Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP GHÉP TỰ THÂN TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU <br />
TRÊN BỆNH NHÂN ĐA U TỦY <br />
Huỳnh Văn Mẫn*, Nguyễn Tấn Bỉnh*<br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Đặt vấn đề: Hiện nay, điều trị đa u tủy đã đạt được những bước tiến rất dài giúp cải thiện thời gian sống <br />
và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. <br />
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả bước đầu của phương pháp tự ghép tế bào gốc máu <br />
ngoại vi ở bệnh nhân đa u tủy tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP.HCM. <br />
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả các trường hợp đa u tủy tự ghép tế <br />
bào gốc tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học từ tháng 1/2012 đến tháng 8/2013. <br />
Kết quả: Chúng tôi đã tiến hành tự ghép 20 bệnh nhân đa u tủy (nam: nữ là 1,5:1) với phác đồ điều kiện <br />
hóa Melphalan 200 mg/m2. Các bệnh nhân này đều được điều trị tấn công với Bortezomib+Dexamethasone trước <br />
ghép (ít nhất 4 đợt). Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 49 tuổi. Có 4 bệnh nhân được ghép tươi, không qua xử <br />
lý (2 trường hợp viêm gan siêu vi B, 2 trường hợp nhiễm giang mai) và 2 bệnh nhân được tự ghép 2 lần. Liều tế <br />
bào đơn nhân và tế bào CD34+ trung bình lần lượt là 8,3 x 108 tế bào/kg và 7,2 x 106 tế bào/kg. Thời gian mọc <br />
mảnh ghép trung bình là 10 ngày. Các biến chứng thường gặp gồm : sốt giảm bạch cầu hạt, tiêu chảy, viêm niêm <br />
mạc. Tỷ lệ đạt đáp ứng hoàn toàn sau ghép cao hơn so với trước ghép (70% so với 30%). <br />
Kết luận: Nghiên cứu đã đạt được kết quả khả quan bước đầu và có thể áp dụng kỹ thuật tự ghép này rộng <br />
rãi trên bệnh nhân đa u tủy. <br />
Từ khóa: Đa u tủy, tự ghép tế bào gốc. <br />
<br />
ABSTRACT <br />
EFFICACY OF AUTOLOGOUS PERIPHERAL BLOOD STEM CELL TRANSPLANTATION <br />
FOR MULTIPLE MYELOMA <br />
Huynh Van Man, Nguyen Tan Binh <br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 256 ‐ 262 <br />
Background‐Objective: Recently, treatment of multiple myeloma (MM) achieved strong development <br />
which improved long‐term survival and quality of life. This research aims to assess results of autologous <br />
peripheral blood stem cell transplantation for multiple myeloma at Blood Transfusion and Hematology Hospital <br />
(BTH). <br />
Methods: Prospective case series study from January, 2012 to August, 2013 in Blood Transfusion and <br />
Hematology Hospital, Ho Chi Minh City. <br />
Results: Tweenty patients with MM who had autologous peripheral blood stem cell transplantation were <br />
analyzed. High dose Melphalan (200 mg/m2) was used for conditioning. All patients received induction therapy <br />
with Bortezomib+Dexamethasone before transplant (4 cycles). Patient’s median age was 49 years. Four patients <br />
underwent unmanipulated transplantation (2 patients with HBV, 2 patients with syphilis) and 2 patients <br />
underwent tandem transplantation. Mean number of mononuclear and CD34+ was 8.3 x 108/kg and 7.2 x <br />
* Bộ môn huyết học‐truyền máu, Đại học Y Dược TP. HCM. <br />
Tác giả liên lạc: Ths. BS. Huỳnh Văn Mẫn ĐT: 0975449818 Email: huynhvanman@yahoo.com <br />
<br />
256<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
