liên quan đến việc sử dụng<br />
Sử dụng mask thanh quản (LMA –Laryngeal<br />
PLMA cũng được bàn luận<br />
Mask Airway) trong gây mê là một xu hướng<br />
KẾT QUẢ<br />
của gây mê hiện đại đặc biệt là với những can<br />
thiệp ít xâm lấn, thời gian can thiệp ngắn, phù<br />
Trong năm 2006 có khoảng 1000 bệnh nhân<br />
hợp với mô hình bệnh nhân về trong ngày<br />
đã được gây mê toàn thân sử dụng PLMA tại<br />
khoa phẫu thuật gây mê hồi sức, BVĐHYD.<br />
(ambulatory surgery)<br />
Tổng kết đưới đây là 280 các trường hơp gây mê<br />
Mask thanh quản (MTQ) hai nòng ProSeal<br />
sử dụng PLMA cho thủ thuật tán sỏi nội soi và<br />
(Proseal Laryngeal Mask Airway - PLMA) là<br />
can thiệp nội soi khác qua đường niệu đạo<br />
một phương tiện kiểm soát đường thở cải tiến<br />
dựa trên MTQ cổ điển (classic laryngeal mask<br />
airway – cLMA) thích hợp với gây mê trong<br />
được sử dụng trong gây mê từ năm 2000, PLMA<br />
nhanh chóng nhận được những đánh giá tích<br />
cực của những người làm gây mê 1,2. Từ 5/2005<br />
tại Bệnh viện Đại Học Y Dược (BVĐHYD) chúng<br />
tôi bắt đầu sử dụng PLMA trong gây mê hàng<br />
ngày cho nhiều loại phẫu thuật trong đó có phẫu<br />
thuật nội soi ổ bụng và phẫu thuật nội soi sau<br />
phúc mạc4. Trong bài báo này chúng tôi tổng kết<br />
và đưa ra một số nhận xét của phương pháp gây<br />
mê sử dụng PLMA cho phương pháp can thiệp<br />
nội soi tiết niệu tại BVĐHYD trong năm 2006.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Tồng kết phân tích số liệu các bệnh nhân<br />
được can thiệp nội soi đường tiết niệu bằng<br />
phương pháp gây mê toàn thể có sử dụng<br />
PLMA trong thòi gian một năm (từ 1-12/2006) tại<br />
Bệnh viện đại học Y Dược. Tổng kết tập trung<br />
<br />
Niệu<br />
Khoa<br />
2<br />
<br />
Bảng 1: Các loại can thiệp và thời gian trung bình<br />
của can thiệp<br />
Thời gian<br />
Số lượng<br />
kéo dài thủ<br />
280<br />
thuật<br />
Nội soi tán sỏi đoạn chậu, nội<br />
140<br />
30 phút<br />
thành<br />
(50,00%) (10 – 140)<br />
29 (10,<br />
40 phút<br />
Nội soi tán sỏi đoạn lưng<br />
35%)<br />
(15 – 120)<br />
36 (12,<br />
30 phút<br />
Nội soi bàng quang, niệu đạo<br />
85%)<br />
(10 –120)<br />
20 phút<br />
Soi niệu quản kết hợp thủ thuật 71 (25,<br />
khác<br />
35%)<br />
(5 – 120)<br />
Chuyển sang mổ nội soi hông<br />
2<br />
100 phút<br />
lưng<br />
Chuyển sang mổ hở<br />
1 (1, 45%)<br />
Các loại thủ thuật<br />
<br />
Kết hợp mổ cắt nội soi túi mật<br />
<br />
1<br />
<br />
(90 – 180)<br />
<br />
Thủ thuật khác bao gồm: đặt và rút sonde JJ,<br />
chụp UPR, xẻ rộng niệu quản, soi niệu quản<br />
chẩn đoán<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Bảng 2: Thời gian đặt PLMA và số lần đặt PLMA<br />
Thời gian trung bình 1 lần đặt<br />
20 giây (10 – 90)<br />
