TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Giá trị của tài nguyên biển, đảo trong sự phát triển<br />
kinh tế Đàng Trong thế kỉ XVI – XVIII<br />
Marine resources for economical development of<br />
the Dang Trong from XVI –XVIII centuries<br />
<br />
TS. Trần Thị Thái Hà<br />
Trường Đại học Sài Gòn<br />
<br />
Ph.D. Tran Thi Thai Ha<br />
Sai Gon University<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Vùng đất Đàng Trong (Cochinchina) do các chúa Nguyễn mở mang khai phá trong hơn hai thế kỉ đã<br />
không ngừng phát triển, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng. Sự nhanh nhậy của các<br />
chúa Nguyễn trong cách thức ứng xử với những biến đổi của tình hình khu vực, trong sử dụng và tận<br />
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên – trong đó có tài nguyên biển, đảo để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát<br />
triển là yếu tố then chốt đem đến thành công cho chính quyền họ Nguyễn trong sự nghiệp cát cứ và phát<br />
triển vùng đất phía Nam. Bài viết phân tích những giá trị của tài nguyên biển, đảo đối với sự phát triển<br />
của kinh tế Đàng Trong thế kỉ XVI – XVIII.<br />
Từ khóa: Đàng Trong, tài nguyên biển, cảng thị, hàng hóa, đô thị Hội An, cửa biển, yến sào,<br />
buôn bán…<br />
Abstract<br />
The Dang Trong (Cochinchina) explored and expanded by the Nguyen lords for more than two centuries<br />
has not stopped growing, especially in the field of economy, politics, and defense. The prompt and<br />
sensible of the Nguyen Lords in dealing with the change of the regional situation, the use and utilize<br />
natural resources - including maritime resources, to promote commodity economy development is a key<br />
factor to bring success to the Nguyễn Dynasty in lording over the southern lands. Based on these<br />
sources, the article analyzes the value of maritime resources for economic development Cochinchina in<br />
centuries XVI - XVIII.<br />
Keywords: Dang Trong, Cochinchina, maritime resources, port, commodities, Hoi An urban, seaport,<br />
nests and trade…<br />
<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề Nguyễn đã thi hành hàng loạt các chính<br />
Đàng Trong là vùng đất phương Nam, sách phát triển kinh tế năng động, tích cực,<br />
do các vị chúa Nguyễn, khởi đầu từ hiệu quả. Nhờ vậy, Đàng Trong đã phát<br />
Nguyễn Hoàng mở mang, khai phá và phát triển nhanh chóng, xây dựng được chính<br />
triển. Tồn tại hơn 2 thế kỉ, với 9 đời chúa quyền tự chủ vững vàng, bảo vệ độc lập<br />
trị vì, trong suốt thời gian đó, các chúa dân tộc đồng thời giữ được thế chủ động<br />
<br />
<br />
18<br />
trong quan hệ đối ngoại với các nước trong bán đảo; có nhiều cửa sông, tạo thành các<br />
khu vực và phương Tây. vịnh sâu và kín gió. Dọc theo bờ biển, thư<br />
Có thể nói rằng, một trong những điều tịch cổ cho biết có hàng loạt các cửa biển,<br />
làm nên thành công của các chúa Nguyễn là tuyến đường giao thông, trao đổi buôn<br />
trong công cuộc cai trị vùng đất phía Nam bán chủ yếu của thời đó giữa miền duyên<br />
là đã sớm nhận ra tiềm năng và lợi thế của hải với miền núi; giữa miền biển, hải đảo<br />
tài nguyên thiên nhiên nơi đây. Đất, biển, với lục địa. Theo ghi chép của nhà sư<br />
trời là không gian lưu giữ, sinh tồn của Thích Đại Sán từng đến Đàng Trong thời<br />
nhiều nguồn lợi kinh tế lớn cả về trữ lượng kì này cho biết, cho đến cuối thế kỉ XVII,<br />
và giá trị. Sự cởi mở và nhậy bén trong tư giao thông ở Đàng Trong chủ yếu sử dụng<br />
duy là nhân tố quan trọng khiến các chúa đường biển do điều kiện địa hình bị kẹp<br />