106/kg. Median time for engraftment was 10 days. Febrile neutropenia, diarrhea, mucositis were the common <br />
toxicities. The post‐transplant CR response rate was higher than pre‐transplant (70% compared with 30%) <br />
Conclusion: Our study achieved good initial results and we can used this autologous peripheral stem cell <br />
transplantation for multiple myeloma patients broadly. <br />
Keywords: multiple myeloma (MM), autologous peripheral blood stem cell transplantation<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ <br />
Đa u tủy xương là một bệnh lý ác tính với <br />
sự tăng mạnh bất thường dòng tương bào. <br />
Liệu pháp hóa trị chuẩn cũ ít hiệu quả đối với <br />
bệnh lý này; ít hơn 10% bệnh nhân đạt được <br />
đáp ứng hoàn toàn (CR) và thời gian sống <br />
trung bình chỉ khoảng 3‐4 năm. Do đó, đến <br />
ngày hôm nay, đa u tủy vẫn là bệnh lý chưa <br />
điều trị khỏi hoàn toàn(2,6). Việc ứng dụng kỹ <br />
thuật tự ghép tế bào gốc đã cải thiện đáng kể <br />
tỷ lệ đạt đáp ứng hoàn toàn (35%), tăng thời <br />
gian sống không bệnh trung bình (39 tháng), <br />
và thời gian sống toàn thể (65 tháng). Do đó, <br />
tự ghép được xem là phương pháp hiệu quả <br />
đối với những bệnh nhân dưới 65 tuổi(1). <br />
Trong những năm gần đây, đã có một bước <br />
tiến mới trong điều trị bệnh đa u tủy với sự xuất <br />
hiện Bortezomib, một thuốc ức chế protease <br />
mới. Bortezomib đã được ứng dụng trong điều <br />
trị bệnh đa u tủy từ nhiều năm nay tại bệnh viện <br />
Truyền Máu Huyết Học TP.HCM. Nhằm cải <br />
thiện tỷ lệ đáp ứng cũng như góp phần duy trì <br />
lui bệnh tốt kéo dài cho bệnh nhân, kỹ thuật tự <br />
ghép tế bào gốc đã được tiến hành trên bệnh <br />
nhân đa u tủy từ năm 2011. Với nghiên cứu này, <br />
chúng tôi muốn đánh giá hiệu quả của phương <br />
pháp tự ghép này nhằm nâng cao hơn nữa chất <br />
lượng điều trị đa u tủy tại bệnh viện Truyền <br />
Máu Huyết Học PT.HCM. <br />
<br />
Mục tiêu nghiên cứu <br />
Mục tiêu tổng quát<br />
Đánh giá hiệu quả điều trị bằng tự ghép tế <br />
bào gốc tạo máu ở bệnh nhân đa u tủy tại BV <br />
Truyền Máu Huyết Học TPHCM từ tháng <br />
1/2012 đến tháng 12/2013. <br />
Mục tiêu chuyên biệt<br />
‐ Xác định thời gian mọc mảnh ghép. <br />
<br />
Huyết Học<br />
<br />
‐ Đánh giá các biến chứng xảy ra trong và <br />
sau ghép. <br />
‐ Đánh giá đáp ứng điều trị sau ghép. <br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br />
Thiết kế nghiên cứu <br />
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, tiền cứu. <br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu <br />
Bệnh nhân chẩn đoán đa u tủy tại bệnh viện <br />
TMHH thỏa các tiêu chuẩn: Tuổi 0,5 x 109/L, <br />
tối thiểu 3 ngày liên tục. <br />
<br />
257<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
‐ Thời gian hồi phục tiểu cầu được tính từ ngày <br />
ghép đến ngày tiểu cầu > 20 x 109/L, tối thiểu 3 <br />
ngày liên tục và không cần truyền tiểu cầu. <br />
Đánh giá đáp ứng sau ghép <br />
Tiêu chuẩn IMWG (International Myeloma <br />
Working Group): <br />
<br />
Phương pháp thu thập số liệu <br />
Phương pháp thu thập số liệu<br />
Hồi cứu các hồ sơ bệnh án của các bệnh <br />
nhân đa u tủy đã được tự ghép tế bào gốc tại <br />
bệnh viện Truyền máu huyết học. Các dữ liệu <br />
