intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Giáo dục học (Dùng cho ngành GD Mầm non, hệ từ xa): Phần 2

Chia sẻ: Lê Thị Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:48

111
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 Giáo trình Giáo dục học (Dùng cho ngành GD Mầm non, hệ từ xa) gồm các nội dung như đánh giá kết quả học tập của học sinh, lý luận giáo dục. Tham khảo nội dung giáo trình để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Giáo dục học (Dùng cho ngành GD Mầm non, hệ từ xa): Phần 2

  1. CHƯƠNG V: ĐÁNH GIÁ KẾT QỦA HỌC TẬP CỦA HS 1. Ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá 1. Đối với HS Việc KT- ĐG có hệ thống và thường xuyên sẽ giúp HS kịp thời biết được kết quả học tập của mình để tự điều chỉnh hoạt động học. Cụ thể: - Về mặt giáo dưỡng: Việc KT- ĐG giúp HS thấy được mức độ lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của mình, những lỗ hổng nào cần phải bổ khuyết trước khi bước vào một phần mới của chương trình học tập. - Về việc phát triển năng lực nhận thức: Thông qua KT-ĐG HS có điều kiện để tiến hành các HĐ trí tuệ như: ghi nhớ, tại hiện, hệ thống hoá, khái quát hoá tri thức, PT năng lực tư duy, năng lực vận dụng KT đã học vào các tình huống khác nhau. - Về mặt giáo dục: KT- ĐG nếu được tổ chức nghiêm túc sẽ hình thành cho HS động cơ học tập đúng đắn, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý chí vươn lên, củng cố niềm tin vào bản thân, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan trong học tập. 2. Đối với giáo viên Việc KT- ĐG kết hợp với việc theo dõi thường xuyên sẽ giúp GV nắm được thông tin ngược từ phía HS để điều chỉnh HĐ dạy của mình. Cụ thể: giúp GV nắm được một cách chính xác và cụ thể năng lực và trình độ của mỗi HS trong lớp mình phụ trách để có biện pháp giúp đỡ riêng cho phù hợp với từng đối tượng, qua đó nâng cao chất lượng học tập chung của cả lớp. 3. Đối với cán bộ quản lí các cấp KT - ĐG HS cung cấp cho cán bộ QL các cấp những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học trong một đơn vị GD để có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo kịp thời nhằm duy trì và phát triển chất lương dạy học. Tóm lại, đánh giá thực hiện 3 chức năng cơ bản: - Chức năng quản lí: Xếp loại hoặc tuyển chọn người học; duy trì và PT chuẩn chất lượng. - Kiểm soát và điều chỉnh hoạt động dạy - học - Giáo dục và phát triển người học II. Yêu cầu sư phạm đối với việc KT- ĐG 1. Đảm bảo tính khách quan, công bằng Việc đánh giá kết quả học tập của HS phải khách quan và chính xác, tạo điều kiện để mỗi HS bộc lộ hết khả năng, trình độ của mình, ngăn chặn mọi biểu hiện thiếu 62
  2. trung thực. Việc đánh giá phải sát với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học, tránh những nhận định chủ quan, áp đặt, thiếu căn cứ. Kết hợp nhiều phương pháp và kĩ thuật đánh giá khác nhau: kết hợp đánh giá bằng định tính và bằng định lượng, kĩ thuật đánh giá truyền thống và hiện đại. 2. Đảm bảo tính toàn diện Nội dung KT- ĐG cần bao quát được toàn bộ các nội dung trọng tâm. không chỉ về mặt số lượng mà quan trọng là chất lượng, không chỉ về mặt kiến thức mà cả về kĩ năng, thái độ, tư duy. Công cụ đánh giá cần đa dạng, không chỉ đo lường khả năng tái hiện mà đánh còn đánh giá khả năng phân tích, tổng hợp, suy luận. 3. Đảm bảo tính hệ thống Việc KT- ĐG cần phải được tiến hành theo kế hoạch, có hệ thống. Đánh giá trước, trong và sau khi học học một phần của chương trình. Kết hợp với theo dõi thường xuyên với kiểm tra đánh giá định kì và đánh giá tổng kết cuối năm học, cuối khoá học. Số lần KT phải đủ mức để có thể đánh giá chính xác cả quá trình học tập của HS.. 4. Đảm bảo tính công khai Việc tổ chức KTĐG phải được tiến hành công khai, kết quả phải được công bố kịp thời để mỗi HS có thể tự đânh giá, xếp hạng trong tập thể III. Các PP kiểm tra, đánh giá 1. Quan sát Là PP đánh giá phổ biến. Nó thuận lợi cho việc thu thập thông tin để đánh giá về giá trị và thái độ, các hoạt động thực hành của HS, nhất là đối với HS nhỏ tuổi. Có 2 kiểu QS: - QS quá trình: là theo dõi hoặc lắng nghe HS đang thực hiện các HĐ học tập. - QS sản phẩm: là xem xét sản phẩm học tập của HS sau một hoạt động Để QS có hệ thống, GV có thể sử dụng các kĩ thuật sau: * Sổ theo dõi kết quả kiểm tra, đánh giá HS: loại sổ này được cung cấp với mẫu thống nhất do Bộ GD-ĐT ban hành. * Sổ nhật kí GV: GV có thể theo dõi và nghi lại hành vi, thái độ học tập của HS mỗi ngày. * Phiếu kiểm kê (bảng kiểm): dùng để theo dõi mức độ thành thạo của HS về một kĩ năng học tập nào đó, như kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, kĩ năng sử dụng SGK, làm thí nghiệm, thực hành. * Thang mức độ: cũng giống như phiếu kiểm kê, song nó có yêu cầu cao phiếu kiểm kê ở chỗ kí năng của HS được xếp hạng theo thang 3 hoặc 5 bậc. 2. Kiểm tra nói (kiểm tra miệng, vấn đáp) PP kiểm tra nói được áp dụng rộng rãi trong hình thức KT thường xuyên và đánh giá từng phần. PP này được được sử dụng trong các bước kiểm tra bài cũ, trong quá trình dạy bài mới, củng cố bài học, ôn tập… * Ưu điểm: Nó cung cấp cho GV những thông tin ngược từ phía HS một cách kịp thời để điều chỉnh hoạt động dạy của mình, nắm được trình độ của HS trong lớp. 63
  3. * Hạn chế: Trong một tiết học GV chỉ có thể kiểm tra được một số HS nhất định * Yêu cầu: - GV cần nghiên cứu kĩ những kiến thức cơ bản của bài, nắm chắc yêu cầu của chương trình. Dung lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi vừa phải, sát với trình độ của HS. - Câu hỏi nêu ra cho HS phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu. Bên cạnh câu hỏi chính cần dự kiến câu hỏi bổ sung, chú ý năng lực vận dụng kiến thức, sự sáng tạo trong câu trả lời của HS. - Sau khi nêu câu hỏi chung cho cả lớp cần dành thời gian cho HS suy nghĩ, rồi mới chỉ định trả lời. - Cần lưu ý đến thái độ của GV khi HS trả lời câu hỏi. - Trước khi công bố điểm cho HS cần có nhận xét ưu khuyết điểm trong câu trả lời. 3. Trắc nghiệm TN trong GD là một PP đo để thăm dò một số đặc điểm năng lực trí tuệ của HS (chú ý, trí nhớ, năng khiếu…), hoặc để kiểm tra, đánh giá một số KT, KN, thái độ của HS. TN viết có 2 loại: - TN tự luận (essay test) - TN KQ (objective test) 3.1. TN chủ quan (tự luận) * Khái niệm: là dạng TN dùng những câu hỏi mở (câu hỏi tự