Đặt thành công sau 1 lần 260 trường hợp (92,86%)<br />
Đặt thành công sau 2 lần<br />
12 trường hợp (4, 30%)<br />
Đặt thành công sau 3 lần<br />
7 trường hợp (2, 50%)<br />
Đặt thất bại, chuyển sang NKQ 1 trường hợp (0, 34%)<br />
Thời gian rút ống sau thủ thuật<br />
8 phút (2 – 20)<br />
kết thúc<br />
<br />
Kỹ thuật đặt chủ yếu dùng phương pháp<br />
“ngón tay” (digital insertion). Phương pháp đặt<br />
qua nòng dẫn (Gum Elastic Bougie - guided<br />
railroading) sử dụng trong các trường hợp đặt<br />
lần 3. Một trường hợp chuyển sang NKQ do đặt<br />
PLMA thất bại, SpO2 < 90%<br />
Bảng 3: Các thuốc khởi mê và duy trì mê<br />
Propofol Etomydate Isoflurane Servoflurane<br />
Thuốc 276 (98, 4 (1, 43%)<br />
khởi mê 57%)<br />
Duy trì<br />
275 (98,<br />
5 (1, 79%)<br />
mê<br />
21%)<br />
<br />
* Thuốc khởi mê chủ yếu là Propofol,<br />
Etomidate dùng cho các trường hợp ASA 3,<br />
thuốc duy trì mê chủ yếu dùng khí mê<br />
Isoflurane<br />
Bảng 4: Phương pháp điều khiển hô hấp trong gây<br />
mê<br />
<br />
Tự thở hoàn toàn<br />
(47,85%)<br />
Phối hợp (48,92%)<br />
Thở máy (3,23%)<br />
<br />
Có sử dụng<br />
thuốc giãn cơ<br />
0<br />
<br />
Không sử dụng<br />
thuốc giãn cơ<br />
134<br />
<br />
56<br />
4<br />
<br />
81<br />
5<br />
<br />
*Thở phối hợp: để bệnh nhân tự thở, bóp<br />
bóng hỗ trợ hoặc chuyển sang thở máy nếu bệnh<br />
nhân ngừng thở lâu (> 30 giây), hoặc bệnh nhân<br />
có hiện tượng “gồng”, hoặc khi phẫu thuật viên<br />
yêu cầu<br />
Bảng 5: Một số biến cố liên quan đến gây mê<br />
Biến cố<br />
<br />
Đặt<br />
Duy trì mê<br />
PLMA<br />
Phản xạ ho rướn<br />
6 (2,1%)<br />
Tiếng rít thanh quản 4 (1,42%) 2 (0, 78%)<br />
nhẹ<br />
Chảy máu (Blood 7 (2,50%)<br />
staining)<br />
Trào ngược<br />
2 (0,78%)<br />
Đau họng nhẹ<br />
Shock phản vệ<br />
1 (0,34%)<br />
<br />
Niệu Khoa<br />
<br />
Rút PLMA<br />
và hồi tỉnh<br />
5 (1,78%)<br />
<br />
8 (2,85%)<br />
<br />
10 (3,50%)<br />
<br />
Chuyển đặt NKQ<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
1 (0,34%)<br />
<br />
* Hai trường hợp chụp UPR thấy có hội<br />
chứng hẹp khúc nối bể thận – niệu quản.<br />
Chuyển sang mổ tạo hình khúc nối bể thận –<br />
niệu quản bằng phương pháp nội soi hông lưng<br />
có hiện tượng trào ngược xuất hiện dịch tiêu hoá<br />
> 100ml qua nhánh dẫn lưu (Drain Tube – DT).<br />
Trường hợp thứ nhất tại xảy ra khi đặt bệnh<br />
nhân sang tư thế nằm nghiêng. Trường hợp thứ<br />
hai khi bệnh nhân xuất hiện nấc cụt sau khi kết<br />
thúc phẫu thuật (nhưng cịn ống PLMA). Không<br />
thấy có biểu hít sặc phổi trên lâm sàng. Trên<br />
phim chụp Xquang phổi kiểm tra sau biến cố 6<br />
giờ không có thay đổi so với truớc mổ.<br />
* Shock phản vệ xảy ra sau khởi mê propol<br />
và fentanyl ở một trường hợp dự định chụp<br />
UPR. Biểu hiện huyết áp tụt, nhịp tim nhanh và<br />