được thu thập theo phiếu thu thập số liệu. <br />
Xử lý và phân tích số liệu bằng xác suất thống kê<br />
‐ Sử dụng phần mềm vi tính SPSS 18 để xử <br />
lý và phân tích số liệu. <br />
‐ Kết quả trình bày dưới dạng bảng tần số, <br />
biểu đồ. <br />
‐ Kết quả xử lý thống kê: trung bình và tỷ lệ %. <br />
<br />
KẾT QUẢ <br />
<br />
bệnh nhân đạt đáp ứng hoàn toàn sau điều trị <br />
tấn công là 6/20 bệnh nhân (chiếm 30%). <br />
Bảng 1: Đặc điểm chung của các bệnh nhân trong <br />
nghiên cứu <br />
<br />
Phân loại bệnh<br />
U tương bào ngoài<br />
tủy<br />
Suy thận<br />
Giai đoạn theo<br />
Durie Salmon<br />
Phân giai đoạn theo<br />
ISS<br />
<br />
Bệnh lý nền kèm<br />
theo trước ghép<br />
<br />
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu <br />
Từ tháng 1/ 2012 đến tháng 8/2013, chúng tôi <br />
đã ghép trên 20 bệnh nhân. Tỷ lệ nam:nữ <br />
khoảng 1,5:1; tuổi trung bình khoảng 49 tuổi. <br />
Hầu hết bệnh nhân thuộc dạng đa u tủy với tăng <br />
tiết IgG (15 bệnh nhân) và thuộc giai đoạn III <br />
của bệnh theo Durie‐Salmon (17 bệnh nhân). <br />
Lúc chẩn đoán, có 4/20 bệnh nhân biểu hiện suy <br />
thận và 5/20 bệnh nhân có bướu tương bào <br />
ngoài tủy, được phát hiện qua sinh thiết mô. <br />
Tuy nhiên, tất cả bệnh nhân đều hồi phục chức <br />
năng thận về bình thường và biến mất các bướu <br />
ngoài tủy này trước khi tiến hành tự ghép. Số <br />
bệnh nhân mắc các bệnh viêm nhiễm trước ghép <br />
là 4/20 bệnh nhân (trong đó, 2 bệnh nhân bị <br />
viêm gan siêu vi B, và 2 bệnh nhân mắc giang <br />
mai). Đây là những đối tượng được chúng tôi <br />
ưu tiên ghép tươi, không qua xử lý và bảo quản <br />
tế bào gốc máu ngoại vi. Đa số các bệnh nhân <br />
được điều trị tấn công với ít nhất 4 đợt <br />
Bortezomib‐Dexamethasone trước ghép. Số <br />
<br />
258<br />
<br />
Số bệnh nhân (n = 20)<br />
1,5 : 1<br />
49 ± 7 tuổi (40 – 62 tuổi)<br />
IgG-kappa: 9 BN (45%)<br />
IgG-lamda: 7 BN (35%)<br />
IgA-kappa: 2 BN (10 %)<br />
không tiết: 2 BN (10%)<br />
<br />
Nam : nữ<br />
Tuổi<br />
<br />
Bất thường nhiễm<br />
sắc thể lúc chẩn<br />
đoán<br />
<br />
4/20 bệnh nhân (20%)<br />
5/20 bệnh nhân (25%)<br />
Giai đoạn IIA: 3 BN (15%)<br />
Giai đoạn IIIA:13 BN (65%)<br />
Giai đoạn IIIB: 4 BN (20%)<br />
Giai đoạn I: 6 BN (30%)<br />
Giai đoạn II: 9 BN (45%)<br />
Giai đoạn III: 5 BN (25%)<br />
Viêm gan B: 2 BN (10%)<br />
Giang mai: 2 BN (10%)<br />
Cao huyết áp: 2 BN (10%)<br />
Bướu giáp: 1 BN (5%)<br />
Lao phổi cũ: 1 BN (5%)<br />
Không bất thường: 8 BN (40%)<br />
Đa bội: 6 BN (30%)<br />
Del(13q): 2 BN (10%)<br />
Bất thường NST 14: 3 BN (15%)<br />
t(11;14)(q13;32): 1 BN (5%)<br />
<br />
Thời gian từ chẩn<br />
đoán đến lúc ghép<br />
<br />
5,6 ± 1,4 tháng (4 – 9 tháng)<br />
<br />
Đặc điểm quá trình tự ghép: <br />
Bảng 2: Đặc điểm quá trình tự ghép <br />
Số đợt tự ghép<br />
Tự ghép 2 lần<br />
Ghép tươi<br />
Liều tế bào đơn nhân<br />
Liều tế bào CD34+<br />
Mọc mảnh ghép :<br />
- bạch cầu hạt ≥ 0,5 x 109/L<br />
- tiểu cầu ≥ 20 x 109/L<br />
Số đơn vị hồng cầu lắng<br />
được truyền<br />
Số tiểu cầu được truyền<br />
Số ngày sử dụng G-CSF<br />
Số ngày nằm viện<br />
<br />
22 đợt<br />
2/20 BN (10%)<br />
4/20 BN (20%)<br />
8<br />
8,3 ± 3,8x10 /kg<br />
(3 – 19,3 x 108 /kg)<br />
6<br />
7,2 ± 2,5 x 10 /kg<br />