luận) đòi hỏi HS tự xây dựng câu trả lời. Câu trả lời có thể là một đoạn văn ngắn, một bài tóm tắt, một bài diễn giải hoặc một tiểu luận. Bài KT tự luận có thể thực hiện ở đầu hay cuối tiết học, hoặc trọn 1 tiết học, sau 1 chương hay 1 phần của chương trình, hoặc trong vài tiết cuối HK hay cuối năm học. * Ưu điểm: - Hiệu quả kinh tế cao hơn so với KT miệng: cùng một lúc có thể KT tất cả HS trong lớp, do đó đánh giá được trình độ chung, đề TL có thể đề cập nhiều vấn đề nhằm đánh giá HS ở nhiều mặt hơn. - Có thể đánh giá được khả năng tư duy, khả năng diễn đạt bằng văn viết, thái độ của HS (nhất là đối với các lĩnh vực KHXH). * Hạn chế: Mang tính chủ quan từ phía người chấm, do đó khó đảm bảo tính công bằng, chính xác. - Đề thi chỉ có thể đề cập một số KT mấu chốt nào đó trong chương trình rất dài, dễ làm cho HS học tủ, học lệch. Đồng thời khó có điều kiện đánh giá kĩ năng như thực hành, TN của HS. - Mất thời gian cho việc tổ chức thi, chấm thi * Yêu cầu: - Việc chuẩn bị một đề KT viết đòi hỏi GV phải có sự cân nhắc kĩ càng, vừa phải nắm chắc yêu cầu, vừa phải tính đến thực tế dạy học trong phần chương trình được KT. Nội dung câu hỏi phải vừa sức HS, số lượng câu hỏi phải phù hợp với thời 64
  4. gian qui định làm bài, bao quát được những thành phần kiến thức khác nhau của môn học. Câu hỏi trong đề KT phải phân hoá được trình độ của HS (đòi hỏi cả khả năng tại hiện, và khả năng phân tích, tổng hợp, sáng tạo). - Việc tổ chức KT phải nghiêm túc, GD cho HS tính trung thực, thói quen tự KT. - Bài làm của HS cấn được chấm kĩ, trả sớm, cần chỉ rõ các sai sót, nhận xét ưu, khuyết điểm. - Cần có đáp án và biểu chấm. 3.2. TN khách quan 3.2.1. Khái niệm: TNKQ là dạng TN trong đó mỗi câu hỏi có kèm theo những câu trả lời sẵn. Loại câu hỏi này cung cấp cho HS một phần hay tất cả thông tin cần thiết và đòi hỏi HS phải chọn một câu để trả lời hoặc chỉ cần điền thêm một vài từ. Loại này còn gọi là câu hỏi đóng, được xem là TNKQ vì chúng đảm bảo tính khách quan khi chấm điểm. 3.2.2. Các loại câu hỏi TNKQ * Câu ghép đôi (matching items): đòi hỏi thí sinh phải ghép đúng từng cặp nhóm từ ở hai cột với nhau sao cho phù hợp về ý nghĩa. Ví dụ: Câu TN về Lịch sử: (Về văn học, khoa học thời Hậu Lê) Hãy tìm tên tác giả ở cột bên phải phù hợp với tên tác phẩm ở cột bên trái: 1. Hồng Đức quốc âm thi tập a. Nguyễn Trãi 2. Dư Địa chí b. Lương Thế Vinh 3. Đại thành toán pháp c. Lê Thánh Tông 4. Đại Việt sử kí toàn thư d. Lê Văn Hưu đ. Ngô Sĩ Liên Loại câu này thích hợp cho việc kiểm tra một nhóm kiến thức liên quan, gần gũi, chủ yếu là kiến thức sự kiện. Khi biên soạn loại câu TN này cần lưu ý: - Dãy thông tin nêu ra không nên quá dài, nên thuộc cùng một loại, có liên quan với nhau, HS có thể dễ nhầm lẫn. - Cột câu hỏi và cột trả lời không nên bằng nhau, nên có câu trả lời dư ra để HS có thể cân nhắc khi lựa chọn. - Thứ tự các câu trả lời không ăn khớp với thứ tự các câu hỏi để gây thêm khó khăn cho sự lựa chọn. - Câu hỏi và câu trả lời nên nằm trong cùng một trang để HS đỡ nhầm lẫn. * Câu điền khuyết (Supply items): Là loại câu mà câu dẫn có để một vài chỗ trống, HS phải điền vào chỗ trống những từ thích hợp. Loại câu này dễ xây dựng nhưng tính khách quan khi chấm giảm, do đó cũng khó chấm. Khi biên soạn loại TN này cần lưu ý: - Từ phải điền nên là từ có ý nghĩa nhất trong câu - Mỗi chỗ trống chỉ có thể diền một từ hay một cụm từ thích hợp. 65
  5. - Mỗi câu nên chỉ có một hoặc hai chỗ để trống, được bố trí ở giữa câu hoặc cuối câu. các khoảng trống nên có độ dài bằng nhau để HS không đoán được từ phải điền là dài hay ngắn. * Câu đúng sai (yes/no questions): đưa ra 1 nhận định, HS phải lựa chọn 1 trong 2 phương án trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay sai. Ví dụ: Châu Mỹ là châu lục có diện tích và số dân đông nhất thế giới a. Đúng b. Sai Loại câu TN này chỉ thích hợp cho việc kiểm tra những kiến thức sự kiện, cũng có thể dùng đối với các định nghĩa, khái niệm công thức. Nó thường chỉ đòi hỏi trí nhớ, ít kích thích sự suy nghĩ sáng tạo của HS, khả năng phân biệt HS giỏi và HS kém thấp. - Đảm báo tính chính xác của câu dẫn là đúng hay sai - Mỗi câu TN chỉ nên diễn tả một ý độc nhất. - Không nên trích những câu nguyên văn trong SGK - Trong một bài TN không nên bố trí câu đúng bằng số câu sai, không nên sắp đặt các câu đúng theo một trật tự có tính chu kì. * Câu nhiều lựa chọn (Multiple choise questions): Câu hỏi loại này gồm có 2 phần: phần đầu được gọi là phần dẫn, nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu 1 câu hỏi, phần sau là các phương án để chọn, thường được đánh dấu bằng a,b,c,d hoặc 1,2,3,4. Trong các phương án để chọn chỉ có một đúng nhất, các phương án khác được đưa vào có tác dụng gây nhiễu (distractor) đối với HS. VD về câu TN Vật lí: 1 viên bi được ném lên theo phương thẳng đứng. Sức cản của không khí không đáng kể . Trong quá trình chuyển động, gia tốc của viên bi có hướng từ trên xuống: a. Chỉ khi viên bi đi lên b. Chỉ khi viên bi ở điểm cao nhất của quĩ đạo c. Chỉ khi viên bi đi lên và khi đi xuống d. Khi viên bi đi lên, khi ở điểm cao nhất của quĩ đạo và khi đi xuống * Ưu điểm: - Loại câu TN nhiều lựa chọn có thể dùng để đo lường mức độ đạt được ở nhiều loại mục tiêu giáo dục quan trọng: hiểu biết, phê phán, khả năng giải quyết vấn đề, khả năng phán đoán … - Nó phát huy được tính tích cực nhận thức của HS, giúp phân biệt được HS khá, giỏi. - Trong các loại câu TN, loại câu NLC được sử dụng phổ biến hơn cả vì chúng có cấu trúc đơn giản, dễ xây dựng thành các bài thi, dễ chấm điểm. * Nhược điểm: Khó thiết kế: Không phải bất cứ ai có kiến thức chuyên môn cũng viết được câu TN có chất lượng cao cho chuyên môn đó. Một GV phải có trình độ 66
