intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Liên minh an ninh Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc ở Đông Bắc Á sau chiến tranh lạnh

Chia sẻ: Lâm Đức Duy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

109
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Liên minh an ninh Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc ở Đông Bắc Á sau chiến tranh lạnh trình bày: Liên minh giữa Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc được hình thành trong cuộc Chiến tranh lạnh. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, liên minh này vẫn tiếp tục duy trì, phát triển và có tác động rất lớn đối với tình hình chính trị mỗi nước và cả khu vực Đông Bắc Á,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Liên minh an ninh Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc ở Đông Bắc Á sau chiến tranh lạnh

LIÊN MINH AN NINH MỸ - NHẬT BẢN - HÀN QUỐC<br /> Ở ĐÔNG BẮC Á SAU CHIẾN TRANH LẠNH<br /> NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH<br /> Trường THPT Vĩnh Hưng, Long An<br /> Tóm tắt: Liên minh giữa Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc được hình thành trong<br /> cuộc Chiến tranh lạnh. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, liên minh này vẫn tiếp<br /> tục duy trì, phát triển và có tác động rất lớn đối với tình hình chính trị mỗi<br /> nước và cả khu vực Đông Bắc Á. Hiện nay, các nước đang cố gắng nâng cấp<br /> liên minh tay ba này lên tầm cao mới, vai trò chính trị của Nhật Bản và Hàn<br /> Quốc được nâng lên xứng đáng với địa vị kinh tế của hai nước trong khu vực<br /> và trên thế giới.<br /> <br /> Có thể nói liên minh giữa Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc có cơ sở từ sau chiến tranh thế giới<br /> thứ hai. Nhật Bản và Hàn Quốc đều được chọn làm “bức màn sắt” ngăn chặn chủ nghĩa<br /> cộng sản lan rộng ở Châu Á trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trong quá trình hợp tác và<br /> duy trì liên minh, giữa ba nước vì lợi ích quốc gia đã không ít lần xảy ra những sóng gió,<br /> bất đồng, thậm chí có thời kỳ băng giá kéo dài. Tuy nhiên, mối quan hệ liên minh tay ba<br /> này đã trở thành bộ phận không thể thiếu trong chiến lược của mỗi nước, có tác động lớn<br /> đến tình hình an ninh khu vực Đông Bắc Á và cả thế giới từ trong Chiến tranh lạnh cho đến<br /> hiện nay. Trên cơ sở trình bày sự hình thành liên minh an ninh Mỹ-Nhật Bản-Hàn Quốc, bài<br /> viết sẽ nêu rõ mục tiêu, lợi ích của các nước khi tham gia liên minh này. Qua đó phân tích<br /> những tác động và thách thức mà liên minh này gặp phải đối với khu vực và thế giới trong<br /> giai đoạn hiện nay.<br /> 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH LIÊN MINH GIỮA MỸ - NHẬT BẢN - HÀN QUỐC Ở ĐÔNG<br /> BẮC Á<br /> Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, quan hệ đồng minh Xô - Mỹ trong chiến tranh bị<br /> tan vỡ. Tháng 3/1947, “Học thuyết Truman” ra đời chính thức đưa hai cường quốc Xô - Mỹ<br /> cùng hai hệ thống TBCN và XHCN bước vào một cuộc chiến mới - Chiến tranh lạnh.