intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Kiểm toán căn bản: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Phú Giang (Chủ biên)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

41
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình "Kiểm toán căn bản" cung cấp các kiến thức cơ bản về các loại hình kiểm toán, các khái niệm cơ bản trong kiểm toán, quy trình kiểm toán, phương pháp kiểm toán và các loại báo cáo kiểm toán. Giáo trình kết cấu gồm 5 chương và chia thành 2 phần, phần 1 trình bày những nội dung về: tổng quan kiểm toán; các khái niệm cơ bản sử dụng trong kiểm toán; các phương pháp kiểm toán;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Kiểm toán căn bản: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Phú Giang (Chủ biên)

  1. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO  TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI                    GIÁO TRÌNH  KIỂM TOÁN CĂN BẢN                                      NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ  HÀ NỘI, 2015  1
  2. 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU  Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, hội nhập quốc tế về kiểm toán đang là vấn đề được đặt ra ở Việt Nam. Kiểm toán căn bản là học phần cung cấp các kiến thức cơ bản về các loại hình kiểm toán, các khái niệm cơ bản trong kiểm toán, qui trình kiểm toán, phương pháp kiểm toán và các loại báo cáo kiểm toán. Các tài liệu học tập liên quan đến kiểm toán tại Trường Đại học Thương mại hiện nay mới chỉ là các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Để tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên và giảng viên trong quá trình học tập và giảng dạy, được sự đồng ý của Ban Giám hiệu và Phòng Khoa học đối ngoại, Bộ môn Kiểm toán đã biên soạn "Giáo trình Kiểm toán căn bản". "Giáo trình Kiểm toán căn bản" do PGS.TS. Nguyễn Phú Giang, Phó Trưởng Khoa Kế toán - Kiểm toán chủ biên, các thành viên tham gia biên soạn bao gồm: - TS. Nguyễn Viết Tiến, ThS. Nguyễn Thu Hoài: Biên soạn chương 1 - PGS.TS. Nguyễn Phú Giang: Biên soạn chương 2 - ThS. Lưu Thị Duyên, ThS. Đào Ngọc Hà: Biên soạn chương 3 - TS. Nguyễn Thị Hồng Lam và ThS. Vũ Thị Thu Huyền: Biên soạn chương 4 - ThS. Trần Nguyễn Bích Hiền và ThS. Lại Thị Thu Thủy: Biên soạn chương 5 "Giáo trình Kiểm toán căn bản" được biên soạn dựa trên quan điểm tiếp cận hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Ngoài ra giáo trình còn tuân thủ nội dung của đề cương học phần "Kiểm toán căn bản" mẫu số 4 do nhà trường qui định. Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên giáo trình khó tránh khỏi những thiếu sót. Tập thể tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ các nhà khoa học trong và ngoài Trường Đại học Thương mại để lần tái bản sau giáo trình được hoàn thiện hơn. TẬP THỂ TÁC GIẢ 3
  4. CÁC TỪ VIẾT TẮT  BCTC Báo cáo tài chính BGĐ Ban Giám đốc BCKT Báo cáo kiểm toán DNKT Doanh nghiệp kiểm toán ĐTDH Đầu tư dài hạn KSNB Kiểm soát nội bộ KTNB Kiểm toán nội bộ KTV Kiểm toán viên NVCSH Nguồn vốn chủ sở hữu TSCĐ Tài sản cố định TSLĐ Tài sản lưu động 4
  5. CHƯƠNG 1  TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN  Trong chương này, giáo trình phân tích, làm rõ khái niệm, chức năng mục tiêu của kiểm toán. Phân loại kiểm toán theo chủ thể, kiểm toán chia thành 3 loại: kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nước; phân loại kiểm toán theo mục đích, kiểm toán chia thành 3 loại: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính; quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán. 1.1. Bản chất của kiểm toán 1.1.1. Khái niệm Hoạt động kiểm toán ra đời là để kiểm tra và xác nhận về sự trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và BCTC của các doanh nghiệp, tổ chức; nhằm nâng cao sự tin tưởng của người sử dụng các thông tin từ BCTC đã được kiểm toán. Kiểm toán có gốc từ latin là "audit", nguyên bản là "audire" có nghĩa là "nghe" do hình ảnh của kiểm toán cổ điển thường được tiến hành bằng cách người ghi chép về tài sản đọc to lên cho một bên độc lập "nghe" rồi sau đó chấp nhận thông qua việc chứng thực. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về kiểm toán, tuy nhiên quan niệm về kiểm toán được chấp nhận phổ biến hiện nay là: Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập, có thẩm quyền và đạo đức nghề nghiệp tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin của một đơn vị, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập. Các chuyên gia chính là các kiểm toán viên, những người nắm vững luật pháp và chuyên môn về kế toán, kiểm toán. 5
  6. Theo VSA 200 "Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm toán theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam": Tính độc lập đảm bảo cho kiểm toán viên không bị chi phối hoặc ảnh hưởng bởi bất cứ yếu tố nào trong suốt quá trình kiểm toán từ khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán khiến cho kết quả kiểm toán bị sai lệch. Biểu hiện của tính độc lập bao gồm độc lập về chuyên môn, độc lập về kinh tế và độc lập về tình cảm. Độc lập về chuyên môn: Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên chỉ tuân theo chuẩn mực chuyên môn và luật pháp, không bị chi phối bởi những tác động khác. Độc lập về kinh tế: Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế như góp vốn cổ phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch vụ, đại lý tiêu thụ hàng hoá,... Độc lập về tình cảm: Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán ở những đơn vị mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thuộc (như bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em ruột) với những người trong bộ máy quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các trưởng, phó phòng và những người tương đương) trong đơn vị được kiểm toán. Tùy theo nội dung và tính chất của mỗi loại kiểm toán, mà mức độ độc lập có thể được đòi hỏi khác nhau. Tuy nhiên, yêu cầu về độc lập là đòi hỏi thiết yếu, quan trọng đối với mọi kiểm toán viên và tổ chức kiểm toán. Tính độc lập chỉ là một khái niệm tương đối, nhưng nó phải là mục tiêu hướng tới và phải đạt được ở mức độ nhất định. Nếu tính độc lập bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, chính vì vậy, khi cuộc kiểm toán bị giới hạn bởi tính độc lập, kiểm toán viên phải khắc phục và nếu không loại trừ được, kiểm toán viên phải giải trình và nêu sự ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán trong báo cáo kiểm toán. Có thẩm quyền: Các kiểm toán viên được phân công thực hiện cuộc kiểm toán mới là người có đủ thẩm quyền đối với đối tượng được kiểm 6
  7. toán, để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đồng thời có quyền thể hiện ý kiến của mình về sự phù hợp giữa các thông tin đã thu thập được với các chuẩn mực đã được thiết lập. Và thẩm quyền này phải được quy định trong các văn bản pháp lý liên quan đến cuộc kiểm toán. Đạo đức nghề nghiệp: Theo VSQC1 - chuẩn mực kiểm soát chất lượng số 01 "Kiểm soát chất lượng doanh nghiệp thực hiện kiểm toán, soát xét báo cáo tài chính, dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ liên quan khác" Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán quy định các nguyên tắc cơ bản về đạo đức nghề nghiệp, bao gồm: (a) Tính chính trực; (b) Tính khách quan; (c) Năng lực chuyên môn và tính thận trọng; (d) Tính bảo mật; (e) Tư cách nghề nghiệp Các thông tin của một đơn vị: Là những thông tin có nguồn gốc rõ ràng, tin cậy đã có sẵn nguồn bằng chứng cho kiểm toán và có căn cứ làm cơ sở cho việc đánh giá thông tin. Thông tin được kiểm toán có thể là những thông tin được lượng hóa hoặc những thông tin có thể so sánh, đối chiếu hay kiểm tra lại