6<br />
(5,1 – 14 x 10 /kg)<br />
10,1 ± 0,9 ngày<br />
(8 – 12 ngày)<br />
10,2 ± 1,2 ngày<br />
(8 – 13 ngày)<br />
1,2 ± 1,1 đơn vị<br />
(0 – 3 đơn vị)<br />
7 ± 5 đơn vị<br />
(0 – 18 đơn vị)<br />
7,2 ± 1,2 ngày<br />
(6 – 10 ngày)<br />
28,64± 7ngày<br />
(21 – 46 ngày)<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br />
Với 20 bệnh nhân, chúng tôi đã thực hiện 22 <br />
đợt tự ghép. Trong đó, 2 bệnh nhân được tiến <br />
hành tự ghép 2 lần. Liều tế bào đơn nhân và <br />
CD34+ trung bình trong nghiên cứu của chúng <br />
tôi lần lượt là 8,3 x 108 tế bào/L và 7,2 x 106 tế <br />
bào/kg Tất cả các bệnh nhân đều mọc mảnh <br />
ghép. Thời gian hồi phục bạch cầu hạt trung <br />
bình (Số lượng bạch cầu hạt trung tính trên <br />
0,5x109/L trong 3 ngày liên tiếp) là 10 ngày và <br />
thời gian hồi phục tiểu cầu trung bình (số lượng <br />
tiểu cầu trên 50 x109/L trong 3 ngày liên tiếp) là <br />
10 ngày. <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Tác dụng phụ xuất hiện trong quá trình ghép <br />
Sốt giảm bạch cầu hạt, viêm niêm mạc độ II <br />
– III, tiêu chảy độ II, và buồn nôn, nôn độ II là <br />
các biến chứng thường xảy ra trong quá trình tự <br />
ghép (biểu đồ 1). Tất cả bệnh nhân đều có sốt <br />
trong giai đoạn giảm bạch cầu hạt. Số ngày sốt <br />
trung bình là 4,3 ngày (1 – 12 ngày). Số ngày <br />
trung bình sử dụng kháng sinh tĩnh mạch phổ <br />
rộng là 12,4 ngày (7‐31 ngày). Có 11/20 bệnh <br />
nhân sử dụng kháng nấm tĩnh mạch. Thời gian <br />
trung bình sử dụng kháng nấm tĩnh mạch là 6,9 <br />
ngày (0 – 28 ngày). Một trường hợp sốc nhiễm <br />
trùng do tác nhân Enterobacter spp. xảy ra trong <br />
quá trình ghép. Không có bệnh nhân tử vong <br />
trong quá trình ghép. <br />
<br />
<br />
Biểu đồ 1 : Phân bố các độc tính liên quan đến ghép trong nghiên cứu <br />
<br />
Đáp ứng với điều trị sau ghép <br />
<br />
<br />
Biểu đồ 2: Đáp ứng với điều trị trước và sau ghép <br />
<br />
Huyết Học<br />
<br />
259<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
Theo tiêu chuẩn của IMWG, tỷ lệ đáp ứng <br />
toàn bộ trong nghiên cứu của chúng tôi gồm: <br />
70% đạt đáp ứng hoàn toàn (CR, complete <br />
response) và 30% đạt đáp ứng một phần rất tốt <br />
(VGPR, very good partial response). So sánh <br />
với giai đoạn sau điều trị tấn công, tỷ lệ đáp <br />
ứng hoàn toàn sau ghép cải thiện đáng kể <br />
(70% so với 30%) (Biểu đồ 2). <br />
<br />
BÀN LUẬN <br />
Đến thời điểm hiện tại, tự ghép tế bào gốc <br />
vẫn là một phương pháp điều trị chuẩn dành <br />
cho những bệnh nhân đa u tủy trẻ hơn 65 tuổi (4). <br />
Điều này tạo cơ hội cho bệnh nhân tiếp xúc với <br />
hóa trị liệu liều cao nhằm tăng khả năng đạt đáp <br />
ứng hoàn toàn, cũng như cải thiện mức độ sâu <br />
của đáp ứng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh <br />
những bệnh nhân đạt được đáp ứng hoàn toàn <br />
có thể kéo dài thời gian sống toàn bộ, cũng như <br />
nâng cao chất lượng cuộc sống(10). Đa số bệnh <br />
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi thuộc giai <br />
đoạn III theo Durie‐Salmon, biểu hiện tổn <br />
thương nhiều cơ quan của bệnh. Do đó, gánh <br />
nặng tế bào ác tính cũng tăng hơn. Theo tác giả <br />
Kumar, những bệnh nhân thuộc giai đoạn III <br />
đặc biệt là IIIB có khả năng đáp ứng điều trị kém <br />