Nguyễn có thể khai thác và tận dụng được giữa núi và biển: “các phủ đều không có<br />
nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn này để đường lối thông nhau, mỗi phủ đều do một<br />
đẩy nhanh quá trình đột khởi, hưng thịnh cửa biển đi vào, nếu đi từ phủ này sang phủ<br />
cho kinh tế Đàng Trong vào các thế kỉ XVI khác tất do đường biển” (9;230).<br />
– XVIII, góp phần củng cố vững chắc cơ Cho đến thế kỉ XIX, tác giả của Lịch<br />
đồ thống trị của dòng họ. triều hiến chương loại chí vẫn có những<br />
2. Những hoạt động khai thác cảm nhận như vậy: “đất này (phủ Gia Định<br />
tài nguyên biển đảo phát triển các ngành - tg) nhiều khe suối, đường thủy như mắc<br />
kinh tế Đàng Trong thế kỷ XVI-XVIII cửi, không thể đi đường bộ được. Người<br />
Việt Nam có đường bờ biển dài giàu chở thuyền lớn, người thường chở<br />
3260km, tính trung bình cứ vào khoảng thuyền nhỏ để đi ra các vụng biển” (3;202).<br />
100km2 lại có 1km bờ biển. Không những Có thể kể tên các cửa biển lớn như Cửa<br />
thế, Việt Nam còn có hải phận và vùng khai Việt, Cửa Tư Dung, Cửa Eo mà vị trí của<br />
thác kinh tế biển là 200 hải lí, tương ứng nó, như Phan Huy Chú mô tả: “đất này tiếp<br />
với chiều rộng của thềm lục địa ở đáy biển, liền các dân Man, trao đổi hàng hóa, nguồn<br />
đến độ sâu 200m. Hàng loạt các đảo và lợi và sản vật thường được thừa thãi”<br />
quần đảo gần bờ, xa bờ hay ở giữa biển (3;189). Đó còn là các cửa như Bố Chính,<br />
Đông đều nối với đất liền thông qua thềm Di Luân, Nhật Lệ, Minh Linh, Thuận An,<br />
lục địa. Một vùng biển giàu tiềm năng như Tư Hiền, Điện Dương, Tam Thanh, Sa<br />
vậy cho phép đất nước ta phát triển tổng Huỳnh, Cu Đê, Đà Nẵng, Đại Chiêm, Đại<br />
hợp kinh tế biển với các ngành du lịch, giao Áp thuộc xứ Quảng Nam… Trong số này,<br />
thông vận tải, đánh bắt và khai thác thủy có những cửa biển do vị trí xung yếu của<br />
sản… Từ thế kỉ XVI – XVII, khu vực đồng nó mà chính quyền chúa Nguyễn rồi sau là<br />
bằng sông Hồng đã không còn là trung tâm nhà Nguyễn thời Gia Long đều đặt đồn bảo<br />
kinh tế duy nhất của đất nước. Một vùng tại đây để phòng giữ, canh gác như cửa<br />
kinh tế trù phú, đầy triển vọng đã hình Minh Linh, Đại Chiêm, Đại Áp, Đà Nẵng<br />
thành ở khu vực miền Trung ngày nay với (8;435-437). Như vậy, rõ ràng các cửa biển<br />
sự đa dạng về ngành nghề, trong đó nổi lên là điểm đầu – cuối của tuyến thủy trình từ<br />
vai trò của những hoạt động khai thác biển vào lục địa, đảm trách vai trò cầu nối<br />
nguồn tài nguyên từ biển, đảo. Cụ thể: giao thương, giao thông giữa vùng biển,<br />
Thứ nhất, Giao thông và thương mại: ven biển với miền thượng du và ngược lại.<br />
Đàng Trong có đường bờ biển dài, Bên cạnh đó, các cửa biển này do vị trí của<br />
khúc khuỷu với nhiều mũi, vũng, vịnh và mình mà còn có ý nghĩa vô cùng quan<br />
<br />
19<br />
trọng về mặt an ninh quốc phòng, bảo vệ địa Đông Nam châu Á có quan hệ thương<br />
vùng biển cũng như ngăn ngừa bất kì sự mại với Nhật Bản (5;85). Không những<br />
xâm nhập nào vào đất liền từ phía biển. thế, sự thịnh đạt của hệ thống thương cảng<br />
Từ Đà Nẵng đến Quy Nhơn có các Đàng Trong còn có sức hấp dẫn lớn, thu<br />
vịnh nước sâu như vịnh Đà Nẵng, vịnh hút nhiều dòng thiên di và cư dân khu vực<br />
Dung Quất, vịnh Nước Ngọt hay vịnh Quy mang hàng hóa đến các cảng thị để trao<br />
Nhơn, thuận lợi cho việc hình thành các đổi, buôn bán. Điều này có thể thấy rất rõ<br />
đô thị cảng ven biển - nơi diễn ra các hội qua sự hiện diện của đông đảo cộng đồng<br />