được; có thể là thông tin tài chính hoặc thông tin phi tài chính. Các chuẩn mực đã được thiết lập: Các chuẩn mực là cơ sở, là thước đo để đánh giá thông tin trong quá trình kiểm toán. Có 2 loại chuẩn mực: Các văn bản, các quy định có tính pháp lý và pháp quy của mọi lĩnh vực. Các quy định có tính chất nội bộ của từng đơn vị, loại này có tính chủ quan cao nên kiểm toán viên cần phải thẩm định lại tính hợp pháp của các quy định nội bộ này. Đơn vị được kiểm toán: Đó chính là đối tượng được kiểm toán, có thể là một tổ chức pháp nhân (một doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc một đơn vị hành chính sự nghiệp…) hoặc không có tư cách pháp nhân (một phân xưởng, tổ đội sản xuất…). 7
  8. Khái niệm chung về kiểm toán được tóm tắt bằng sơ đồ sau: Các thông tin được kiểm toán Các kiểm toán Thu thập và Báo cáo viên độc lập, đánh giá các kết quả có năng lực bằng chứng Các chuẩn mực đã được xây dựng 1.1.2. Chức năng của kiểm toán Kiểm toán có 2 chức năng cơ bản như sau: Thứ nhất, chức năng kiểm tra và xác nhận hay còn gọi là chức năng xác minh. Chức năng này đã tồn tại và gắn liền trong suốt quá trình lịch sử của kiểm toán. Ban đầu, khi kiểm toán mới ra đời chức năng này được thực hiện dưới dạng chứng thực BCTC, sau này chức năng này được thể hiện cao hơn dưới dạng báo cáo kiểm toán. Thứ hai, ngoài chức năng xác minh thì kiểm toán còn có chức năng tư vấn. Chức năng này ra đời sau chức năng kiểm tra, xác nhận nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà quản lý. Thời kỳ đầu, chức năng này được biểu hiện dưới dạng thư quản lý. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, chức năng này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong kiểm toán. 1.1.3. Mục tiêu kiểm toán Tùy thuộc vào mỗi cuộc kiểm toán có thể có các mục tiêu kiểm toán khác nhau, tuy nhiên, nhìn chung các cuộc kiểm toán bao gồm các mục tiêu sau: Đảm bảo cho người sử dụng thông tin về mức độ trung thực, hợp lý của thông tin tài chính; tính hiệu quả, hiệu suất của hoạt động; tính tuân thủ các văn bản pháp lý có liên quan. Phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai sót giúp đơn vị phòng 8
  9. ngừa sai phạm và thiệt hại có thể xảy ra trong hoạt động. Phục vụ cho việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong việc sử dụng ngân sách, tiền và tài sản khác của Nhà nước. 1.2. Phân loại kiểm toán 1.2.1. Phân loại theo mục đích của kiểm toán Căn cứ vào tiêu thức phân loại này, kiểm toán gồm: Kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán BCTC. 1.2.1.1. Kiểm toán hoạt động Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm xem xét và đánh giá tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động được kiểm toán của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị. Tính kinh tế: Biểu hiện của tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực (hay còn được hiểu là nguyên tắc tối thiểu) nghĩa là có thể đạt được mục tiêu đã xác định với lượng nguồn lực bỏ ra là thấp nhất. Tính hiệu lực: Biểu hiện của tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu đã đặt ra của đơn vị. Tính hiệu quả (hay còn gọi là nguyên tắc tối đa): Biểu hiện của tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với một đơn vị nguồn lực có sẵn. Có rất nhiều hoạt động của nhiều lĩnh vực khác nhau cần phải kiểm tra và theo dõi về tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả nên đối tượng của kiểm toán hoạt động rất đa dạng, phong phú. Đối tượng của kiểm toán hoạt động có thể là việc đánh giá một phương án kinh doanh, một dự án, một quy trình công nghệ, một công trình xây dựng cơ bản, một loại tài sản, thiết bị mới đưa vào hoạt động… Mặt khác, việc xác định các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của quá trình hoạt động rất khó, việc lượng hóa các mặt trên thành các tiêu chuẩn đánh giá là việc mang nặng tính chủ quan. Do vậy, việc đánh giá trong kiểm toán hoạt động cũng mang tính chủ quan cao. Trong kiểm toán hoạt động, việc kiểm tra thường vượt khỏi phạm vi 9