<br /> Châu Á - Thái Bình Dương (trong đó có Đông Bắc Á) chỉ là vùng ngoại vi, không phải là<br /> chiến trường chính của Chiến tranh lạnh. Song, trước sự ra đời của nước Cộng Hòa Dân<br /> Chủ Nhân Dân Triều Tiên (8/1948) và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (10/1949)<br /> cùng đi theo con đường XHCN. Sau đó, Trung Quốc kí “Hiệp ước thân thiện và hợp tác”<br /> với Liên Xô (2/1950) đã làm cho Mỹ vô cùng lo ngại trước ảnh hưởng ngày càng lan rộng<br /> của “dòng thác đỏ” ở châu Á, nên đã gấp rút xây dựng hàng loạt khối quân sự và liên minh<br /> quân sự ở châu Á, trong đó Nhật Bản và Hàn Quốc được chọn là những chốt tiền tiêu đối<br /> đầu trực tiếp với Liên Xô và Trung Quốc ở Đông Bắc Á.<br /> Đối với Nhật Bản: Sau chiến tranh, Nhật chịu sự chiếm đóng của lực lượng đồng minh để<br /> tránh nguy cơ Nhật quay trở lại con đường quân phiệt. Do tác động của bối cảnh quốc tế và<br /> khu vực, Mỹ nhận thấy “trong một thế giới bị chia rẽ như thế này, Nhật Bản là một nhân tố<br /> có tác động quyết định trong thế cân bằng lực lượng về phương diện quân sự, kinh tế, chính<br /> trị ở Đông Bắc Á” [2, 261]. Với mục tiêu đó, ngày 8/9/1951, “Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật”<br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859-1612, Số 03(11)/2009: tr. 102-108<br /> <br /> LIÊN MINH - MỸ - NHẬT BẢN - HÀN QUỐC Ở ĐÔNG BẮC Á SAU CHIẾN TRANH LẠNH<br /> <br /> 103<br /> <br /> đã được kí kết tại San Francisco. Bình luận về mục đích của hai bên, R. Guillain-nhà nghiên<br /> cứu chiến lược của Mỹ viết: đối với Mỹ “Hòa ước với Nhật Bản được đề cập trong hoàn<br /> cảnh nguy cơ của chiến tranh Triều Tiên, Trung Quốc bị mất hoàn toàn, Triều Tiên ít nhất<br /> mất một nửa. Mỹ cần bảo đảm nắm được Nhật Bản, Nhật Bản phải ở trong phe Mỹ, không<br /> có quyền đứng trung lập”. Về phía Nhật, ông cho rằng: “Nhật Bản không có quyền lựa<br /> chọn, sự cộng tác của Nhật Bản là sự cộng tác của một nước bị chiếm đóng về quân sự, cần<br /> phải thay đổi bằng một sự cam kết tự nguyện và lâu dài làm cho nước Nhật bại trận trở<br /> thành dứt khoát là một nước liên kết với Mỹ thắng trận” [1, 320].<br /> Đối với Hàn Quốc: trước sự phân cực mạnh mẽ giữa hai phe tại Đông Bắc Á, Mỹ bắt đầu<br /> nhận thấy bán đảo Triều Tiên là một “vùng đệm” lý tưởng, và “Hàn Quốc vừa là một quốc<br /> gia tuyến đầu, vừa là một khu vực tập kết, trở thành một tiền tiêu chiến lược ngăn chặn<br /> CNCS và bảo vệ Nhật Bản” [7, 79]. Năm 1950-1953, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Ngày<br /> 27/7/1953, Hiệp định đình chiến được ký kết, sau đó, ngày 1/10/1953, Mỹ và Hàn Quốc đã<br /> ký “Hiệp ước phòng ngự chung Mỹ - Hàn”, chính thức thiết lập quan hệ an ninh, quân sự<br /> Mỹ - Hàn, Hàn Quốc trở thành đồng minh của Mỹ cho đến nay.<br /> Như vậy, bằng những hiệp ước song phương, Nhật Bản - Hàn Quốc trở thành những đồng<br /> minh quan trọng của Mỹ ở Đông Bắc Á, tạo cơ sở pháp lý cho các lực lượng quân sự Mỹ<br /> lưu trú lâu dài ở hai nước. Dù chỉ là những liên minh song phương, nhưng liên minh Mỹ,<br /> Nhật Bản và Hàn Quốc đã phối hợp rất chặt chẽ trong các chiến lược của Mỹ ở khu vực và<br /> trên thế giới trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh.<br /> Bước sang thập kỷ 90, Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu,<br /> CNCS không còn là mối nguy hiểm chủ yếu của Mỹ và đồng minh, cũng có nghĩa là điều<br /> kiện hình thành liên minh giữa Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc không còn nữa. Song, sự trỗi<br /> dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Ấn Độ, sự phức tạp về an ninh khu vực, đặc biệt là sự xuất<br /> hiện của chủ nghĩa khủng bố là những thách thức mà bản thân mỗi nước không thể tự mình<br /> giải quyết. Đây chính là nguyên nhân quan trọng để các nước khẳng định lại sự cần thiết<br /> của các hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật; Mỹ - Hàn và hợp tác tay ba Mỹ - Nhật - Hàn trong<br /> hoàn cảnh mới.<br /> 2. MỤC TIÊU VÀ LỢI ÍCH CỦA CÁC NƯỚC KHI TIẾP TỤC DUY TRÌ LIÊN MINH<br /> SAU CHIẾN TRANH LẠNH<br /> 2.1. Đối với Mỹ<br /> 2.1.1. Lợi ích kinh tế: Sau Chiến tranh lạnh, kinh tế Mỹ phụ thuộc nhiều vào các nền kinh<br /> tế năng động nhất thế giới đang tập trung ở Đông Á. Hiện nay, Đông Bắc Á chiếm tới 25%<br /> giá trị thương mại toàn cầu, 24% kim ngạch thương mại của Mỹ [4, 23]. Trong đó, Nhật<br /> Bản là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, Hàn Quốc đứng hàng thứ 11 của thế giới, có ảnh<br /> hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Mỹ. Vì vậy, củng cố liên minh với Nhật Bản-Hàn Quốc sẽ<br /> tạo điều kiện cho Mỹ gây sức ép nhằm mở cửa thị trường, giải quyết vấn đề thâm thụt<br /> thương mại nặng nề với hai nước. Bên cạnh đó, thời gian gần đây Mỹ phải chia sẻ quyền<br /> lực kinh tế với Trung Quốc khi Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành đối tác thương mại<br /> lớn nhất của Nhật Bản-Hàn Quốc và cả khu vực Đông Á.<br /> <br /> 104<br /> <br /> NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH<br /> <br /> 2.1.2. Mục tiêu an ninh - chính trị<br /> * Ngăn chặn Trung Quốc và Nhật Bản: Mục tiêu lớn nhất của Mỹ ở Đông Bắc Á là chống<br /> lại bất kỳ một cường quốc nào thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ. Nhật Bản - Hàn Quốc sẽ<br /> tạo thành “hai gọng kiềm” giúp Mỹ ngăn chặn, răn đe sự lớn mạnh của Trung Quốc - đối<br /> thủ tiềm tàng nguy hiểm của Mỹ. Với vị thế kinh tế đứng hàng thứ ba thế giới (2007), Hội<br /> đồng tình báo quốc gia Mỹ dự báo rằng có thể Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật Bản trở thành<br /> cường quốc kinh tế thứ hai thế giới vào 2015, vượt Mỹ đứng đầu thế giới vào năm 2040 [9].<br /> Quan trọng hơn, Trung Quốc là nước đang sở hữu vũ khí hạt nhân, là một cường quốc hải<br /> quân có khả năng khống chế tuyến giao thông đường biển thiết yếu của Mỹ và các đồng<br /> minh trên Biển Đông… Mỹ hy vọng tiếp tục liên minh với Tokyo và Seoul sẽ phần nào<br /> kiềm chế được Bắc Kinh, hai nước sẽ đóng vai trò then chốt trong chiến lược cân bằng lực<br /> lượng giữa các nước lớn ở Đông Bắc Á dưới sự chủ đạo của Mỹ. Đồng thời, trong tính toán<br /> của Washington, sự bành trướng thế lực kinh tế của Nhật Bản sẽ làm lung lay địa vị chủ đạo<br /> của Mỹ tại khu vực châu Á - TBD. Vì vậy, tăng cường hợp tác an ninh với hai nước còn có<br /> mục tiêu kiềm chế chính Nhật Bản. Việc cho phép Nhật có vai trò quân sự lớn hơn không<br /> có nghĩa là Mỹ từ bỏ sự nghi ngờ đối với Nhật Bản. Mỹ tiếp tục đóng quân ở Nhật Bản Hàn Quốc nhằm gián tiếp giám sát Nhật Bản, và sử dụng Hàn Quốc như một tiền đồn quan<br /> trọng để kiềm chế Nhật Bản.