chợ, các thương vụ với thương nhân nước người Hoa và người Nhật ở đô thị Hội An.<br />
ngoài hay thương nhân đến từ nhiều địa Các thương nhân, giáo sĩ phương Tây<br />
phương lân cận, đồng thời ghi dấu sự nhộn có dịp đi qua hay đến Đàng Trong thời kì<br />
nhịp vào ra của tàu thuyền buôn bán, vận này có nhiều ghi chép và đưa ra những<br />
tải. Đặc biệt, vùng biển này có các cảng nhận xét khách quan về hệ thống cảng thị<br />
nước sâu, do đó mà có thể đón các tàu ven biển thuộc vương quốc các chúa<br />
thuyền ngoại quốc có trọng tải lớn, trên hải Nguyễn. Trong ghi chép của họ thì Đàng<br />
trình quốc tế từ Ấn Độ Dương lên bắc Thái Trong là một vùng đất giàu có, trù phú với<br />
Bình Dương, từ bán đảo Đông Dương đến rất nhiều sản vật quý hiếm. Do nằm ở trung<br />
các quần đảo của châu Đại Dương vào neo điểm của một trong những tuyến chính của<br />
đậu. Có thể nói, các cảng thị của Đàng hệ thống giao thương châu Á nên các<br />
Trong ở vị trí khống chế một ngã tư đường thương cảng nổi tiếng ở Đàng Trong thời<br />
biển trọng yếu. Trong thời đại mà quan hệ kì này như Thanh Hà (Huế), Hội An<br />
hải thương phát triển sôi động từ sau các (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định) đều<br />
cuộc phát kiến địa lí lớn thì vị trí này lại có vị trí quan trọng.<br />
càng có giá trị đặc biệt. Bên cạnh các bạn Giáo sĩ người Ý là C. Borri, đến Đàng<br />
hàng truyền thống thì sang giai đoạn thế kỉ Trong năm 1618 – 1621 cho biết: vùng<br />
XVI – XVIII, trong nền ngoại thương của duyên hải Đàng Trong “chỉ trong khoảng<br />
Đại Việt ở khu vực phía nam đã xuất hiện hơn 100 dặm một chút mà người ta đếm<br />
thêm nhiều nhân tố mới. được hơn 60 hải cảng, tất cả đều thuận tiện<br />
Phủ biên tạp lục của Lê Qúy Đôn cho để cập bến và lên đất liền. Là vì ở ven bờ<br />
biết, vào thế kỉ XVII – XVIII, các cảng của có rất nhiều nhánh biển lớn. Hải cảng đẹp<br />
Đàng Trong luôn là điểm đến của các nhất, nơi tất cả những người ngoại quốc<br />
thuyền buôn từ Trung Quốc, Nhật Bản, đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh<br />
Xiêm La, Lữ Tống (Luzon), Cựu Cảng tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng<br />
(Phillipin), Mã Cao (Bồ Đào Nha), Hà Lan… Nam” (2;91).<br />
Các tàu, thuyền buôn quốc tế không chỉ Tại cảng thị Hội An, theo mô tả của<br />
đến thu mua hàng hóa mà còn đem theo C. Borri là nơi tập trung nhiều thương lái<br />
nhiều thương phẩm đáp ứng nhu cầu của nước ngoài, trong đó, “người Tàu và người<br />
thị trường Đàng Trong và toàn khu vực nói Nhật là những người làm thương mại chính<br />
chung (4;291). Số thương thuyền của Nhật yếu ở xứ Đàng Trong tại một chợ phiên<br />
Bản đến buôn bán với Đàng Trong vào đầu họp hàng năm ở một hải cảng và kéo dài<br />
thế kỉ XVII thậm chí còn vượt xa số tới chừng bốn tháng. Người Nhật chở trên<br />
thương thuyền tới buôn bán với Xiêm và thuyền của họ lượng hàng giá trị bằng bốn<br />
Cao Miên. Vương quốc của họ Nguyễn hay năm triệu bạc, còn người Tàu chở<br />
được đặt ở đầu danh sách các nước ở lục trong tàu họ gọi là “somes” (thuyền mành)<br />
<br />
20<br />
rất nhiều thứ lụa mịn và nhiều thứ hàng phía Nam. Không có thương mại, Đàng<br />
hóa khác của xứ họ. Chúa thu được lợi Trong khó có thể tồn tại nổi cho dù tài<br />
nhuận lớn trong việc buôn bán này bằng nguyên thiên nhiên có phong phú và dồi<br />
thuế hàng hóa và thuế hải khẩu ngài đặt ra dào đến đâu, vì những khó khăn mà Đàng<br />
và cả nước đều kiếm được nhiều mối lợi Trong phải đương đầu trong thời điểm đó.<br />
không thể tính hết (2;90). Bên cạnh đó, một số hòn đảo lớn và<br />
