La Mã Cổ Đại<br />
La Mã cổ đại là một nền văn minh đã từng tồn tại ở châu Âu, Bắc Phi, và Trung Đông từ<br />
năm 753 trước C.N. và sụp đổ vào năm 476 sau C.N.. Trong nhiều thế kỉ, người La Mã<br />
kiểm soát toàn bộ Tây Âu và tất cả vùng lãnh thổ bao quanh biển Địa Trung Hải và một<br />
số vùng đất bao quanh Biển Đen<br />
Thời kì Quân chủ<br />
Thành phố Rome phát triển từ những khu định cư trên và xung quanh đồi Palatine, xấp xỉ<br />
mười tám dặm từ biển Tyrrhenia (một phần của biển Địa Trung Hải) trên dòng sông<br />
Tiber. Tại vị trí này sông Tiber có một hòn đảo mà ở đó có thể lội qua sông. Do dòng<br />
sông và chỗ cạn, Rome ở vị trí quyết định đối với giao thông và buôn bán. Trong truyền<br />
thuyết của người La Mã, Rome được xây dựng bởi Romulus vào ngày 21 tháng 4 năm<br />
753 trước C.N. Romulus, người mà tên đã được coi là sinh ra tên của thành Rome, là<br />
người đầu tiên trong 7 vị vua của Rome mà người cuối cùng là Tarquin Kiêu hãnh bị phế<br />
truất vào năm 510 hay 509 trước C.N khi La Mã Cộng hoà được thiết lập. Những vị vua<br />
thần thoại hay bán thần thoại là (theo thứ tự thời gian): Romulus, Numa Pompilius (Vua<br />
hiền Numa), Tullus Hostilius, Ancus Marcius, Tarquinius Priscus, Servius Tullius, và<br />
Tarquinius Superbus (Tarquin Kiêu hãnh).<br />
Thời kì Cộng hoà<br />
La Mã Cộng hoà được thành lập vào năm 509 trước C.N, theo những tác giả về sau như<br />
Livy, khi nhà vua bị hạ bệ, và một hệ thống dựa trên những quanh chức hành chính địa<br />
phương được bầu ra hằng năm. Quan trọng nhất là hai quan chấp chính tối cao, những<br />
người cùng nhau áp dụng quyền hành pháp, nhưng phải đấu tranh với Hội đồng Nguyên<br />
lão cứ lớn lên về qui mô và quyền lực cùng với lực lượng của nền Cộng hoà. Các chức vị<br />
quan toà lúc đầu chỉ được giới hạn cho quí tộc nhưng sau này được mở rộng cho cả người<br />
bình dân. Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Italy, chủ yếu<br />
liên quan đến những bộ tộc Ý khác (thuộc dòng Ấn- Âu) như người Samnite và Sabine,<br />
nhưng cũng có cả người Entrusca. Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã ở Italy đến<br />
khi Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy Lạp, nhận được sự giúp đỡ của Pyrrhus thành<br />
Epirus vào năm 282 T.C.N. Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 trước C.N, Rome xung đột<br />
với Carthage trong 2 cuộc chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicily và Iberia. Sau khi đánh<br />
bại Macedonia và người Seleucid vào thế kỉ thứ 2 T.C.N, người La Mã trở thành những<br />
người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải. Xung đột nội bộ giờ đây trở thành<br />
mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội đồng Nguyên lão, khư khư giữ lấy quyền<br />
lực cho mình, liên tục phản đối những cải cách đất đai quan trọng. Một hậu quả không<br />
lường trước được từ cải cách quân sự của Gaius Marius đó là quân lính thường có lòng<br />
trung thành với chỉ huy của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh<br />
như Marius hay đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc<br />
thành phố và Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ . Vào giữa thế kỉ thứ nhất trước Công<br />
nguyên ba người đàn ông, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus, và Marcus Licinius<br />
Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức của chính phủ cộng hoà thông qua<br />
một hiệp uớc bí mật được biết đến như là Chế độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà<br />
hợp với những đối thủ Pompey và Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân<br />