  10. công tác kế toán, tài chính, đòi hỏi kiểm toán viên phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, khoa học, kỹ thuật… Kiểm toán hoạt động sử dụng nhiều biện pháp, kỹ năng nghiệp vụ và phân tích, đánh giá khác nhau. Báo cáo kết quả kiểm toán thường là bản giải trình, nhận xét, đánh giá, kết luận và ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động. 1.2.1.2. Kiểm toán tuân thủ Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và đánh giá đơn vị được kiểm toán trong việc tuân thủ pháp luật và các quy định mà đơn vị phải thực hiện. Nội dung của kiểm toán tuân thủ có thể bao gồm: - Việc tuân thủ các quy định do các cơ quan Nhà nước đề ra: + Kiểm toán việc tuân thủ các luật thuế ở đơn vị: thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp… + Kiểm toán việc tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường, bảo vệ người lao động… - Việc tuân thủ những quy định do cơ quan quản lý cấp trên đề ra. - Việc tuân thủ những quy định của cơ quan chuyên môn đề ra như: + Tuân thủ quy trình và thủ tục giải ngân của kho bạc Nhà nước + Tuân thủ các điều kiện và thủ tục vay vốn của ngân hàng… Các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá thông tin ở loại kiểm toán này không phức tạp mà được xác định một cách dễ dàng gắn liền với các quy tắc được kiểm toán. Do loại kiểm toán này thường thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của chính đơn vị, hoặc của cơ quan quản lý cấp trên nên kết quả của kiểm toán tuân thủ nói chung được thông báo cho người có trách nhiệm trong đơn vị hoặc cơ quan quản lý cấp trên. 1.2.1.3. Kiểm toán BCTC Kiểm toán BCTC là việc kiểm tra và xác nhận về tính trung thực và hợp lý của BCTC được kiểm toán. Đối tượng của kiểm toán BCTC thường là các báo cáo tài chính và 10
  11. báo cáo khác của đơn vị như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh BCTC của các đơn vị, báo cáo quyết toán vốn, ngân sách của các đơn vị hành chính, sự nghiệp, của các dự án đầu tư… Các cơ sở sử dụng cho việc đánh giá thông tin thường là các chuẩn mực kế toán, các quy định pháp lý về kế toán và những quy định khác có liên quan. Trong nền kinh tế thị trường, BCTC của doanh nghiệp được nhiều đối tượng quan tâm, vì thế báo cáo kiểm toán thường được công khai rộng rãi. Kiểm toán BCTC là hình thức chủ yếu, phổ cập và quan trọng nhất, thường chiếm 70 - 80% công việc của các doanh nghiệp kiểm toán. 1.2.2. Phân loại theo chủ thể kiểm toán Căn cứ vào tiêu thức phân loại này, kiểm toán gồm: Kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ, kiểm toán Nhà nước 1.2.2.1. Kiểm toán độc lập Theo Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 đã nêu: "Kiểm toán độc lập là việc các kiểm toán viên hành nghề và doanh nghiệp kiểm toán kiểm tra và đưa ra ý kiến độc lập của mình về BCTC và các công việc kiểm toán khác theo yêu cầu của khách hàng". Chức năng của kiểm toán độc lập chủ yếu là kiểm toán BCTC, ngoài ra còn kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động hoặc cung cấp các dịch vụ tư vấn về thuế, kế toán, tài chính. Kiểm toán BCTC được thực hiện ở mọi đơn vị, mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. Kiểm toán độc lập hình thành như một doanh nghiệp với mục đích kinh doanh, có thu phí kiểm toán và hoạt động với mục tiêu lợi nhuận. Các kiểm toán viên của công ty là các KTV độc lập, hành nghề kiểm toán chuyên nghiệp và phải có chứng chỉ hành nghề kiểm toán. Kiểm toán độc lập chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của khách hàng và phải đảm bảo nguyên tắc: độc lập, khách quan, trung thực, bí mật. Kết quả kiểm toán không gắn với xử lý gian lận nhưng có tính pháp lý cao. Hoạt động kiểm toán độc lập là nhu cầu cần thiết, trước hết vì lợi ích 11