Đại Nam nhất thống chí chép rõ: nhỏ ở ngoài khơi thuộc Đàng Trong, nhờ<br />
“Chợ Hội An tục gọi là phố Hội An, phía sở hữu những bãi cát vàng bằng phẳng,<br />
Nam gần sông Cái, trên bờ hai bên phố rộng rãi, lại có suối nước ngọt nên còn là<br />
ngói liên tiếp chừng 2 dặm, bến sông nơi trú ẩn lí tưởng cho các thuyền buôn đi<br />
thuyền ghe tấp nập đi lại như mắc cửi, có biển gặp gió bão hay cho dân chúng trong<br />
nhiều khách buôn người Thanh trú ngụ, đất liền mỗi khi có giặc dã, cướp bóc.<br />
buôn bán hàng hóa phương Bắc, có đình, Thứ hai, khai thác các nguồn lợi<br />
chợ và hội quán, buôn bán tấp nập, làm nơi hải sản<br />
đô hội lớn xưa nay. Lại ở phía Nam sông là - Cá, tôm các loại, mắm: Do điều kiện<br />
đầm Trà Nhiêu, chỗ thuyền buôn các nước môi trường tự nhiên vừa có sông, có biển,<br />
dừng đậu”(8;439). có đất đai trù phú tốt tươi mà cư dân vùng<br />
Như vậy, trên thực tế, hệ thống cảng đồng bằng duyên hải miền Trung ngay từ<br />
thị ven biển của Đàng Trong, mà đặc biệt rất sớm đã không chỉ chú trọng lĩnh vực<br />
là Hội An đã trở thành nơi điều phối, trung nông nghiệp mà còn hướng các hoạt động<br />
chuyển hàng hóa của hệ thống giao thương sinh kế của mình ra biển; họ là những<br />
khu vực Đông Á. Cùng với các chợ địa người giỏi nghề đi biển, khai thác hải sản.<br />
phương (như chợ Thế Lại huyện Kim Trà, Đàng Trong là vùng biển sâu, giàu có và<br />
chợ Đại Phúc huyện Lệ Thủy, Chợ Thuận phong phú về nguồn lợi hải sản: cá, tôm,<br />
huyện Vũ Xương và Hải Lăng, chợ Đan hải sâm, ngọc trai, đồi mồi…<br />
Lương huyện Đan Điền…), các thành - với Đặc biệt, đánh bắt cá được coi như<br />
vai trò là trung tâm hành chính, chính trị, hoạt động chủ đạo của cư dân ven biển<br />
quân sự của vùng (như thành Ninh Viễn, miền Trung. C. Borri cho rằng “Ngành ngư<br />
thành Hóa, thành Thuận…)(1;91-92), các nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá ở đây có<br />
làng nghề vùng ven đô thì các đô thị cảng ở hương vị tuyệt diệu, rất đặc biệt. Xứ này<br />
Đàng Trong thời kì này đã tạo thành một chạy dọc bờ biển nên có rất nhiều thuyền<br />
mạng lưới sản xuất, phân phối, lưu thông, đánh cá và rất nhiều thuyền tải cá đi khắp<br />
buôn bán với thị trường trong nước và xứ, từng đoàn người chuyển cá từ biển tới<br />
nước ngoài mà trung tâm quan trọng nhất tận miền núi, có thể nói trong một ngày 24<br />
là đô thị cảng Hội An. Hội An thực sự là tiếng thì ít ra họ dùng 20 tiếng để làm việc<br />
biểu đạt rõ rệt nhất cho sức mạnh kinh tế này”, và: “không ở đâu nghề cá và cá có<br />
của chính quyền Đàng Trong ở cả hai lĩnh thể so sánh với Đàng Trong”. Để lí giải cho<br />
vực: ngoại thương và nội thương (7;15). thực tế phát triển nghề cá ở Đàng Trong,<br />
Có thể thấy rõ một thực tế, đó là chính C. Borri cho rằng sở dĩ người người Đàng<br />
thương nghiệp mà đặc biệt là ngoại thương Trong chuyên chú việc đánh cá là vì họ “ăn<br />
qua đường biển đã làm cho Đàng Trong chỉ cá nhiều hơn ăn thịt”, lại “rất ham thứ nước<br />
trong vòng ít thập niên trở nên giàu có và sốt làm bằng cá ướp muối” (nước mắm –<br />
đủ mạnh để có thể duy trì được sự độc lập tg). Thậm chí, nhà nào cũng dự trữ một<br />
của mình đối với phía Bắc và mở rộng về lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như<br />
<br />
21<br />
tại nhiều nơi ở châu Âu người ta dự trữ dành riêng để phục vụ cho tầng lớp thượng<br />
rượu” (2;29-30). Nổi tiếng hơn cả và được lưu của Đàng Trong.<br />
ưa chuộng có “mắm muối thì làng Diêm - Yến sào: Ở gần bờ có các nhóm đảo<br />