không đều, nổi mẩn đỏ tòan thân. Đặt PLMA<br />
bằng kỹ thuật “ngón tay” để kiểm soát hô hấp<br />
và duy trì huyết áp bằng Adrenaline. Bệnh nhân<br />
trở lại tình trạng ổn định sau 10 phút<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Thời gian kéo dài của các can thiệp nội soi<br />
niệu khoa thường không dài quá 60 phút, thích<br />
hợp với mô hình phẫu thuật về trong ngày. Tuy<br />
vậy có một số trường hợp kéo dài thời gian vì<br />
phải chuyển sang phẫu thuật<br />
Kỹ thuật đặt PLMA bằng tay rất đơn giản,<br />
nhanh, không cần sử dụng đèn soi thanh quản<br />
(laryngoscopy) và có tỷ lệ thành công cao chỉ sau<br />
một lần đặt. Cách đặt này giảm được phản xạ ho<br />
rướn, hạn chế những biến đổi huyết động có hại<br />
liên quan đến động tác đặt đèn soi thanh quản.<br />
Khác với ống nội khí quản (NKQ), hệ thống<br />
bóng chèn (cuff) của PLMA ôm bên ngoài thanh<br />
môn, giảm được nguy cơ chấn thương thanh khí quản(1,2).<br />
Propofol là một thuốc mê gây ngủ nhanh,<br />
êm dịu, ức chế rất tốt các phản xạ hầu họng,<br />
thích hợp với kỹ thuật đặt PLMA mà không cần<br />
sử dụng các thuốc giãn cơ. Propofol cũng thích<br />
hợp với các phẫu thuật về trong ngày vì ít gây<br />
nên hiện tượng nôn và buồn nôn sau gây mê.<br />
<br />
3<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Chúng tôi duy trì mê bằng cách để bệnh<br />
nhân tự thở hỗn hợp khí Oxy trộn lẫn thuốc mê<br />
bốc hơi (Isoflurane, Servoflurane). Trong trường<br />
hợp nhịp tự thở của bệnh nhân cản trở thao tác<br />
của phẫu thuật viên, chúng tôi chủ động chuyển<br />
sang chế độ thở hỗ trợ (thở máy hoặc bóp tay)<br />
kết hợp với tăng thêm độ sâu gây mê bằng các<br />
thuốc mê bốc hơi hoặc thuốc giảm đau Fentanyl.<br />
Thêm một liều nhỏ các thuốc giãn cơ giúp việc<br />
điều khiển phương pháp thở dễ hơn, tránh nguy<br />
cơ chấn thương đường tiết niệu do máy soi gây<br />
nên. Hạn chế sử dụng thuốc giãn cơ cũng góp<br />
phần giảm được nguy cơ suy hô hấp do tác<br />
động tồn dư của thuốc, giúp cho việc rút ống<br />
sớm và rút ngắn thời gian hậu phẫu (fast<br />
tracking recovery).<br />
PLMA có hai cải tiến chủ yếu so với MTQ cổ<br />
điển là a, hệ thống bóng chèn “lưng” (dorsal<br />
cuff) và bóng chèn “bụng” (ventral cuff) làm<br />
tăng áp lực kín đường thở (airway seal pressure)<br />
b, nhánh dẫn lưu (Drain Tube -DT) phân lập<br />
đường thở và đường tiêu hóa nhằm phòng ngừa<br />
biến chứng hít sặc phổi (pulmonary aspiration)<br />
nếu hiện tượng trào ngược xảy ra (regugitation).<br />
Hai trường hợp có xảy ra hiện tượng trào ngược<br />
dịch tiêu hóa qua nhánh DT nhưng không có<br />
biểu hiện hít sặc phổi trên lâm sàng đã chứng<br />
minh tác dụng của cải tiến này.<br />
PLMA đã được sử dụng thay thế NKQ và<br />
MTQ cổ điển trong gây mê thông khí áp lực cao<br />