  12. của bản thân doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, lợi ích của chủ sở hữu vốn, các chủ nợ, lợi ích và yêu cầu của Nhà nước. Người sử dụng kết quả kiểm toán phải được đảm bảo rằng những thông tin họ được cung cấp là trung thực, khách quan, có độ tin cậy cao để làm căn cứ cho các quyết định kinh tế hoặc thực thi trách nhiệm quản lý, giám sát của mình. 1.2.2.2. Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước là công việc kiểm toán được thực hiện bởi các KTV làm việc trong cơ quan Kiểm toán Nhà nước, là tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thuộc bộ máy hành chính nhà nước; là kiểm toán theo luật định và kiểm toán tính tuân thủ, chủ yếu phục vụ việc kiểm tra và giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước có chức năng cơ bản là kiểm toán tuân thủ, ngoài ra kiểm toán hoạt động và kiểm toán BCTC. Kiểm toán Nhà nước được thực hiện ở các đơn vị sử dụng kinh phí, ngân sách Nhà nước. Trong chương X, Hiến pháp năm 2013, quy định "Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công". Kiểm toán viên của kiểm toán Nhà nước được coi là các công chức Nhà nước và không nhất thiết phải có chứng chỉ hành nghề kiểm toán. Kiểm toán Nhà nước được thực hiện mang tính chất cưỡng chế, theo yêu cầu quản lý của Nhà nước nên không thu phí kiểm toán, không kinh doanh. Kết quả kiểm toán gắn liền với giải pháp cải tiến hoạt động và đề xuất xử lý sai phạm ở đơn vị. Kiểm toán Nhà nước có tính pháp lý cao và thường được thể hiện trong Hiến pháp. 1.2.2.3. Kiểm toán nội bộ Kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do các KTV của đơn vị tiến hành, thực chất: kiểm tra, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ, chất lượng công việc. Kiểm toán nội bộ chủ yếu kiểm toán hoạt động, ngoài ra kiểm toán 12
  13. tuân thủ và kiểm toán BCTC, được thực hiện trong nội bộ từng đơn vị (có thể là đơn vị chính hoặc phụ thuộc). Kiểm toán nội bộ trực thuộc cấp cao nhất của đơn vị và độc lập với các bộ phận khác; có thể thuộc Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, các kiểm toán viên là những người làm công ăn lương, không bắt buộc phải có chứng chỉ hành nghề kiểm toán. Kiểm toán nội bộ được thực hiện dựa trên cơ sở yêu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp. Kết quả kiểm toán nội bộ gắn liền với các giải pháp cải tiến hoạt động và đề xuất xử lý sai phạm, nhưng có tính pháp lý thấp vì kiểm toán nội bộ chỉ chịu trách nhiệm trước chủ doanh nghiệp. 1.2.3. Phân loại kiểm toán theo các tiêu thức khác * Phân loại theo quan hệ pháp lý đối với khách thể kiểm toán thì kiểm toán gồm: - Kiểm toán bắt buộc: Các đơn vị được kiểm toán phải chịu sự kiểm toán bắt buộc theo luật định. Kiểm toán theo luật định thường do các cơ quan quản lý Nhà nước yêu cầu để phục vụ cho một mục đích nào đó như doanh nghiệp có hiện tượng gian lận, trốn thuế, tham nhũng,... - Kiểm toán tự nguyện: Là loại kiểm toán không bắt buộc đối với đơn vị được kiểm toán mà chỉ thực hiện khi đơn vị này có nhu cầu và tự nguyện thực hiện. Công việc kiểm toán do doanh nghiệp tiến hành dưới các hình thức kiểm toán nội bộ hoặc mời Kiểm toán viên của các công ty kiểm toán tiến hành. * Phân loại theo tính chu kỳ của kiểm toán, thì kiểm toán gồm: Kiểm toán định kỳ, kiểm toán bất thường * Phân loại theo phạm vi tiến hành thì kiểm toán gồm: Kiểm toán toàn diện và kiểm toán chuyên đề… 1.3. Quá trình phát triển của kiểm toán 13