Trường huyện Tư Vinh ngon nhất, ở cửa Cù Lao Chàm, đảo Lý Sơn, Cù Lao Cỏ với<br />
Roòn là thứ nhì” (1;37). Ngoài cá, tôm thì nhiều đảo nhỏ nối sát nhau như hòn Lao,<br />
vùng biển Đàng Trong còn vô cùng phong hòn Tai, hòn Dài, hòn Lá, hòn Mồ… có<br />
phú các loại hải sản khác như: Hàu sản vách đá dựng đứng thích hợp cho chim yến<br />
xuất từ ven biển Hải Vân và cửa biển Tư làm tổ. Về đặc tính sinh hoạt của loài chim<br />
Khách, tại làng Viễn Tuy, huyện Khang này, ngay từ thế kỉ XVII, khi đặt chân đến<br />
Lộc cồn hàu cũng nhiều. Sò thì bờ cát ven Đàng Trong thì C. Borri đã lưu ý đến và<br />
biển, mà vùng Tân Chu huyện Tư Vinh mô tả: “xứ này có một thứ chim be bé<br />
nhiều nhất. Loài ngao thì từ cửa Roòn cho giống như chim én, nó làm tổ ở các cồn đá<br />
tới cửa Tư Khách đâu đâu cũng có… Tôm và hốc đá sóng biển vỗ vào. Con vật nhỏ<br />
hùm đánh bắt ở cửa Roòn châu Bố Chính, này dùng mỏ lấy bọt biển và với chất toát<br />
cá vược, cá heo có ở cửa biển huyện Tư ra từ dạ dày để làm tổ”…Và, yến sào nhiều<br />
Vinh và ở đảo Cồn Cỏ châu Minh Linh. Sò đến nỗi “người ta chất đầy mười chiếc<br />
Cửu khổng thu được ở đảo Thủy Cần, Lệ thuyền nhỏ những tổ yến nhặt ở dọc các<br />
Thủy…, cá hồng là sản vật của cửa biển Tư hốc núi đá, trong khoảng chưa đầy nửa<br />
Vinh; cá nheo, cá cháy đánh bắt ở cửa biển dặm” (2;31). Sách Lịch triều hiến chương<br />
Tư Khách, Khang Lộc; cá bống và cá tống loại chí của Phan Huy Chú cũng chép: trên<br />
công đều từ biển cả…”(1;37-38). các sườn đảo Hoàng Sa ở phía Đông Bắc<br />
Các sản vật từ biển mà người dân đánh xã An Vĩnh, huyện Bình Dương thuộc phủ<br />
bắt, chế biến như vây, bóng cá, tôm cá khô, Tư Nghĩa xưa cũng có vô số yến sào<br />
dầu cá, mắm ướp… không những trở thành (3;197). Trong các sản vật từ biển, đảo<br />
các mặt hàng chủ yếu được trao đổi ở các trước kia thì tổ yến là loại thực phẩm cao<br />
chợ, các cảng thị ven biển mà còn được cấp, bổ dưỡng, chúa độc quyền sử dụng<br />
chuyên chở lên miền Thượng (Trường Sơn hay làm đồ cống phẩm cho vua Tàu. Căn<br />
– Tây Nguyên) để đổi lấy thóc, gạo, gà, cứ vào màu sắc, kích thước, khối lượng<br />
trâu, sáp ong, vỏ cây dó, vải, khăn tay của người ta phân yến thành các loại yến huyết,<br />
người Man (3;189); hay bán cho thương lái yến hồng, quan, thiên, bài, địa, vụn…<br />
nước ngoài… Thuế mắm từ các làng xã ven Trong đó yến huyết có giá trị cao nhất,<br />
biển có nghề đánh cá cũng là một trong được coi như một loại thần dược.<br />
những nguồn thu quan trọng của chính Vào thế kỉ XVIII, giá yến là 200 quan<br />
quyền chúa Nguyễn. 1 tạ, so với ngà voi là 40 quan và sừng tê là<br />
- Hải sâm: Trên các đảo của Đàng 500 quan (7;11). Ở phủ Thăng Hoa, phủ<br />
Trong, đặc biệt là vùng Hoàng Sa có nhiều Quy Nhơn, trên các đảo ở cửa biển Tân<br />
hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, giải, ba ba, được Quan, Thời Phú, Nước Ngọt, Nước Mặn<br />
khai thác qua nhiều thế hệ. Lê Quý Đôn đều có nhiều yến sào. Phủ biên tạp lục ghi<br />
cho biết: “có hải sâm, tục gọi là con đột rõ: “xã Thanh Châu, phủ Thăng Hoa dinh<br />
đột, bơi lội ở bên bãi, lấy về dùng vôi xát Quảng Nam có nghề lấy yến sào”(4;290).<br />
qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm Đầu tiên dân làng Thanh Châu khai thác<br />
nước, cua đồng cạo sạch đi, nấu với tôm và yến một cách tự phát, dần dần sau này các<br />
thịt lợn, ngon lắm”(4;154). Cùng với yến chính quyền phong kiến đã lập “đội Thanh<br />
sào, hải sâm là thứ hải sản quý giá, thường Châu” để quản lí các yến hộ. Nghề yến trở<br />
<br />
22<br />
thành nghề cổ truyền của cư dân Thanh - Muối: Do vùng biển Đàng Trong<br />