<br /> * Đối phó với các điểm nóng trong khu vực: Đông Bắc Á là nơi vẫn còn những di sản của<br /> Chiến tranh lạnh chưa được giải quyết. Đối với Mỹ, việc Bắc Triều Tiên phát triển hạt nhân<br /> không chỉ gây bất lợi trong khu vực, Mỹ còn lo ngại Bình Nhưỡng sẽ cung cấp loại vũ khí<br /> này cho những phần tử khủng bố hoặc các nước “bất trị”. Bởi thế, Mỹ cần hợp tác chặt chẽ<br /> với Tokyo-Seoul, gây sức ép buộc Bình Nhưỡng cam kết ngừng và hủy bỏ chương trình hạt<br /> nhân. Mỹ còn yêu cầu hai đồng minh chia sẻ viện trợ, tích cực hợp tác với Mỹ giải quyết<br /> vấn đề hạt nhân này thông qua đàm phán song phương và đa phương. Mặc khác, Đài Loan<br /> cũng là một vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm đối với Mỹ và quan hệ Mỹ - Trung.<br /> Washington muốn tránh đối đầu với Bắc Kinh ở eo biển này, vì lúc này Mỹ đang dồn sức<br /> của mình vào cuộc chiến chống khủng bố trên chiến trường Trung Đông. Vì thế, duy trì lực<br /> lượng đồn trú của Mỹ trên lãnh thổ hai đồng minh ở khu vực, thực hiện chính sách mềm<br /> dẽo đối với Trung Quốc là việc làm cần thiết nhất đối với Mỹ.<br /> * Tăng cường “chia sẻ trách nhiệm” về kinh phí cho quân đội Mỹ đóng trên lãnh thổ hai<br /> nước, cũng như các vấn đề về an ninh khu vực và quốc tế. Mặc dù là siêu cường duy nhất,<br /> Mỹ không thể một mình đảm đương tất cả mọi chi phí quân sự khắp toàn cầu. Hơn nữa, sau<br /> Chiến tranh lạnh, sức mạnh tổng hợp của Mỹ đã bị giảm sút tương đối. Nhật Bản - Hàn<br /> Quốc có nền kinh tế phát triển cao, có thể chia sẻ với Mỹ về vấn đề này. Năm 2006, Tokyo<br /> đóng góp hơn 70% chi phí cho việc duy trì quân Mỹ trên đất Nhật và Seoul đóng góp 38%<br /> kinh phí cho lực lượng đồn trú của Mỹ trên đất Hàn. Con số này sẽ tiếp tục tăng lên trong<br /> thời gian tới tùy thuộc vào sự biến động tình hình an ninh trong khu vực [8]. Đóng góp này<br /> đã giúp Mỹ giảm bớt gánh nặng chi phí quốc phòng, tập trung vào phục hồi kinh tế nhằm<br /> xoa dịu làn sóng phản đối trong nước. Chính vì có nhiều lợi ích như vậy nên Mỹ không<br /> ngừng tìm mọi cách duy trì và nâng cấp quan hệ an ninh Mỹ - Nhật; Mỹ - Hàn và liên minh<br /> Mỹ-Nhật-Hàn trong tình hình mới.<br /> <br /> LIÊN MINH - MỸ - NHẬT BẢN - HÀN QUỐC Ở ĐÔNG BẮC Á SAU CHIẾN TRANH LẠNH<br /> <br /> 105<br /> <br /> 2.2. Đối với Nhật Bản và Hàn Quốc: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, do nhu cầu tái thiết<br /> đất nước, cả hai nước đều dựa vào “ô an ninh” và viện trợ của Mỹ. Không thể phủ nhận<br /> rằng chính nhờ sự bảo hộ và nguồn viện trợ này đã tạo nên “cú hích” ban đầu để Nhật tạo ra<br /> sự “thần kỳ Nhật Bản” từ thập kỷ 50-70 và Hàn Quốc với “kỳ tích Sông Hàn” những năm<br /> 60-90 của thế kỷ XX, trở thành những đối tác cạnh tranh gay gắt với Mỹ. Sau khi Chiến<br /> tranh lạnh kết thúc, trong bối cảnh quốc tế mới “nhân tố Mỹ” vẫn là yếu tố không thể thiếu<br /> trong chiến lược phát triển kinh tế và an ninh của hai nước. Nhật Bản và Hàn Quốc đều tìm<br /> được những lợi ích kinh tế và an ninh cho mình khi tiếp tục liên minh với Mỹ.