đội riêng và sự nghiệp thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu<br />
chọn quan chấp chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người<br />
cầm quyền của Gaul để tự mình có được danh tiếng quân sự. Sau cái chết của Crassus và<br />
sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt giữa Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã<br />
dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và<br />
được phong làm nhà độc tài suốt đời sau khi từ chối tước hiệu quốc vương . Tuy nhiên,<br />
ông ta chiếm lấy quá nhiều quyền lực quá nhanh đối với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám<br />
sát trong một âm mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44<br />
T.C.N. Một chế độ Tam hùng thứ 2, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định của Ceasar<br />
Octavian và những cựu trợ thần Mark Antony và Marcus Aemilius Lepidus, lên nắm<br />
quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu tranh giành<br />
quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà, Octavian đánh bại<br />
Antony tại trận chiến Actium vào năm 31 T.C.N và thôn tính những vùng lãnh thổ của<br />
Cleopatra, người vợ phương Đông( và ở Rome, bị khinh miệt) của Antony. Octavian giữ<br />
lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm một thu nhập để lấy<br />
lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực gần như tuyệt đối với tư<br />
cách là thống soái quân sư, người bảo vệ duy nhất của quần chúng, và quyền lực tối cao<br />
trên lãnh thổ La Mã, và lấy tên Augustus. Những xác lập hiến pháp trên (đã biến Rome từ<br />
một nước cộng hoà thành một đế quốc. Người kế vị được chỉ định của Augustus,<br />
Tiberius, lên nắm quyền mà không có cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự<br />
kháng cự), và như vậy đã hoàn thành công trình của ông.<br />
Thời kì Đế quốc<br />
Trong thời kì Đế quốc, La Mã đối đầu những cuộc xâm lược của “người dã man” và<br />
những khó khăn khác. Để đối phó tốt hơn với nhiệm vụ giữ cả đế chế lại với nhau, hoàng<br />
đế bắt đầu chỉ định các tướng trấn giữ các vùng, làm xuất hiện các quyền lựa tập trung<br />
chia La Mã thành 2 phần Đông và Tây<br />
Sụp đổ<br />
Theo Edward Gibbon, Đế quốc La Mã đã không chống cự được cuộc xâm lược của người<br />
dã man do sự mất lòng tin đối với các cư dân. Họ đã trở nên lười biếng và uỷ mị, giao<br />
phó nghĩa vụ bảo vệ Đế chế của họ cho bọn lính đánh thuê người dã man. Vai trò của lực<br />
lượng quân đội người dã man trở nên dày đặc và ăn sâu đến nỗi họ có thể dễ dàng vượt<br />
mặt Đế chế. Những người La Mã, Gibbon nói, đã trở thành ẻo lả như phụ nữ và không<br />
muốn sống theo kiểu quân sự. Thêm vào đó, Gibbon cũng ám chỉ vai trò của Thiên chúa<br />
giáo trong sự sụp đổ của Rome. Thiên chúa giáo, ông nói, đã tạo ra niềm tin vào một thế<br />
giới khác và gợi ý rằng có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau cái chết. Điều này cổ vũ sự thờ<br />
ơ giữa những công dân La Mã tin rằng họ sẽ có một cuộc sống tốt hơn sau khi họ chết, do<br />
đó huỷ hoại ý muốn của họ về việc duy trì và hi sinh vì Đế chế. Thêm nữa , sự nổi lên<br />
của Thiên chúa giáo cũng tạo ra một sự xác định tư hữu quan trọng hơn nhà nước, làm<br />
thu nhỏ hơn mong muốn đưa những nhu cầu của nhà nước lên trên của bản thân. Giải<br />
thích này được nhìn nhận với thái độ hoài nghi bởi đế chế chỉ bị tan rã ở phía Tây, trong<br />
khi ở phía Đông, Đế chế vẫn tiếp tục như là Đế quốc La Mã Phương Đông. Trong Đế<br />
quốc La Mã, từ “người dã man” chỉ bất cứ ai không phải là một công dân La Mã, và được<br />
áp dụng chủ yếu cho những bộ tộc Bắc Âu ngoài tầm ảnh hưởng của nền văn hoá Roma.<br />