Châu, tồn tại cho đến ngày nay. thuộc khu vực có độ mặn khá cao, từ<br />
Là một sản vật quý nên chính quyền 28-34% (12), lại nhiều ngày nắng (10;127),<br />
Đàng Trong thực thi chế độ kiểm soát rất tạo nên một nền nhiệt độ cao, tăng dần từ<br />
chặt chẽ từ việc khai thác, chế biến đến sử phía Bắc xuống phía Nam nên khu vực ven<br />
dụng tổ yến. Người dân sở tại thu lượm biển của Đàng Trong có điều kiện thuận lợi<br />
hay khai thác được tổ yến đều nộp cho để sản xuất muối, cung cấp lượng muối cần<br />
quan sở tại để chuyển dâng lên chúa thì thiết cho việc làm mắm, ướp cá cũng như<br />
được miễn thuế thân. “Hàng năm cứ tháng phục vụ nhu cầu muối ăn của đồng bào<br />
2 thì nộp 120 tổ yến non, mỗi người khai miền xuôi và vùng cao. Phủ biên tạp lục<br />
thác yến hạng tráng nộp 2kg yến sào hoặc cho biết: “Ven biển xứ Thuận Hóa có<br />
bằng tiền 2 quan, hạng dân nộp 1kg 8 lạng, ruộng muối, đều tùy lò hiện có, theo lệ thu<br />
hạng lão và hạng đinh mỗi người nộp 1kg, thuế diêm điền”(4;155). Phan Huy Chú<br />
cả xã nộp lễ thường tân đinh đán 1500 tổ trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng<br />
(4;290). Nhìn chung chỉ có chúa và giới chép rằng: “Cửa Di Luân ở châu Bố Chính,<br />
quan lại quý tộc mới có thể sử dụng yến … có sản ra muối ăn rất ngon”(3;193). Khu<br />
sào cùng các loại hàng hóa quý hiếm khác. vực Sa Huỳnh thuộc Quảng Ngãi ngày nay<br />
Thương gia nước ngoài như Nhật Bản, đã và đang là đồng muối có chất lượng tốt,<br />
Trung Quốc muốn có được những sản vật khả năng khai thác lớn.<br />
quý đó thường phải trao đổi bằng bạc nén. Ngoài ra còn phải kể đến hoạt động<br />
- Đồi mồi: Theo ghi chép của thư tịch khai thác hóa vật từ tàu đắm dưới lòng<br />
cổ thì ở các phủ Tư Nghĩa, Thăng Hoa, biển khơi, khu vực xung quanh các đảo và<br />
Hoài Nhân… đều có đồi mồi. Trong các bãi đá, bãi san hô ngầm. Những vật dụng<br />
vụng biển ở Cù Lao Chàm hay trên đảo tìm thấy được đánh giá cao là các loại vũ<br />
Hoàng Sa thường có thứ đồi mồi rất lớn, khí. Nếu chúng còn ở tình trạng tốt thì tiếp<br />
gọi là hải ba, mai mỏng, có thể ghép làm tục được sử dụng, hoặc có thể tái chế bởi lẽ<br />
các đồ vật; trứng nó như đầu ngón tay cái Đàng Trong khá khan hiếm về quặng kim<br />
(3;197). Theo dân gian, đồi mồi còn được loại, nhất là đồng, sắt trong khi chính<br />
dùng làm vị thuốc chữa các chứng bệnh quyền chúa Nguyễn thường xuyên có nhu<br />
như động kinh, mụn nhọt và đậu mùa. cầu đúc súng và đúc tiền.<br />
- Xà cừ: là sản vật được khai thác Như vậy, rõ ràng các nguồn lợi trực<br />
nhiều nhất, rất sẵn ở Cù Lao Chàm, bán tiếp từ tài nguyên biển, đảo đã đem lại giá<br />
đảo Sơn Trà cho đến Hoàng Sa. Lê Quý trị kinh tế lớn; phần lớn trong đó trở thành<br />
Đôn cho biết: Xà cừ sản ở Quảng Nam. các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao, đóng<br />
Người xứ Thuận Hóa hay dùng để trang vai trò khá quan trọng trong sự duy trì<br />
sức khay vuông, hộp tròn, hòm mũ, chuôi lượng thương lái ngoại quốc đến Đàng<br />
kiếm. Ở Chiêm thành và Cao miên, khay Trong và điều tất yếu là kéo theo sự phát<br />
hộp trang sức bằng xà cừ thì khảm lẫn các triển của nền ngoại thương khu vực này<br />
thủy tinh, nhỏ, xanh biếc rực rỡ”(4;155). trong suốt các thế kỉ XVI-XVIII.<br />
Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương Thứ ba, Biển và nghề đi biển đã<br />
loại chí cũng có những mô tả về loại sản kích thích một số ngành nghề thủ công<br />
vật này trên đảo Hoàng Sa: “có thứ ốc gọi phát triển<br />