  6. cũng như kinh nghiệm mới có thể viết được những câu hay, đúng chuẩn kĩ thuật. Đồng thời viết loại câu này công phu, mất nhiều thời gian. * Một số điểm lưu ý: - Phần dẫn có thể là 1 câu hỏi, hoặc 1 câu bỏ lửng và phần lựa chọn là đoạn bổ sung để phần gốc trở nên đủ nghĩa. - Phần lựa chọn nên từ 3-5 câu - Làm sao cho các phương án nhiễu đều có vẻ “có lí” và “hấp dẫn” như phương án đúng nhằm phân biệt HS khá, giỏi, TB. - Trong 1 câu hỏi không nên có 2 phương án trả lời đều là đúng nhất mà chỉ 1 phương án duy nhất đúng. 3.2.3. Ưu nhược điểm của TNKQ a. Ưu điểm: - Tính khách quan lớn, việc cho điểm là khách quan chứ không phụ thuộc ý chủ quan của người chấm, do đó độ chính xác cao, đảm bảo tính công bằng khách quan. - Bài thi bao trùm được chương trình học mà HS cần nắm vững, do đó tránh được trình trạng học tủ, học lệch của HS - Triển khai thi nhanh, ít tốn công chấm thi. - áp dụng được công nghệ mới trong việc nâng cao chất lượng kì thi, giữ bí mật đề thi, hạn chế tiêu cực trong chấm thi. b. Nhược điểm: - Không đánh giá được tư tưởng, tính cảm, thái độ và khả năng diễn đạt của HS của HS đối với vấn đề kiểm tra như đề tự luận. - Không đánh giá được khả năng tư duy ở mức độ cao như tự luận. - HS dễ thông tin cho nhau về kết quả của câu hỏi. - Soạn thảo câu hỏi TNKQ mất nhiều thời gian và công sức: một đề TNKQ gồm rất nhiều câu hỏi, để hình thành một đề thi TNKQ cần nhiều thời gian hơn so với hình thành một đề thi tự luận. 4. Đánh giá, xếp loại học lực của HS (Theo các văn bản hướng dẫn của bộ GD - ĐT) Câu hỏi ôn tập và tự học 1. Phân tích ý nghĩa của đánh giá kết quả học tập của HS. 2. Trình bày các nguyên tắc đánh giá kết quả học tập của HS. 3. Tự luận là gì? Phân tích ưu, nhược điểm của tự luận. 4. Trắc nghiệm khách quan là gì? Trình bày các loại cấu TNKQ và cho ví dụ minh hoạ. 5. Tìm hiểu các qui định về đánh giá, xếp loại học lực HS của Bộ GD - ĐT (cấp tiểu học, THCS, THPT). 67
  7. PHẦN III. LÝ LUẬN GIÁO DỤC CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC (THEO NGHĨA HẸP) I. Quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) 1. Khái niệm QTGD là một bộ phận của quá trình sư phạm (QTSP) tổng thể. Đó là quá trình được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành và phát triển ở học sinh ý thức, tình cảm, các thói quen và hành vi chính trị- xã hội, đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. 2- Cấu trúc của QTGD: QTGD tồn tại với tư cách là một hệ thống bao gồm nhiều thành tố cấu trúc khác nhau: các thành tố này diễn ra dưới ảnh hưởng tự phát, tự giác của môi trờng tự nhiên, hoàn cảnh xã hội và điều kiện gia đình. Các thành tố là: * Mục đích, nhiệm vụ giáo dục: Đây là nhân tố đầu tiên, có chức năng định hướng cho toàn bộ QTGD. - Mục đích: Nhân tố chỉ rõ cái đích mà QTGD phải hướng tới, đào tạo con người theo mục đích giáo dục - Nhiệm vụ giáo dục: + Hình thành, phát triển ở học sinh ý thức cá nhân về các chuẩn mực xã hội ( về đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật), các vấn đề về chính trị xã hội. + Hình thành, phát triển ở học sinh tình cảm, thái độ tích cực về các chuẩn mực xã hội. + Hình thành ở học sinh những thói quen, hành vi xã hội đúng đắn. * Nội dung giáo dục: Được qui định bởi hệ thống các chuẩn mực xã hội mà học sinh cần lĩnh hội, tạo nên hoạt động của nhà giáo dục, người được giáo dục. * Phương pháp, phương tiện giáo dục: Hệ thống các cách thức, phương tiện, biện pháp tác động đến lĩnh vực nhận thức, tình cảm, thái độ hành vi của học sinh theo những mục tiêu giáo dục đã đề ra. * Nhà giáo dục: giữ vai trò chủ thể của hoạt động GD, là người tổ chức, định hướng các loại hình hoạt động và giao lưu cho người được GD để hình thành nhân cách cho họ. * Người được giáo dục: Vừa là chủ thể vừa là đối tượng của QTGD. QTGD chỉ đạt hiệu quả cao khi có sự tham gia tự giác, tích cực, chủ động sáng tạo của người được GD kết hợp với sự lãnh đạo sư phạm một cách khoa học của nhà GD. * Kết quả giáo dục: Là nhân tố cuối cùng của QTGD, nó là điểm kết thúc một chu trình giáo dục đã qua và là điểm mở đầu cho một chu trình giáo dục tiếp theo. Kết quả giáo dục phản ánh sự vận động và phát triển không ngừng của QTGD, nhưng biểu hiện tập trung nhất ở sự hình thành và phát triển một bước các phẩm chất nhân cách của người được giáo dục. 68
  8. Kết quả giá dục càng tiến gần tới mục đích, nhiệm vụ giáo dục đã đề ra từ tr- ước thì QTGD càng đạt đến mức độ tối ưu. II. Bản chất của QTGD: Đặc trưng của QTGD: * QTGD là một quá trình xã hội, được tổ chức một cách có mục đích, có sự kết hợp chặt chẽ giữa 2 chủ thể giáo dục. Vì vậy, QTGD bao hàm 2 mặt: - Sự tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục thông qua nội dung, phương pháp, phương tiện, các hình thức tổ chức GD để ảnh hửơng đến các mặt nhân cách (nhận thức, tình cảm, ý chí) của người được giáo dục. - Sự hưởng ứng một cách tích cực, chủ động của người được giáo dục đối với các tác động đó nhằm tự hoàn thiện nhân cách của bản thân. * QTGD được diễn ra thông qua việc nhà giáo dục tổ chức các loại hình hoạt động và giao lưu, các mối quan hệ có thực trong đời sống thực tiễn cho học sinh, thông qua đó, học sinh tiếp thu các giá trị văn hoá, chính trị, đạo đức của nhân loại để hình thành nhân cách của mình. * QTGD được diễn ra trong các mối quan hệ với các quá trình khác như QTDH, QT tự giáo duc. * QTGD không bó hẹp trong không gian nhà trường mà còn diễn ra trong nhiều không gian với các loại hình hoạt động và giao lưu như trong gia đình, xã hội, cộng đồng. Trong các hoạt động và giao lưu này, học sinh luôn đợc và phải thực hiện các mối quan hệ liên nhân cách một cách có ý thức HS- HS; HS- Tập thể; HS- GV ... * QTGD luôn tạo điều kiện cho học sinh cọ xát với thực tiễn để các em vừa tiếp thu các giá trị văn hoá, đạo đức, thẩm mỹ tích cực, vừa đấu tranh để xoá bỏ các nét tiêu cực dưới sự tổ chức, hướng dẫn của nhà giáo dục. Từ đó chúng ta có thể rút ra bản chất của QTGD: Bản chất của QTGD là quá trình nhà giáo dục tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho học sinh nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với các chuẩn mực xã hội. III. Đặc điểm của QTGD: * QTGD có tính phức tạp: QTGD là một quá trình xã hội, nó không diễn ra trong một không gian khép kín. Vì vậy nó chịu sự tác động của nhiều nhân tó khác nhau: các nhân tố chủ quan, khách quan: ảnh hưởng tự phát, tự giác của MTKT, XH, chính trị, tư tưởng, VH, các đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán... Ngay trong phạm vi nhà trường, QTGD cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: Cảnh quan, nếp sống VH của giáo viên, của bạn bè, các nội qui, qui chế .. Có thể nói có bao nhiêu quan hệ ở nhà trường và ngoài xã hội mà học sinh tham gia thì có bấy nhiêu tác động đến học sinh. Trong việc dạy học, không có những ảnh hưởng của tác động bên ngoài đối lập với việc dạy học của giáo viên. Nhưng trong công tác giáo dục không phải bao giờ cũng vậy, giáo viên trong nhà trường dạy một điều, nhưng tác động của MTXH bên ngoài lại khác. Điều này làm 69