  14. 1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển kiểm toán trên thế giới Kiểm toán đã có lịch sử phát triển lâu đời, với cách thức thực hiện sơ khai là trong cuộc họp sẽ có một người đọc to các thông tin mang tính chất công khai. Đến thời kỳ Trung cổ, hoạt động kiểm toán chủ yếu là kiểm toán tuân thủ và do các kiểm toán viên Nhà nước thực hiện nhằm đánh giá mức độ tin cậy của các thông tin kinh tế tài chính. Sau này, khi thị trường chứng khoán, các công ty cổ phần ra đời đã đặt ra một vấn đề mới cho công tác quản lý đó là sự tách biệt giữa quyền sở hữu và chức năng điều hành, các doanh nghiệp cần có một bên thứ ba độc lập đứng ra đảm bảo các thông tin kinh tế tài chính là đáng tin, vì vậy kiểm toán độc lập ra đời vào khoảng thế kỷ 18. Đến đầu thế kỷ 20, hoạt động đầu tư chứng khoán phát triển mạnh mẽ với hàng triệu nhà đầu tư, họ cần có một bên thứ ba độc lập đưa ra đánh giá về độ tin cậy của báo cáo tài chính mà họ định dựa vào để ra quyết định đầu tư, vì vậy kiểm toán độc lập chuyển từ mục đích phát hiện sai phạm sang mục đích mới là nhận xét về mức độ trung thực, hợp lý của thông tin trên báo cáo tài chính. Cùng với sự phát triển về quy mô của các đơn vị được kiểm toán cũng như sự phát triển của khoa học công nghệ, các phương thức kiểm toán mới cũng ra đời: - Thay vì kiểm tra toàn bộ các thông tin như thời kỳ đầu, đến thế kỷ 20, kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán được chấp nhận và đi vào ứng dụng để tiết kiệm thời gian và công sức của kiểm toán viên. Cùng với đó, việc đánh giá kiểm soát nội bộ của đơn vị cũng được quan tâm hơn, vì đó là một cơ sở quan trọng để lựa chọn mẫu kiểm toán. - Bên cạnh đó, do khoa học kỹ thuật phát triển, các đơn vị ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý gia tăng đòi hỏi kiểm toán viên phải nghiên cứu để đưa ra các kỹ thuật kiểm toán mới phù hợp với môi trường tin học này. Bước sang thế kỷ 21, vai trò của kiểm toán ngày càng tăng lên do tiến trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nhất là thị trường tài chính. Sự phát triển của các nhà đầu tư quốc tế vượt ra khỏi biên giới của các quốc gia đã làm tăng nhu cầu bảo đảm độ tin cậy của báo cáo tài chính và 14
  15. các thông tin khác. Mặt khác, sự kiện Enron và sự sụp đổ của Arthur Andresen đã dẫn đến những thách thức lớn lao cho nghề nghiệp kiểm toán nếu muốn giữ được sự tín nhiệm của công chúng. Những yêu cầu trên đã thúc đẩy việc mở rộng và nâng cao hơn nữa chất lượng của kiểm toán. Chính vì thế đã hình thành một số xu hướng nổi bật trong lĩnh vực kiểm toán trong những năm gần đây: - Tăng cường tính độc lập của kiểm toán viên thông qua việc hạn chế khả năng một doanh nghiệp kiểm toán cung cấp đồng thời nhiều dịch vụ cho một khách hàng. - Nâng cao trách nhiệm và khả năng của kiểm toán viên trong việc phát hiện các hành vi gian lận có thể gây ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính. - Mở rộng các kỹ thuật tiếp cận kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro. Kiểm toán viên không thể chỉ quan tâm đến rủi ro tài chính mà còn phải tìm hiểu cả rủi ro kinh doanh của khách hàng để hoạch định kế hoạch và chương trình kiểm toán. - Mở rộng các dịch vụ kiểm tra ngoài hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính truyền thống để phục vụ nhu cầu bảo đảm độ tin cậy của các thông tin khác nhau trong những giao dịch kinh tế. - Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực cho nghề nghiệp kiểm toán bao gồm đào tạo trong nhà trường và đào tạo trong quá trình làm việc. "Học suốt đời" được xem là yếu tố quan trọng của phát triển nghề nghiệp kiểm toán. 1.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển kiểm toán ở Việt Nam Hoạt động kiểm toán tại Việt Nam tuy đã có một lịch sử lâu dài, thế nhưng đến trước thập niên 90 của thế kỷ 20, hoạt động này chủ yếu là do Nhà nước tiến hành thông qua công tác kiểm tra kế toán. Phải đến cuối những năm 1980 khi Việt Nam từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài, sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo nên nhu cầu cần có kiểm toán độc lập để kiểm toán các báo cáo tài chính. Để phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới vào đầu thập niên 15