là ốc xà cừ, có thể khảm vào các đồ - Đóng tàu thuyền: Trên thực tế khó<br />
vật”(3;197). có thể hình dung có một thời đại thương<br />
<br />
23<br />
mại thịnh đạt ở Đàng Trong mà không có và tàu thuyền ở Việt Nam thời Nguyễn, vào<br />
vai trò tích cực của nghề đóng thuyền, làm năm 1729, chúa Nguyễn cho lập “đội Mộc<br />
mộc. Thời các chúa Nguyễn, nghề đóng than” gồm 195 người chuyên khai thác gỗ<br />
thuyền được chú trọng phát triển, trước tiên đóng thuyền đem về nộp cho phủ chúa<br />
để phục vụ nhu cầu đi lại của phủ chúa và (10;14). Những người này được miễn thuế<br />
bộ máy nhà nước ở Đàng Trong, trong điều thân và miễn lao dịch, nhưng hàng năm<br />
kiện mà đường bộ chưa phát triển, chủ yếu phải tìm kiếm cho đủ số gỗ mà giao nộp<br />
dùng đường thủy qua hệ thống các sông theo định mức.<br />
thông với cửa biển. Yếu tố tiếp theo kích - Nghề đóng ghe bầu: Do có thể khai<br />
thích sự thịnh đạt của nghề này là nhu cầu thác được một số loại gỗ quý đặc biệt là gỗ<br />
xây dựng lực lượng thủy binh mạnh chiến sao mà làng mộc Kim Bồng (Hội An)<br />
đấu với thủy binh của họ Trịnh ở Đàng chuyên đóng ghe bầu trở nên nổi tiếng.<br />
Ngoài (theo đường biển tiến vào) và do yêu Ghe bầu Kim Bồng cung cấp cho nhiều<br />
cầu phòng thủ bờ biển, xác lập chủ quyền vùng thuộc xứ Đàng Trong, và như vậy<br />
và khai thác hải vật, tìm kiếm hóa vật ở ghe bầu cũng trở thành một loại sản phẩm<br />
những hòn đảo và quần đảo nằm trong hàng hóa, nghề đóng ghe bầu có điều kiện<br />
quyền kiểm soát của chính quyền các chúa để phát triển hơn trước (6;8).<br />
Nguyễn như Hoàng Sa, Trường Sa, Côn - Nghề đan, dệt cói: Xã Phú Trạch về<br />
Lôn… Cuối cùng, do nhu cầu giao thương huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong xứ<br />
bằng đường thủy giữa các vùng thuộc Thuận Hóa xưa có nghề dệt cói làm chiếu,<br />
Đàng Trong, giao thương giữa Đàng Trong đan cói làm buồm cho tàu thuyền (3;190).<br />
với các nước trong khu vực đã khiến các Kinh tế hàng hóa khởi sắc đã kéo theo sự<br />
chúa Nguyễn tập trung ưu tiên phát triển phát triển của hàng loạt các ngành nghề thủ<br />
ngành đóng thuyền trên tất cả các phương công, trong đó có nghề đan dệt các sản<br />
diện: kĩ thuật, số lượng và chủng loại tàu phẩm từ cói. Bên cạnh mặt hàng truyền<br />
thuyền (10;11-12). thống là chiếc chiếu với kích cỡ và hoa văn<br />
Ngành đóng thuyền ở Đàng Trong phong phú, không thua kém sản phẩm của<br />
thuộc độc quyền của nhà nước, do các chúa thợ thủ công làng Quảng Lãm vùng Kinh<br />
Nguyễn đích thân kiểm soát, chỉ đạo. Một Bắc thì người dân Phú Trạch còn đan cói<br />
nhà buôn người Anh có mặt ở Đàng Trong thành những cánh buồm, bộ phận không<br />
năm 1792-1793 đã miêu tả rằng: “Nhà vua thể thiếu của tàu thuyền đi biển.<br />
là người quản đốc các cảng biển, trong 3. Kết luận<br />
công việc đóng thuyền thì không có một Sự phong phú tài nguyên biển, đảo (cá,<br />
cái đinh nào được đóng xuống mà lại tôm, mắm, muối, hải sâm, đồi mồi, xà cừ,<br />
không có sự tham vấn ban đầu của chúa” yến sào…) của Đàng Trong đã thu hút một<br />
(6;50-51). Nhờ có các biện pháp tích cực lượng lớn các thương nhân trong nước và<br />
mà chúa Nguyễn đã xây dựng được một nước ngoài vượt biển đến buôn bán trong<br />
đội thuyền hùng hậu, đảm bảo cho các nhu các thế kỉ XVI – XVIII. Hoạt động trao đổi<br />
cầu giao thông, thương mại và quốc phòng. thương mại sôi động của khu vực Đàng<br />
- Nghề khai thác gỗ: Để phục vụ việc Trong với các thị trường trong nước và<br />
đóng tàu thuyền, chúa Nguyễn đã huy động nước ngoài qua hệ thống cảng thị, chợ,<br />