  9. cho quá trình rèn luyện và tu dưỡng của học sinh trở nên phức tạp, nhà giáo dục do đó cũng khó theo dõi, quản lý và chỉ đạo QTGD học sinh hơn. Người được giáo dục cũng đòi hỏi phải tự ý thức, tự giáo dục cao hơn, có sự tự định hướng tốt hơn, có bản lĩnh hơn. Vì vậy, để QTGD đạt kết quả tối ưu nhà giáo dục phải biết tổ chức, điều khiển và phối hợp một cách đồng bộ và có định hướng các tác động chủ quan, khách quan đối với QTGD, nhằm phát huy các ảnh hưởng tích cực, ngăn ngừa, đẩy lùi các ảnh hưởng tiêu cực trên cơ sở phát huy vai trò chủ thể tích cực của học sinh. Hay nói cách khác, do tính phức tạp của QTGD đòi hỏi nhà giáo dục và người được giáo dục phải tăng cường tính kiểm soát đối với QTGD. *- QTGD có tính lâu dài: QTGD luôn hướng tới mục đích là làm chuyển hoá và phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách của học sinh từ ý thức đến tình cảm, đến niềm tin, hành vi, thói quen. Thực chất đó là quá trình cải biến và phát triển các yếu tố tâm lý- ý thức trong mỗi cá nhân. Quá trình đó bao gồm sự tiếp nhận tự giác những cái mới tích cực, vừa đấu tranh loại bỏ những cái sai lầm, thiếu tiến bộ. QT đó đòi hỏi sự luyện tập và rèn luyện lâu dài. Vì những phẩm chất, hành vi, thói quen tốt không thể được hình thành trong khoảnh khắc mà đòi hỏi phải đ- ược rèn luyện thường xuyên, bền bỉ theo một kế hoạch nhất định, kết hợp với quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện của học sinh. Để hình thành được những thói quen, hành vi tốt, ngoài sự nổ lực, ý chí cao độ của nhà giáo dục và người được giáo dục, còn đòi hỏi một thời gian nhất định. Thực tế cho thấy thiết lập được cái mới còn khó, xoá bỏ một thói quen cũ càng khó. Vì vậy, giáo dục là suốt đời và cần được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, cần tiến hành một cách bền bỉ, liên tục, có hệ thống trong một thời gian nhất định, đòi hỏi nhà giáo dục và người được giáo dục phải kiên trì nhẫn nại, tránh tình trạng vội vàng, nôn nóng đốt cháy giai đoạn. *- QTGD có tính cụ thể, phù hợp với từng cá nhân và theo từng tình huống giáo dục riêng biệt. Mọi nhân tố bên ngoài khi tác động đến nhân cách thường được khúc xạ qua những điều kiện bên trong được xác định bởi những yếu tố tâm lý, tính cách, phẩm chất, thái độ .. mà học sinh được kế thừa và hình thành trong cuộc sống. Trong khi có những phẩm chất đạo đức chung và những kiểu mẫu hành vi mà nhà giáo dục cố gắng hình thành, bồi dưỡng cho học sinh và học sinh phải đạt được thì mỗi em là những cá thể với những nét tính cách, tâm lý riêng, phản ứng theo cách riêng của mình. Vì vậy, trong QTGD phải tính đến đặc điểm của từng đối tượng học sinh, phải chú ý tới những hoàn cảnh môi trường xung quanh, trên cơ sở đó lựa chọn những biện pháp tác động cho phù hợp, phải hiểu rõ đối tượng giáo dục. Bởi lẽ, "muốn giáo dục con người về mọi phương diện phải hiểu con người về mọi phương diện" (Usinxki). *- QTGD có tính biện chứng: 70
  10. - QTGD luôn vận động, phát triển không ngừng bởi sự tác động lẫn nhau giữa các thành tố cấu trúc của nó. Ngoài ra, đối tượng giáo dục là những con người đang trưởng thành, phát triển trong những hoàn cảnh, điều kiện luôn biến đổi. Vì vậy, QTGD luôn có sự xuất hiện và giải quyết những mâu thuẫn. Ví dụ: mâu thuẫn giữa yêu cầu chung của xã hội với xu hướng, nguyện vọng riêng của mỗi cá nhân; mâu thuẫn giữa sự hiểu biết và thái độ của học sinh với các vấn đề đạo đức, pháp luật, giữa những yêu cầu đối với học sinh và kha năng thực hiện chúng. - Thể hiện ở sự không tương ứng và ăn khớp giữa nhận thức và hành vi của học sinh. Nhiều khi các em hiểu và nhận thức được rằng mình hành động nh vậy là xấu nhưng vẫn không thắng nổi bản thân và có hành động không đúng. *- QTGD gắn bó chặt chẽ với QTDH, nhưng GD và DH không đồng nhất. GD và DH cùng có một mục đích là hình thành và phát triển nhân cách. Nhưng mỗi quá trình có chức năng riêng. Dạy học là quá trình điều khiển được, còn QTGD rất phức tạp và khó kiểm soát. IV. Động lực của QTGD: QTGD cũng như các quá trình xã hội khác luôn vận động và phát triển và trong quá trình vận động phát triển đó nó luôn giải quyết các mâu thuẫn. - Các mâu thuẫn bên ngoài: + Mâu thuẫn giữa QTGD với môi trường KT, VH, chính trị, XH… + Mâu thuẫn giữa yêu cầu của XH với nhân cách con người mà giáo dục đào tạo ra. - Mâu thuẫn bên trong: Mâu thuẫn giữa các nhân tố của QTGD với nhau: + Mâu thuẫn giữa mục đích, nhiệm vụ giáo dục nâng cao nhưng nội dung, phương pháp giáo dục chưa đổi mới. + Mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục ngày càng cao do tiến trình giáo dục đề ra và trình độ tự giáo dục của học sinh còn hạn chế. + Mâu thuẫn trong bản thân nhà giáo dục và người được giáo dục: ở nhà giáo dục thì thiếu sự thống nhất giữa lời nói với việc làm; ở người được giáo dục thì giữa nhận thức và hành vi. Trong các mâu thuận trên, mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục ngày càng cao do tiến trình giáo dục đề ra và trình độ tự giáo dục ở học sinh còn hạn chế là mâu thuẫn cơ bản. Giải quyết tốt mâu thuẫn này sẽ tạo nên động lực của QTGD. V. Các khâu của QTGD: QTGD bao giờ cũng diễn ra trong một thời gian tương đối lâu dài- là quá trình tác động nhằm biến đổi về tâm lý và hành vi của người được giáo dục. QTGD diễn ra theo 3 khâu: 1- Khâu nhận thức: Khâu này còn được gọi là khâu hình thành ý thức đạo đức xã hội. Đây là khâu mở đầu cho một chu trình giáo dục và là cơ sở cho việc hình thành tình cảm, thói quen, hành vi và các phẩm chất đạo đức của học sinh. Nhận thức trong giáo dục là quá trình hình thành những khái niệm chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, văn hoá , quyền lợi, nghĩa vụ .. nhận thức cuộc sống chính là 71