  16. 90, hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam được tái lập với sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) vào tháng 5/1991. Sau đó, nhiều công ty kiểm toán khác của Việt Nam lần lượt được thành lập cùng với sự có mặt của các công ty kiểm toán quốc tế và công ty kiểm toán liên doanh. Khách hàng của các công ty kiểm toán cũng gia tăng nhanh chóng và mở rộng ra nhiều loại hình doanh nghiệp như các doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần có yết giá ở thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại... Việt Nam cũng đã từng bước thể chế hóa hoạt động kiểm toán. Khởi đầu là vào tháng 1/1994, quy chế kiểm toán độc lập được Chính phủ ban hành theo Nghị định 07/CP ngày 19/1/1994 và được hướng dẫn thực hiện bởi Thông tư 22/TC/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ Tài chính. Tiếp đến vào tháng 7/1994, cơ quan kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ được thành lập và hoạt động theo Điều lệ Tổ chức và Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Tháng 10/1997, Bộ Tài chính đã ban hành Quy chế Kiểm toán nội bộ áp dụng tại các doanh nghiệp Nhà nước theo Quyết định 832 TC/QĐ/CĐKT. Năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về Kiểm toán độc lập để thay thế cho Nghị định 07/CP, sau đó là Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 105; Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư 64/2004/TT-TC ngày 29/6/2004 và thay thế cho Thông tư 22/TC/CĐKT. Ngoài ra từ tháng 1/2006, Luật Kiểm toán Nhà nước 2005 bắt đầu có hiệu lực, từ lúc này, cơ quan Kiểm toán Nhà nước không còn trực thuộc Chính phủ và trở thành cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo luật pháp. Ngày 29 tháng 3 năm 2011, tại kỳ họp thứ 9 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật Kiểm toán độc lập (Luật số 67/2011/QH12) quy định nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hoạt động kiểm toán độc lập, quyền, nghĩa vụ của 16
  17. kiểm toán viên hành nghề. Việc nghiên cứu để xây dựng các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng được tiến hành từ năm 1997. Đến tháng 9/1999, Bộ Tài chính đã ban hành 04 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (Vietnamese Standard on Auditing - VSA) đầu tiên. Đến nay, Việt Nam đã có hệ thống chuẩn mực kiểm toán tương đối hoàn chỉnh. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho sự phát triển của nghề nghiệp, Hội kiểm toán Việt Nam (nay là Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam - VAA) đã được thành lập vào năm 1994. Đến tháng 5/1998, VAA được kết nạp chính thức là thành viên thứ 7 của AFA (Liên đoàn kế toán ASEAN) và là thành viên thứ 130 của IFAC (Liên đoàn kế toán Quốc tế). Ngoài ra, kiểm toán Nhà nước Việt Nam cũng đã là thành viên của INTOSAI (Tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao). Đến tháng 4/2005, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã được thành lập với tư cách một tổ chức nghề nghiệp của kiểm toán viên hành nghề, VACPA là một thành viên của VAA. Tóm lại, những năm vừa qua, hệ thống kiểm toán Việt Nam đã hình thành và phát triển cả về lượng và chất. Quá trình phát triển đã đặt nền tảng ban đầu cho những bước phát triển trong tương lai cho ngành nghề này ở Việt Nam. CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Kiểm toán viên là những chuyên gia trong lĩnh vực nào? Câu 2: Anh (chị) hiểu như thế nào về tính độc lập của kiểm toán? Câu 3: Anh (chị) cho biết biểu hiện thẩm quyền của kiểm toán viên đối với đối tượng được kiểm toán? Câu 4: Cho biết những bằng chứng về các thông tin của đơn vị được kiểm toán mà kiểm toán viên thu thập là những thông tin gì? Câu 5: Kiểm toán viên lấy những chuẩn mực gì làm tham chiếu trong các cuộc kiểm toán? 17