một lượng nhân lực lớn để tìm kiếm, khai bến… trong một chừng mực nhất định đã<br />
thác các loại gỗ tốt làm nguyên liệu đóng kéo theo sự phát triển của các ngành như<br />
thuyền. Theo tác giả của Nghề đóng thuyền nông nghiệp trồng trọt, thủ công nghiệp<br />
<br />
24<br />
(trong đó đặc biệt là các nghề thủ công bổ sử, mà còn là bài học kinh nghiệm quý báu<br />
trợ cho nghề đi biển và khai thác biển như cho chúng ta hôm nay trong việc hoạch<br />
làm mộc, đóng ghe thuyền…). Tài liệu định phát triển kinh tế biển và giữ gìn toàn<br />
nước ngoài và các thư tịch cổ của Việt Nam vẹn phần lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc.<br />
đều khẳng định một thực tế không thể phủ<br />
nhận, đó là vào các thế kỉ XVI- XVIII, TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
Đàng Trong là một vùng đất rộng lớn với<br />
1. Dương Văn An (2001), Ô châu cận lục, Bản<br />
nền kinh tế hàng hóa khá phát triển, nhiều hiệu đính và dịch chú của Trần Đại Vinh và<br />
phố cảng ra đời, khách thương vào ra tấp Hoàng Văn Phúc, Nxb Thuận Hóa, Huế.<br />
nập. Đây là một thay đổi căn bản và đầy ấn 2. C. Borri (2014), Xứ Đàng Trong năm 1621,<br />
tượng trong lịch sử Việt Nam nói chung, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.<br />
lịch sử kinh tế hàng hóa của đất nước ta 3. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương<br />
loại chí, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
thời kì tiền tư bản nói riêng. Có thể khẳng 4. [4]. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục,<br />
định rằng, nguồn lợi phong phú do biển, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.<br />
đảo đem lại trong bối cảnh lịch sử thế kỉ 5. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh<br />
XVI-XVIII từ hoạt động giao thông vận tải tế - xã hội Việt Nam thế kỉ XVII – XVIII.<br />
cho đến cung cấp các loại sản vật quý Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.<br />
6. J.Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ<br />
hiếm… đã góp phần tạo dựng Đàng Trong Nam Hà (1792-1793), Nxb Thế Giới, HN<br />
thành một vùng kinh tế thứ hai của đất 7. Nguyễn Văn Kim (2011), “Các nguồn hàng<br />
nước với hạt nhân là đô thị Hội An, bên và thương phẩm của Đàng Trong”, Tạp chí<br />
cạnh khu vực châu thổ sông Hồng với đô Nghiên cứu lịch sử, số 4 (420).<br />
thị Thăng Long – Kẻ Chợ đã xuất hiện từ 8. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam<br />
nhất thống chí, tập II, Nxb Thuận Hóa<br />
các giai đoạn trước. Nói cách khác, đô thị 9. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỉ sự, Ủy<br />
cảng Hội An là biểu hiện rõ rệt nhất sự ban phiên dịch sử liệu VN, VĐH Huế.<br />
thịnh vượng của Đàng Trong thế kỉ XVI - 10. Trần Đức Anh Sơn (2014), Ngành đóng<br />
XVIII. Hơn thế, trên nền tảng kinh tế phát thuyền và tàu thuyền ở Việt Nam thời Nguyễn,<br />
triển, họ Nguyễn đã thành công trong công Nxb Văn hóa – Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.<br />
11. Lê Thông (2006), Địa lí ba vùng kinh tế trọng<br />
cuộc xây dựng chính quyền độc lập, từng điểm ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN<br />
bước khai phá và nắm quyền quản lí phần 12. website:http://bachkhoatrithuc.vn/encyclopedi<br />
lãnh thổ phía Nam của đất nước. Giá trị của a/1793-02633470714073281250/Hoa-hoc-va-<br />
tài nguyên biển, đảo cùng vai trò của nó bien/Do-muoi-o-Bien-Dong.<br />
trong quá khứ không chỉ là câu chuyện lịch<br />
<br />
Ngày nhận bài: 11/5/2015 Biên tập xong: 15/7/2015 Duyệt đăng: 20/7/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
25<br />