  11. nhận ra giá trị, chân lý, lẽ phải, hiểu được tính nhân văn, nhân đạo của cuộc sống và sống theo định hướng của các giá trị xã hội. Nhận thức đúng là cơ sở cho sự hình thành tình cảm, thái độ và hành vi cuộc sống. Ngược lại, nhận thức sai là nguyên nhân của những thái độ, hành vi không phù hợp với những chuẩn mực XH. 2- Khâu hình thành thái độ, tình cảm: - Thái độ chính là những biểu hiện cụ thể của quan niệm sống; - Niềm tin thể hiện ở các chuẩn mực đạo đức, VH. Thể hiện: ở tính đúng đắn, giá trị chân lý của các chuẩn mực, ý nghĩa tốt đẹp và giá trị nhân văn của các chuẩn mực, bản chất tốt đẹp và xu thế hướng thiện trong mỗi con người. Trong sự chuyển hoá nhận thức thành hành động, tình cảm chiếm vị trí quan trọng, nó chi phối hành động của con người, là yếu tố quan trọng để hình thành sự tự giáo dục ở mỗi con người.Vì vậy, việc bồi dưỡng những tình cảm đạo đức, văn hoá, thẩm mỹ cho học sinh là một khâu trọng yếu và rất cơ bản của toàn bộ QTGD. 3- Hình thành thói quen hành vi: Hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội là cái đích cuối cùng mà QTGD cần đạt tới. Hành vi là biểu hiện cụ thể nhất của bộ mặt tâm lý, đạo đức của con người. Nó là sản phẩm của nhận thức, là tiêu chí qua trọng nhất để đánh giá nhân cách con người, phân biệt nhân cách này với nhân cách khác. Hành vi được hình hành do luyện tập lâu dài, liên tục theo mục tiêu, phương hướng nhất định. Giáo dục hành vi phải gắn liền với giáo dục tình cảm, ý thức. Ba khâu: Nhận thức, thái độ, hành vi có liên qua chặt chẽ với nhau, khâu nọ là cơ sở, tiền đề cho khâu kia, đồng thời là kết qua của các khâu. VI. Tự giáo dục và giáo dục lại: 1. Tự giáo dục: Quan điểm giáo dục hiện đại không coi người được giáo dục là chủ thể thụ động mà là chủ thể tích cực tự giác. Giáo dục chỉ có hiệu quả khi mỗi con người tự ý thức được mục đích cuộc sống và tích cực hoạt động vì cuộc sống của bản thân mình. Vì vậy, giáo dục phải bao hàm và dẫn đến sự tự giáo dục. Tự giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của cá nhân nhằm hướng vào việc hình thành và phát triển nhân cách của chính bản thân mình theo yêu cầu của XH. Vì vậy, tự giáo dục không những là một bộ phận của QTGD mà còn là kết quả tất yếu của HĐGD. Nó là một trong những tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của học sinh. * Bản chất của tự giáo dục Để xác định bản chất của tự GD chúng ta có thể phân tích các đặc trưng cơ bản của nó. - Tự GD là biểu hiện có ý thức của sự tự vận động của cá nhân dưới tác động của GD và các yêu cầu XH. - Tự GD là sự phản ánh cái khách quan của GD vào cái chủ quan của người được GD, trong đó người được GD biết đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phấn đấu của mình theo các chuẩn mực XH. 72
  12. - Tự GD là nhân tố thúc đẩy sự hình thành, PT nhân cách của HS dưới tác động chủ đạo của GD, tạo ra sự PT trong nhân cách của HS. - Tự GD là con đường quan trọng nhất để PT nét độc đáo trong nhân cách con người trên cơ sở thống nhất với các yêu cầu GD chung. Nó cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ PT nhân cách của HS. Từ đó, chúng ta có thể rút ra bản chất của tự GD: Tự GD về bản chất là QT vận động của ý chí và tự ý thức được biểu hiện thành hành động để tự hoàn thiện bản thân của người được GD. 2. Giáo dục lại: 2.1. Khái niệm: Có rất nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục lại. - Có người cho rằng: GDL là sự GD những trẻ em đã được coi là hư hỏng; có người lại cho rằng đó là việc giáo dục những trẻ khó dạy (sau những chu trình giáo dục như những trẻ khác mà những trẻ đó không đạt được những yêu cầu như mong muốn của nhà giáo dục); có quan điểm cho rằng GDL là quá trình khắc phục, sửa chữa những thói hư, tật xấu đang có ở trẻ . - Có thể hiểu một cách tổng quát: GDL là QTGD nhằm làm thay đổi, làm từ bỏ những cái cũ kỹ, sai lầm trong nhân cách của học sinh so với những yêu cầu phát triển mới, phù hợp với các chuẩn mực XH. Như vậy, GDL không loại trừ đối với bất kỳ ai, bởi vì ở bất kỳ ai cũng có những cái cần thay đổi, sửa chữa. Tuy nhiên, GDL gắn liền nhiều hơn với những học sinh có biểu hiện của tính chất khó dạy, những trẻ có nhiều thiếu sót, sai lầm đã trở thành nét nhân cách, cần sửa chữa, ta gọi chung là trẻ khó dạy. 2.2. Các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trẻ khó dạy *Từ phía nhà trường * Từ phía GĐ * Từ phía XH * Từ bản thân người được GD 2.3. Các PPGD lại * PP xây dựng lại niềm tin * PP khuyến khích và trách phạt (Xem các PPGD) * PPĐG bằng “bùng nổ” PPGD này do Macarencô đưa ra. Khi giải thích nghệ thuật GD bằng “bùng nổ” Macarencô viết: Tôi nói bùng nổ khôngcó nghĩa là đặt một gói bộc phá dưới chân một người nào đó, châm ngòi rồi bỏ chạy để cho người đó nổ tung ra. Tôi muốn nói tới một tác động bất thần làm thay đổi hoàn toàn mọi ước muốn của con người, mọi nguyện vọng của họ.” Đây là PP mà nhà GD dùng những tác động mạnh đặc biệt, bất thần tạo ra những chuyển biến về mặt tâm lí, phá vỡ những thói quen, hành vi xấu, tạo ra những suy nghĩ, những tình cảm, hành vi mới theo yêu cầu GD. Câu hỏi ôn tập 73
  13. 1. Quá trình GD là gì? Phân tích các thành tố cấu trúc của QTGD và mói quan hệ giữa chúng. 2. Phân tích bản chất của QTGD, từ đó rút ra kết luận sư phạm cần thiết. 3. Phân tích đặc điểm của QTGD, từ đó rút ra kết luận sư phạm cần thiết. 4. Phân tích động lực của QTGD. 5. Giáo dục lại là gì? Phân tích các nguyên nhân của hiện tượng trẻ khó dạy. CHƯƠNG II. CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC I. Khaí niệm: Nguyên tắc giáo dục là những luận điểm cơ bản có tính qui luật của lý luận GD, có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo toàn bộ QTGD đạt tới mục đích đã đề ra. II. Hệ thống các NTGD: 1- Đảm bảo tính mục đích, tính tư tưởng của công tác GD: Giáo dục là một hoạt động có muc đích, vì vậy nọi dung, mọi hình thức tổ chức QTGD đều phải nhằm đạt tới những mục đích nhất định. Cụ thể: Mọi tác động, mọi biện pháp giáo dục đều phải hướng vào việc thực hiện mục đích giáo dục " đào tạo con người Việt nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề ngiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và nằng lực của người công dân, đáp ứng với yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Mặt khác, tính mục đích, tính tư tưởng chỉ rõ phương hướng nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, đảm bảo cho công tác giáo dục được xây dựng có kế hoạch, có hệ thống, khắc phục được tính tự phát và tuỳ tiện, lựa chọn được nội dung và phương pháp, hình thức giáo dục đúng đắn, phù hợp với điều kiện giáo dục cụ thể. 2- Giáo dục gắn liền với lao động và đời sống xã hội. Lý luận và thực tiễn giáo dục đã chỉ ra rằng: Chỉ có đặt con người vào trong môi trường cuộc sống, trong lao động và hoạt động xã hội thì giáo dục mới đạt hiệu quả cao. Do đó, nguyên tắc này yêu cầu: - Công tác GD phải luôn gắn liền với đời sống và thực tiễn xây dựng đất nước; - Tổ chức cho HS tham gia công tác XH, chính trị, văn hoá của nhân dân. Chính trong quá trình tham gia vào các hoạt động XH, các em sẽ tiếp thu được những kinh nghiêm XH và hình thành được hệ thống các quan hệ XH nhất định. - Mặt khác, giáo dục con người phải được thực hiện chính trong lao động và bằng lao động. Phải sớm tạo điều kiện cho các em tham gia vào các hoạt động vừa sức; trong nhà trường tổ chức cho các em lao động tự phục vụ, LĐ công ích... Lao động là một trong những con đường quan trọng để hình thành nhân cách cho học sinh. 74