hơn cũng như thời gian sống toàn bộ ngắn <br />
hơn(8). Tự ghép hai lần (ghép tandem) là phương <br />
pháp tối ưu nhất dành cho những bệnh nhân <br />
nguy cơ cao này(3,7). Trong nghiên cứu này, <br />
chúng tôi có 2 bệnh nhân được tự ghép hai lần, <br />
và đều đạt được đáp ứng hoàn toàn so với đáp <br />
ứng một phần sau điều trị tấn công. <br />
Phác đồ điều trị tấn công cũng như thời <br />
gian từ lúc chẩn đoán đến lúc tiến hành tự <br />
ghép cũng là một yếu tố quan trọng ảnh <br />
hưởng đến đáp ứng sau ghép. Mục tiêu của <br />
điều trị tấn công nhằm giảm khối lượng tế bào <br />
ung thư đến mức thấp nhất có thể và không <br />
ảnh hưởng đến chất lượng tế bào gốc thu thập <br />
được sau đó. Các bệnh nhân trong nghiên cứu <br />
của chúng tôi đều được hóa trị liệu ít nhất 4 <br />
đợt Bortezomib + Dexamethasone. So với phác <br />
đồ gồm các thuốc alkyl hóa, thì Bortezomib kết <br />
hợp Dexamethasone có thể cải thiện đáp ứng <br />
<br />
260<br />
<br />
trước ghép và sau ghép một cách đáng kể (8). <br />
Thời gian trung bình từ lúc chẩn đoán đến lúc <br />
ghép trong nghiên cứu này là 5,2 tháng. Mặc <br />
dù, việc tự ghép sớm (12 tháng) vẫn còn nhiều tranh cãi(8,9), nhưng <br />
nhiều nhà nghiên cứu đề nghị nên tiến hành tự <br />
ghép sớm khi tổng trạng và mức đáp ứng với <br />
bệnh còn duy trì ổn định. Chính những yếu tố <br />
này cũng đã góp phần cho kết quả khả quan <br />
bước đầu trong nghiên cứu. <br />
Có 4 trường hợp ghép tươi không qua xử lý <br />
và bảo quản tế bào gốc máu ngoại vi: 2 trường <br />
hợp viêm gan siêu vi B, và 2 trường hợp giang <br />
mai muộn, không triệu chứng. Các bệnh nhân <br />
này đều được phát hiện qua tầm soát trước <br />
ghép bằng kỹ thuật huyết thanh học, và được <br />
khẳng định lại bằng những xét nghiệm chuyên <br />
biệt hơn. Việc tiến hành ghép với nguồn tế bào <br />
gốc bị nhiễm ít được báo cáo trên y văn thế giới. <br />
Tuy nhiên, nhằm đảm bảo chất lượng và số <br />
lượng tế bào gốc khi truyền lại vào cơ thể bệnh <br />
nhân, thì phương pháp ghép tươi tương đối <br />
phù hợp.Điều đáng quan tâm đó là khả năng <br />
bùng phát trở lại của tác nhân gây bệnh khi cơ <br />
thể bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng nề do <br />
hóa trị liệu gây nên. Thế nhưng, không có <br />
trường hợp nào xảy ra hiện tượng này. Vốn là <br />
vùng dịch tể của viêm gan siêu vi B, phương <br />
pháp ghép tươi có thể mở ra một hướng mới <br />
trong điều trị đa u tủy ở Việt Nam. <br />
Với liều tế bào đơn nhân trung bình và liều <br />
tế bào CD34+ phù hợp, tất cả bệnh nhân trong <br />
nghiên cứu của chúng tôi đều mọc mảnh ghép <br />
tốt. Thời gian mọc mảnh ghép trung bình <br />
khoảng 10 ngày đối với cả bạch cầu hạt và tiểu <br />
cầu, tương đồng với nhiều nghiên cứu trên thế <br />
giới(4,5,8). Tương tự nhiều báo cáo, số lượng đơn <br />
vị hồng cầu lắng và tiểu cầu cần truyền tương <br />
đối ít trong nghiên cứu này. Trên thực tế, hóa trị <br />
liệu Melphalan liều cao luôn là một vấn đề nặng <br />
nề đối với những bệnh nhân lớn tuổi. Với thời <br />
gian hồi phục huyết học rút ngắn lại, thời gian <br />
giảm bạch cầu hạt không kéo dài, nhu cầu <br />
truyền hồng cầu lắng và tiểu cầu đậm đặc ít làm <br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa <br />
<br />