(hight pressure controlled ventilation) ví dụ như<br />
cho phẫu thuật nội soi có bơm hơi. PLMA cũng<br />
đã được sử dụng để gây mê cho các phẫu thuât<br />
nội soi hông lưng(1,2,5)<br />
Shoc phản vệ là biến cố nguy hiểm và không<br />
phải là hiện tượng hiếm gặp trong gây mê. Kiểm<br />
soát hô hấp trong những tình huống shock xảy<br />
ra là ưu tiên hàng đầu. Nhờ có PLMA chúng tôi<br />
đã chủ động điều trị shock thành công. PLMA<br />
cũng là phương tiện kiểm soát đường thở ưu<br />
tiên trong các tình huống khẩn cấp(1.2).<br />
Thất bại trong việc đặt PLMA là vấn đề<br />
thường gặp ngay cả với những người có kinh<br />
nghiệm sử dụng MTQ. Sử dụng phương pháp<br />
<br />
Niệu<br />
Khoa<br />
4<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
đặt PLMA qua nòng dẫn cho phép nâng tỷ lệ<br />
thành công so với phương pháp đặt bằng ngón<br />
tay(12). Phải chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện<br />
kiểm soát hô hấp khác để thay thế khi cần thiết.<br />
PLMA chỉ là phương tiện kiểm soát đường thở<br />
bổ xung chứ không thể thay thế hoàn toàn NKQ<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Gây mê sử dụng PLMA bằng các thuốc mê<br />
êm dịu, tác dụng ngắn tỏ ra phù hợp với những<br />
can thiệp nội soi tiết niệu, thích hợp với bệnh<br />
nhân ngoại trú. PLMA cho phép kiểm soát<br />
đường thở nhanh và hiệu quả. PLMA cũng giúp<br />
người gây mê chủ động đối phó với các biến cố<br />
phát sinh trong quá trình phẫu thuật và gây mê.<br />
Huấn luyện và sử dụng PLMA đúng chỉ định là<br />
chìa khóa đảm bảo an toàn và hiệu quả của<br />
phương pháp gây mê này.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
3<br />
<br />
4<br />
<br />
5<br />
<br />
6<br />
<br />
Brimacombe. LMA ProSeal- Analysis of current<br />
knowledge and a complete practical guide; The Laryngeal<br />
Mask Company Limited 2004<br />
Cook TM, Lee G, Nolan JP. The ProSeal laryngeal mask<br />
airway: a review of the literature. Can J Anesth 2005;52:739<br />
-76<br />
Nguyễn Hoàng Bắc, Nguyễn Hoàng Đức, Trần Lê Linh<br />
Phương. Phẫu thuật ít xâm hại trong tiết niệu học: Kỹ<br />
thuật nội soi niệu quản. Nhà xuất bản y học 2006<br />
Nguyễn Anh Tuấn. Kinh nghiệm sử dụng mask thanh<br />
quản cải tiến ProSeal trong gây mê cho phẫu thuật nội soi<br />
có bơm hơi. Hội nghị kiểm soát đường thở trên thanh mộn<br />
8 -2006, TPHCM<br />
Nguyễn Anh Tuấn. PLMA tránh được hiện tượng hít sặc<br />
phổi khi trào ngược xảy ra: kinh nghiệm qua 3 trường<br />
hợp. Hội nghị gây mê hồi sức toàn quốc, Hải Phòng 2006<br />
Shew HC, Kimball W. Anesthesia for the Elderly and<br />
Urologic Surgery. Clinical Anesthesia Procedures of the<br />
Massachusetts General Hospital 2003:435-444<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Niệu Khoa<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
5<br />
<br />