  14. 3- GD trong tập thể và bằng tập thể: Nguyên tắc GD này do Macarencô đưa ra. Nguyên tắc này xuất phát từ cơ sở triết học về vai trò của tập thể đối với sự phát triển nhân cách cá nhân. Nhân cách không thể tồn tại bên ngoài tập thể, tập thể không thể tồn tại bên ngoài nhân cách. " Sự phát triển của một cá nhân được qui định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó trực tiếp hay gián tiếp giao lưu" (Mác). Vì vậy, nhân cách học sinh chỉ có thể được phát triển đúng đắn nếu việc giáo dục học sinh được tiến hành trong tập thể và thông qua tập thể. Trong nhà trường, tập thể học sinh được xem là môi trường, là phương tiện giáo dục quan trọng. Nếu bản chất của QTGD là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt động cho học sinh thì quá trình này trước hết phải được diễn ra trong tập thể học sinh: trong lao động tập thể, sinh hoạt, học tập, hoạt động XH... Do đó, nguyên tắc này yêu cầu: - Nhà GD phải biết tổ chức, xây dựng và lãnh đạo tốt các tập thể trẻ em, làm sao để mỗi tập thể là một đơn vị vững mạnh, đoàn kết, thân ái, có tác dụng giáo dục đến từng cá nhân. - Nhà GD phải coi tập thể như một đối tượng để tác động giáo dục, làm cho tập thể trở nên vững mạnh về mọi phương diện. Phải sử dụng tập thể như môi trường để rèn luyện từng học sinh, sử dụng tập thể như một phương tiện tác động trở lại từng học sinh để họ trở thành những người có ích cho tập thể, XH. - Thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể đang dạng, phong phú nhằm lôi cuốn học sinh tham gia tích cực, tự giác. - Biết tạo ra dư luận tập thể lành mạnh, điều chỉnh hành vi ứng xử của học sinh, ủng hộ cái tốt, cái tích cực, ngăn chặn, lên án cái xấu. - Cần tổ chức tốt mối quan hệ giữa nhà giáo dục với tập thể, phát huy vai trò của các chủ thể GD (vai trò tổ chức, định hướng của nhà GD và vai trò tự quản của TTHS). 4. Thống nhất giữa ý thức và hành động trong hoạt động GD: Cơ sở xuất phát: Đó là nguyên tác thống nhất giữa ý thức và hành vi trong tâm lý học sư phạm. Mọi hành vi của con người đều mang tính ý thức và đều được kiểm soát chặt chẽ bởi ý thức. Nguyên tắc này yêu cầu trong QTGD phải tác động đồng thời đến nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh. Xét cho cùng thì hành vi thể hiện một cách sinh động bộ mặt nhân cách của con người. Do đó, trong QTGD bên cạnh việc xây dựng ý thức cho cá nhân HS, cần tổ chức cho HS tự rèn luyện các thói quen hành vi phù hợp với các chuẩn mực XH. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, trong QTGD cần: - Một mặt phải bồi dưỡng ý thức cá nhân cho HS về các chuẩn mực XH. Mặt khác phải tổ chức cho các em tham gia các hoạt động thực tiễn thường xuyên và đa dạng. 75
  15. - Trong quá trình tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động cần rèn luyện các hành vi đạo đức cho các em, thông qua đó, những hành vi tốt được củng cố, những thói quen xấu được kìm hãm. - Bồi dưỡng cho HS ý thức và năng lực tự kiểm tra, đánh giá hành vi của mình. 5. Tôn trọng nhân cách kết hợp với yêu cầu hợp lý đối với học sinh. Nguyên tắc này yêu cầu những người làm công tác GD phải hết sức tôn trọng nhân cách học sinh, luôn đề cao phẩm giá, lòng tự trọng; luôn tin tưởng ở tiềm năng của họ. Biết đòi hỏi ở học sinh những cố gắng tích cực, biết đề ra cho họ những yêu cầu, song là những yêu cầu hợp lý, vừa sức. - Nguyên tắc này cũng yêu cầu nhà GD phải dựa vào những mặt tốt, mặt tích cực hiện có trong nhân cách học sinh để khắc phục những cái xấu, tiêu cực, yếu kém trong nhân cách của họ. Con người không ai có thể hoàn thiện về mọi mặt, mà có những mặt mạnh, mặt yếu. Nhưng đã là con người thì ai cũng muốn được người khác tôn trọng và muốn mọi người nhìn thấy những ưu điểm của mình. Đó là bản tính của con người. Do đó, nhà GD phải nhìn nhận, đánh giá đối tượng giáo dục cao hơn một chút so với những khả năng mà họ hiện có. - Mặt khác, để GD con người, nhà GD phải luôn có yêu cầu cao đối với họ. Yêu cầu cao đòi hỏi phải đặt ra những tiêu chuẩn, những mục đích phấn đấu hợp lý, vừa sức và ngày càng cao để thúc đẩy họ vươn lên, không ngừng tiến bộ. Yêu cầu cao không có nghĩa là bắt họ thực hiện những nhiệm vụ quá sức, hoặc vì yêu cầu cao mà có thái độ gay gắt, mệnh lệnh, hà khắc đối với họ. Tôn trọng nhân cách chính là yêu cầu cao đối với con người và càng yêu cầu cao càng tôn trọng con người. - Nguyên tắc này đòi hỏi phải khắc phục những hiện tượng thiếu tôn trọng nhân cách học sinh (đánh đập, sỉ nhục), đồng thời khắc phục những hiện tượng nuông chiều, buông thả, tự do chủ nghĩa trong giáo dục. Nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo của GD XHCN. 6. GD phải tính đến đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân của học sinh: Sự phát triển cá nhân về cả thể chất lẫn tinh thần đều diễn biến theo lứa tuổi. Mỗi con người là một thế giới thu nhỏ, có những nét tính cách phổ biến và cũng có những nét đặc thù không lặp lại ở người khác. Do đó, công tác GD cần tính đến đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm cá nhân học sinh. Vì vậy, nguyên tắc này yêu cầu: - Nhà GD cần nắm vững đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm cá nhân của học sinh, trên cơ sở đó xác định yêu cầu, lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức GD cho thích hợp. - GD phải dựa vào đặc điểm cá biệt, bởi lẽ mỗi con người có những nét riêng trong tính cách, khí chất, có quan niệm sống, mức độ nhận thức khác nhau. Không có phương pháp chung có hiệu quả đối với tất cả mọi đối tượng. 76