  18. Câu 6: Phân biệt chức năng của kiểm toán với chức năng của kế toán? Câu 7: Phân biệt luật kiểm toán với chuẩn mực kiểm toán? Câu 8: Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường? Câu 9: Phân biệt kiểm toán hoạt động với kiểm toán tuân thủ? Câu 10: Phân biệt kiểm toán tuân thủ với kiểm toán Nhà nước? Câu 11: Phân biệt kiểm toán độc lập với kiểm toán Nhà nước? Câu 12: Phân biệt kiểm toán với kiểm tra công tác kế toán? 18
  19. CHƯƠNG 2  CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN  SỬ DỤNG TRONG KIỂM TOÁN  Chương này giới thiệu cho bạn đọc những khái niệm cơ bản sử dụng trong kiểm toán như cơ sở dẫn liệu, kiểm soát nội bộ, trọng yếu, rủi ro, bằng chứng kiểm toán… Các khái niệm này là cơ sở, nền tảng để nghiên cứu các nội dung khác trong kiểm toán như phương pháp kiểm toán, qui trình kiểm toán, tổ chức công tác kiểm toán. Qua đó, chương 2 cũng giới thiệu các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã ban hành nhằm cung cấp cho bạn đọc một cơ sở lý luận vững chắc trong nghiên cứu kiểm toán. 2.1. Cơ sở dẫn liệu 2.1.1. Khái niệm cơ sở dẫn liệu Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh rất nhiều các nghiệp vụ kinh tế khác nhau, nhưng chỉ những nghiệp vụ kinh tế có đủ tính hợp pháp, hợp lý được công nhận và chứng minh là có thật mới được phân loại, tính toán, đánh giá và ghi chép vào sổ cái. Số dư trên sổ cái sẽ được phản ánh trên BCTC của doanh nghiệp. Muốn đưa ra một ý kiến nhận xét về BCTC thì kiểm toán viên phải kiểm tra từng khoản mục, nghiệp vụ, số dư tài khoản tức là phải lập lại đường đi của chứng từ kế toán từ nghiệp vụ kinh tế phát sinh đến phân tích ảnh hưởng tới hạch toán, phân loại tổng hợp ghi sổ và lập BCTC. Theo VSA 315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn vị: "Cơ sở dẫn liệu là các khẳng định của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán một cách trực tiếp hoặc dưới hình thức khác về các khoản mục và thông tin trình bày trong báo cáo tài chính và được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại sai sót có thể xảy ra". 19
  20. 2.1.2. Các dạng cơ sở dẫn liệu Khi xét đoán về mức độ trung thực hợp lý của các khoản mục trên báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải tìm kiếm những căn cứ phù hợp cho mỗi khoản mục để đưa ra ý kiến nhận xét của mình trên báo cáo kiểm toán, đó là các cơ sở dẫn liệu. Thông thường cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính có các dạng sau: a/ Hiện hữu: Một tài sản hay một khoản nợ phản ánh trên báo cáo tài chính thực tế phải tồn tại (có thực) vào thời điểm lập báo cáo; b/ Quyền và nghĩa vụ: Một tài sản hay một khoản nợ phản ánh trên báo cáo tài chính đơn vị phải có quyền sở hữu hoặc có trách nhiệm hoàn trả tại thời điểm lập báo cáo; c/ Phát sinh: Một nghiệp vụ hay một sự kiện đã ghi chép thì phải đã xảy ra và có liên quan đến đơn vị trong thời kỳ xem xét; d/ Đầy đủ: Toàn bộ tài sản, các khoản nợ, nghiệp vụ hay giao dịch đã xảy ra có liên quan đến báo cáo tài chính phải được ghi chép hết các sự kiện liên quan; e/ Đánh giá: Một tài sản hay một khoản nợ được ghi chép theo giá trị thích hợp trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được thừa nhận); f/ Chính xác: Một nghiệp vụ hay một sự kiện được ghi chép theo đúng giá trị của nó, doanh thu hay chi phí được ghi nhận đúng kỳ, đúng khoản mục và đúng về toán học. g/ Trình bày và công bố: Các khoản mục được phân loại, diễn đạt và công bố phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận). Một cách cụ thể hơn, theo VSA 315, các cơ sở dẫn liệu được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại sai sót tiềm tàng có thể xảy ra được chia thành ba loại và có thể có những dạng sau: (a) Các cơ sở dẫn liệu đối với các nhóm giao dịch và sự kiện trong kỳ được kiểm toán: Tính hiện hữu: Các giao dịch và các sự kiện được ghi nhận đã xảy ra và liên quan đến đơn vị; 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2