  16. - Mặt khác, GD phải được tiến hành theo đặc điểm giới tính. Nam và nữ có những chỉ số phát triển sinh học khác nhau, do đó sự phát triển tâm lý cũng khác nhau. Vì vậy, GD theo giới tính là một yêu cầu tất yếu. 7. Kết hợp sự lãnh đạo sư phạm của nhà GD với việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người được giáo dục. Nguyên tắc này xuất phát từ cơ sở triết học và tâm lý học: Con người không phải là đối tượng thụ động của hoàn cảnh mà là chủ thể có ý thức và hoạt động cá nhân quyết định sự phát triển nhân cách. Mặt khác, nguyên tắc này cũng xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa 2 thành tố cơ bản của QTGD đó là sự lãnh đạo sư phạm của nhà GD và tính tích cực tự giác của học sinh. Hiệu quả GD phụ thuộc phần lớn vào tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. Do đó, nguyên tắc này yêu cầu: - Nhà GD phải phát huy vai trò chủ thể GD của học sinh và tập thể HS, từng bước xây dựng chế độ tự quản của HS trong lớp học cũng như trong nhà trường. Tôn trọng HS, phát huy vai trò chủ thể của HS không có nghĩa là giảm nhẹ sự lãnh đạo của nhà GD, càng không có nghĩa là thực hiện lối tự do chủ nghĩa trong GD, để mặc cho HS muốn làm gì thì làm theo hứng thú và nhu cầu của họ. - Ngược lại, nguyên tắc này yêu cầu nhà GD phải nâng cao hơn nữa trách nhiệm và vai trò lãnh đạo sư phạm của mình bằng cách theo dõi khéo léo và chặt chẽ hoạt động của tập thể HS và của mỗi HS, ủng hộ các sáng kiến và biện pháp hay mà HS đề ra và thực hiện; thuyết phục họ từ bỏ những cách làm sai, động viên cổ vũ ý chí và quyết tâm phấn đấu để đạt mục đích của họ. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi nghệ thuật sư phạm của nhà GD. Lãnh đạo sư phạm càng thông minh, linh hoạt, tinh tế thì càng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh và tập thể học sinh. 8. Thống nhất giữa nhà trường, gia đình và XH trong công tác GD Nhân cách con người chỉ có thể phát triển một cách tốt đẹp trong môi trường GD thuận lợi, trong đó có sự thống nhất các tác động GD. Nhà trường - Gia đình- XH là những môi trường không thể thiếu được. Chúng thống nhất với nhau và tạo nên môi trường GD hoàn chỉnh, tạo sức mạnh tổng hợp và tác động đồng bộ đến sự hình thành và phát triển nhân cách HS. Trong hệ thống GD NT- GĐ- XH, nhà trường được coi là khâu trung tâm có vai trò chủ đạo, tổ chức phối hợp và định hướng công tác GD của các lực lượng GD khác trong XH. Bởi lẽ nhà trường là cơ quan GD chuyên biệt của Nhà nước, có đội ngũ các nhà sư phạm. QTGD ở nhà trường được tổ chức một cách KH, tuân thủ các qui luật của KH GD một cách chặt chẽ. Vai trò của GD GĐ được thể hiện ở chỗ nó đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách, GDGĐ mang tính thường xuyên, liên tục, lâu dài và dựa trên mối quan hệ huyết thống. Do đó, GD GĐ hỗ trợ rất lớn cho GDNT. Để thực hiện tốt nguyên tắc này cần chú ý: - Nhà trường phải thể hiện được vai trò chủ đạo của mình, chủ động kết hợp với gia đình và XH trong công tác GD HS. 77
  17. - GĐ và XH cũng cần chủ động kết hợp với nhà trường theo định hướng GD của NT, tạo điều kiện thuận lợi cho GD NT, giảm đến mức tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của GĐ và XH. - Các lực lượng giáo dục này phải biết đầy đủ các nhiệm vụ, nội dung, PPGD, về sự cần thiết phải phối hợp với nhau. Từ đó tạo được môi trường GD thuận lợi trong nhà trường, GĐ, XH. 9. Đảm bảo tính hệ thống, tính kế tiếp, tính liên tục trong hoạt động giáo dục. * Cơ sở xuất phát: NT này đòi hỏi QTGD phải được tiến hành theo một hệ thống chặt chẽ, có kế hoạch thống nhất và được dự tính trước. * Biện pháp thực hiện : - XD 1 hệ thống nội dung, nhiệm vụ GD chặt chẽ, có tính kế hoạch. - Không nôn nóng, đốt cháy giai đoạn trong GD - Tổ chức QTGD một cách liên tục trong mọi thời gian và không gian. Các nguyên tắc GD là một hệ thống toàn diện, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhà GD cần vận dụng và phối hợp các nguyên tắc GD một cách linh hoạt, sáng tạo để đạt được kết quả tối ưu. Câu hỏi ôn tập Nguyên tắc GD là gì? Trình bày hệ thống các nguyên tắc GD. CHƯƠNG III: NỘI DUNG GIÁO DỤC 1. Giáo dục đạo đức 1.1. Khái niệm đạo đức và giáo dục đạo đức + Đạo đức là một trong những hình thái ý thức XH, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người, thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống XH. Đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của XH điều hoà và thống nhất các mâu thuận giữa lợi ích chung và lợi ích riêng nhằm đảm bảo trật tự XH và khả năng PT của XH và cá nhân. Đạo đức tồn tại với tư cách là một lĩnh vực ý thức XH, là một mặt của hoạt động XH, là một hình thái quan hệ XH. - Với tư cách là một lính vực ý thức XH, đạo đức bao gồm tri thức về các khái niệm, chuẩn mực và phẩm chất đạo đức, nguyên tắc đạo đức, các xúc cảm và tình cảm đạo đức, đánh giá đạo đức. - Với tư cách là 1 mặt của HĐ XH, đạo đức bao gồm các hành vi, thói quen đạo đức. - Với tư cách là một hình thái quan hệ XH, đạo đức bao gồm các quan hệ đạo đức, biểu hiện trong hiện thực giao lưu giữa cá nhân - cá nhân, cá nhân - tập thể. ĐĐ tồn tại xen kẽ trong mọi lĩnh vực ý thức XH, trong mọi hoạt động XH, mọi loại quan hệ XH, nó luôn tồn tại và phát triển cùng với đời sống XH. Đạo đức mang tính lịch sử, tính giai cấp. 78
  18. Như vậy, đạo đức là 1 phạm trù phản ánh hiện thực khách quan bằng hệ thống các chuẩn mực XH, các qui tắc điều chỉnh sự ứng xử của con người trong tất cả các mối QHXH, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống XH. + GD ĐĐ là một quá trình sư phạm được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành và PT ở HS ý thức, tình cảm, hành vi và thói quen đạo đức, phù hợp với chuẩn mực XH. 1.2. Ý nghĩa của giáo dục đạo đức - GD đạo đức có vai trò thúc đẩy sự ổn định XH, góp phần đảm bảo trật tự, kỷ cương XH. Lý tưởng, niềm tin, hành vi đạo đức được hình thành qua công tác giáo dục đạo đức trong và ngoài nhà trường. - GD đạo đức có vị trí quan trọng hàng đầu trong giáo dục nhà trường, nó định hướng cho các nội dung giáo dục khác. Nhà trường thông qua công tác GD đạo đức có thể nâng cao hiệu quả dạy học và các nhiệm vụ GD khác. - GD đạo đức hình thành cho thế hệ trẻ hệ thống lập trường chính trị tư tưởng, ý thức, thái độ, tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với chuẩn mực XH. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, GD đạo đức giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng cuộc sống và lựa chọn các giá trị sống của thế hệ trẻ. 1.3. Nhiệm vụ và nội dung GD đạo đức cho học sinh 1.3.1. Nhiệm vụ: a. Giáo dục ý thức đạo đức - Hình thành ở học sinh một hệ thống các tri thức đạo đức mà các em cần phải có. Cụ thể: + Hệ thống các khái niệm cơ bản của phạm trù đạo đức XHCN: cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác. + Hệ thống các chuẩn mực đạo đức được qui định cho HS. + Cách ứng xử trong các tình huống khác nhau phù hợp với các chuẩn mực đạo đức đã qui định. b. Giáo dục thái độ và tình cảm đạo đức. GD đạo đức cho học sinh là thức tỉnh ở họ những rung động trái tim đối với hiện thực xung quanh, làm cho họ biết yêu, biết ghét rõ ràng, có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng trong đời sống XH và tập thể. c. Giáo dục hành vi và thói quen đạo đức: Mục đích cuối cùng của GD đạo đức là hình thành hành vi đạo đức và thói quen thực hiện hành vi đạo đức trong cuộc sống hàng ngày của trẻ. Hành vi đạo đức được thực hiện bởi sự chỉ đạo của ý thức và sự thôi thúc của tình cảm mới là hành vi đích thực, mới trở thành thói quen hành thuộc tính của con người. hành vi, đặc biệt là thói quen hành vi chỉ có thể hình thành thông qua tập luyện. Trong cuộc sống, sinh hoạt, cần giáo dục cho các em hành vi có văn hoá, tức là hành vi đó không những đúng về mặt đạo đức mà còn đẹp về thẩm mỹ. 1.3.2. Nội dung giáo dục đạo đức: a. Quan hệ cá nhân đối với XH: - Yêu quê hương đất nước, yêu CNXH, sẵn sàng bảo vệ TQ; 79
  19. - Tự hào với truyền thống anh hùng của dân tộc; - Tôn trọng, giữ gìn các di sản VH dân tộc, có thái độ tiến bộ đối với các giá trị truyền thống. - Tinh thần quốc tế vô sản. b. Quan hệ cá nhân đối với lao động: Có thái độ đúng đắn đối với lao động và người lao động. c. Quan hệ cá nhân đối với những người xung quanh: - Kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em, những người lớn tuổi; - Kính trọng, lễ phép, biết ơn thầy cô giáo; - Tôn trọng, yêu quí giúp đỡ bạn bè; - Khiêm tốn, có ý thức học hỏi. d. Quan hệ cá nhân đối với tài sản XH, di sản VH và thiên nhiên: - Giữ gìn, tiết kiệm, bảo vệ của công, không xâm phạm tài sản chung và của cải riêng của người khác; - Bảo vệ môi trường tự nhiên nơi cư trú, học tập, nơi công cộng e. Quan hệ cá nhân đối với bản thân: Khiêm tốn, thật thà, có tính kỷ luật, có ý chí, nghị lực, dũng cảm.. g. GD tính nhân văn, quan hệ quốc tế, bảo vệ hoà bình. 1.4. Các con đường và phương tiện giáo dục đạo đức cho HS. * GD đạo đức cho HS thông qua con đường DH * GD đạo đức thông qua việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp * GD đạo đức thông qua tổ chức cho HS tham gia vào các HĐXH * Tận dụng triệt để các phương tiện thông tin đại chúng để GD đạo đức cho HS. 2. Giáo dục thẩm mĩ 2.1. Thẩm mĩ và giáo dục thẩm mĩ - Thẩm mỹ là phạm trù triết học nói về cái đẹp khách quan của các đối tượng trong tự nhiên, trong cuộc sống XH và bản thân con người. Cái đẹp là cái trung tâm, cái tương phản là cái xấu, thấp hèn, bi, hài. Nguồn gốc cái đẹp theo quan điểm mĩ học Mác- Lênin là cuộc sống, là hiện thực với toàn bộ tính đa dạng của nó. Cái đẹp là cái hoàn thiện, cái lí tưởng nâng con người lên cao hơn cái bình thường hàng ngày. Cái đẹp vốn có ở bản thân sự vật, hiện tượng của hiện thực, là hiện tượng khách quan có thể bắt gặp ở mọi nơi trong đời sống con người. + Cái đẹp trong tự nhiên: biểu hiện bằng hình dạng, mầu sắc, đường nét, âm thanh. + Cái đẹp trong XH: Cái đẹp trong quan hệ giao tiếp, trong lối sống đạo đức, cái đẹp trong trật tự, kỉ cương của cuộc sống XH. + Cái đẹp trong con người: cái đẹp của nhận thức, tình cảm, hành vi đạo đức, lối sống của cá nhân. TM có ý nghĩa rất lớn trong đời sống con người. Nhu cầu TM là một trong những nhu cầu quan trọng của cuộc sống. XH càng phát triển thì nhu cầu TM càng cao. 80
  20. - Giáo dục thẩm mĩ là bộ phận của giáo dục nhân cách toàn diện. Đó là quá trình GD nhằm hình thành và phát triển văn hoá thẩm mĩ cho HS theo quan điểm mĩ học Mác - Lê nin. 2.2. Ý nghĩa và nhiệm vụ GD TM - GD thẩm mỹ là nội dung GD quan trọng trong nhà trường có liên quan chặt chẽ với các nội dung GD khác, thúc đẩy sự phát triển toàn diện nhân cách của HS. - GD TM có thể mở rộng tầm nhìn và phát triển trí lực, tinh thần sáng tạo của HS. - GD TM góp phần làm cho tâm hồn của HS trở nên trong sáng hơn, tình cảm tốt đẹp hơn, hoàn thiện phẩm chất đạo đức cho các em, - GD TM thúc đẩy HS vươn tới Chân - Thiện – Mỹ, biết thể hiện cái đẹp trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nhiệm vụ của GD TM trong nhà trường là: - Phát triển tình cảm TM của HS trong quá trình cảm thụ và lĩnh hội cái đẹp trong nghệ thuật, tự nhiên, trong XH; giúp họ cảm nhận và hiểu biết cái đẹp trong những biểu hiện đa dạng của nó. - PT năng lực phán đoán và đánh giá TM, hình thành cho HS thị hiếu TM và lí tưởng TM đúng đắn. - Hình thành cho HS năng lực sáng tạo TM, lòng mong muốn và khả năng đem cái đẹp vào cuộc sống. - GD cho HS thái độ không khoan nhượng đối với những cái xấu xa, phản thẩm mĩ trong tâm hồn, trong lối sống, cái phản thẩm mĩ trong các tác phẩm nghệ thuật. 2.3. Các phương tiện GDTM cho HS 2.3.1. Thiên nhiên Thiên nhiên là nguồn vô tận của những xúc cảm TM của con người. Vẻ đẹp của thiên nhiên là ở sự đa dạng và sự hài hoà của màu sắc, âm thanh, hình dạng, ở sự đổi thay có qui luật của nó. Bất cứ lúc nào cũng có thể tìm thấy cái đẹp trong thiên nhiên xung quanh chúng ta. Tiếp xúc thường xuyên với thiên nhiên là điều kiện không thể thiếu không những để PT năng lực quan sát, trí tưởng tượng của HS mà còn PT tình cảm TM, tính nhạy cảm TM của các em. 2.3.2. Nghệ thuật Nghệ thuật là phương tiện quan trọng nhất để GD TM cho HS, vì NT là lĩnh vực tập trung một cách cô đọng cái đẹp của hiện thực, đồng thời là công cụ để tác động đến những khía cạnh thầm kín và sâu xa trong tâm hồn con người. Nghệ thuật chân chính kích thích “người nghệ sĩ” trong mỗi con người. Mỗi loại hình NT đều có tác dụng GDTM. 2.3.3. Học tập 2.3.4. Lao động, vui chơi, giao lưu trong tập thể, cảnh quan của nhà trường … đều là những phương tiện GDTM. 2.4. Các con đường GDTM cho HS 81
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2