<br /> 2.2.1. Lợi ích kinh tế: Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ vẫn đứng đầu thế giới về kinh tế, khoa học và<br /> công nghệ hiện đại, nắm quyền chi phối và có ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế và tài chính toàn<br /> cầu. Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Mỹ - Nhật và Mỹ - Hàn có giảm so với thời kỳ trước<br /> nhưng Mỹ vẫn là đối tác thương mại lớn của hai nước. Hiện nay, Mỹ là đối tác thương mại lớn<br /> thứ 2 của Nhật Bản, và là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Hàn Quốc [8]. Bên cạnh đó, Mỹ<br /> cũng là nước đi tiên phong trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại nên cả hai nước vẫn dựa<br /> nhiều vào thị trường và đầu tư của Mỹ để tiếp tục củng cố sự thịnh vượng của đất nước mình.<br /> 2.2.2. Lợi ích an ninh: Cũng như Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc đều cho rằng Trung Quốc,<br /> Nga và Bắc Triều Tiên là những thách thức an ninh hiện tại và cả trong tương lai của họ.<br /> Khả năng hạt nhân của những nước này có thể đe dọa trực tiếp đến an ninh Nhật Bản trong<br /> bối cảnh Hiến pháp hòa bình và những nguyên tắc phi hạt nhân không cho phép Nhật trở<br /> thành một cường quốc hạt nhân, cho dù Nhật Bản có thừa sức mạnh kinh tế để thực hiện<br /> điều này. Tokyo không thể không lo ngại vì sự gần gũi địa lý sẽ làm cho bất kỳ tên lửa nào<br /> được triển khai ở Bắc Kinh hay Bình Nhưỡng có thể bắn tới bất kỳ chỗ nào trên đất Nhật.<br /> Thủ đô Seoul, nơi tập trung đến 1/4 dân số và 1/3 GNP của Hàn Quốc, là trung tâm văn<br /> hóa, thương mại lớn của khu vực chỉ nằm cách khu phi quân sự chưa đầy 50km, hoàn toàn<br /> nằm trong tầm ngắm tên lửa của Bắc Triều Tiên. Cho nên, cam kết phòng thủ với Mỹ luôn<br /> được Nhật Bản và Hàn Quốc xem là nền tảng của an ninh quốc gia. Từ liên minh này, hai<br /> nước sẽ thuận lợi hơn trong quan hệ với Nga, Trung Quốc và đàm phán với Bình Nhưỡng.<br /> Hơn nữa, nhờ có sự bảo hộ an ninh của Mỹ, Nhật Bản - Hàn Quốc giảm ngân sách quân sự<br /> và chi phí an ninh khác, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế đất nước. Gần đây,<br /> theo xu hướng chung của thế giới trong cuộc chiến chống khủng bố, Nhật Bản và Hàn Quốc<br /> đều tăng ngân sách quốc phòng, song hai nước vẫn xem sự bảo trợ của Mỹ là chủ yếu đối<br /> với an ninh quốc gia của mình.<br /> 2.2.3. Lợi ích chính trị: Trong nửa thế kỷ qua, do sự ràng buộc của Hiến pháp hòa bình<br /> 1946, tiếng nói chính trị của Nhật Bản chưa tương xứng với vị thế kinh tế. Sau sự kiện 11/9,<br /> Nhật Bản gửi chiến hạm đến Ấn Độ Dương để hỗ trợ cho quân đội Mỹ tấn công<br /> Afghanistan (2001). Năm 2003, Nhật đưa lực lượng của mình sang làm nhiệm vụ hậu cần<br /> trong cuộc chiến ở Iraq… Những động thái này làm cho các nước trong khu vực châu Á TBD càng nghi kỵ sâu sắc hơn đối với Nhật Bản. Tiếp tục liên minh với Mỹ cho phép Nhật<br /> Bản xây dựng mối quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực dễ dàng hơn. Đối với Hàn<br /> Quốc, việc phi hạt nhân hóa, lập lại hòa bình trên bán đảo Triều Tiên là vấn đề trọng tâm và<br /> xuyên suốt của liên minh Mỹ - Hàn trong năm thập kỷ qua. Gần đây, Hàn Quốc đã có nhiều<br /> nỗ lực trong chiến lược đối với Bắc Triều Tiên như “Chính sách Ánh Dương” của tổng<br /> thống Kim Dea Jung và chính sách “Ngoại giao cân bằng ” của chính quyền Roh Moo Hyun<br /> <br /> 106<br /> <br /> NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH<br /> <br /> nhằm sử dụng sức mạnh kinh tế để chấm dứt tình trạng đối đầu giữa hai miền, giảm bớt<br /> những nghi ngờ cùng tiến tới hòa bình và thống nhất. Song, những cố gắng của bản thân<br /> Hàn Quốc chưa đủ sức làm “hạ nhiệt” căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên. Bình Nhưỡng<br /> vẫn sử dụng con bài hạt nhân để thách thức Mỹ và các nước đồng minh, nhiều lần thử tên<br /> lửa và dọa biến Seoul thành biển lửa [5, 98]. Vì vậy, một mặt Hàn Quốc vẫn xúc tiến các<br /> cuộc đàm phán để giải quyết cuộc khủng hoảng trong thương lượng hòa bình, mặc khác<br /> Hàn Quốc vẫn tiếp tục dựa vào “ô hạt nhân” của Mỹ. Hơn nữa, quan hệ an ninh Mỹ - Hàn<br /> tốt đẹp sẽ thúc đẩy kế hoạch Washington trao quyền chỉ huy thời chiến cho Seoul thuận lợi<br /> hơn, nâng cao vị thế của Hàn Quốc trên bản đồ chính trị thế giới.<br /> Tóm lại, với những lợi ích như trên, cả Nhật Bản và Hàn Quốc đều thấy sự cần thiết củng<br /> cố liên minh an ninh với Mỹ. Đây là nguyên nhân chủ yếu để các bên điều chỉnh hiệp ước<br /> an ninh, bất chấp những xung đột và tranh chấp về thương mại. Gần đây những cuộc viếng<br /> thăm của các nguyên thủ quốc gia 3 nước càng thấy rõ tầm quan trọng của mối liên hệ giữa<br /> Mỹ và hai đồng minh chiến lược này.<br /> - Quan hệ song phương giữa Nhật Bản - Hàn Quốc: Đây là “một cạnh” mà Mỹ quan tâm<br /> nhất trong tam giác Mỹ - Nhật - Hàn. Tuy hai nước đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao<br /> (1965), nhưng sau Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa Tokyo và Seoul vẫn rất lạnh nhạt do còn<br /> nhiều bất đồng về tranh chấp lãnh thổ và những “ân oán” trong chiến tranh thế giới thứ hai<br /> đến nay. Song, vì lợi ích quốc gia, hai nước phải khép lại những bất đồng để xây dựng mối<br /> quan hệ tốt đẹp hướng tới tương lai. Năm 1998, tuyên bố chung về “quan hệ đối tác mới<br /> giữa Hàn Quốc - Nhật Bản trong thế kỷ XXI” được thông qua đã mở ra một trang mới trong<br /> quan hệ giữa hai nước. Về kinh tế, quan hệ buôn bán giữa hai nước phát triển rất tốt, bằng<br /> nguồn vốn ODA, Nhật Bản giúp Hàn Quốc vượt qua khủng hoảng 97/98. Hiện nay, Nhật<br /> Bản là đối tác thương mại thứ 3 của Hàn Quốc, Hàn Quốc trở thành đối tác thương mại thứ<br /> 3, là nước đầu tư lớn thứ 2 của Nhật Bản [6].<br /> - Quan hệ an ninh: Cả Nhật Bản và Hàn Quốc cùng chia sẻ lo ngại về những tổn thất trực<br /> tiếp mà hai nước phải gánh chịu nếu Mỹ có biện pháp cứng rắn với Bắc Triều Tiên nên hai<br /> nước coi việc hợp tác an ninh quân sự là điều quan trọng và cần thiết đối với nhau. Ngày<br /> 28/4/2008, Bộ Quốc phòng Hàn Quốc tuyên bố hai nước đang thúc đẩy việc ký kết một hiệp<br /> định hợp tác quân sự toàn diện đầu tiên, hiệp định sẽ phác thảo những quy định chung trong<br /> việc hợp tác và trao đổi nhân viên, nghiên cứu và diễn tập cứu hộ hải quân. Đây là dấu hiệu<br /> ấm dần lên trong quan hệ an ninh, quân sự giữa hai nước dù vẫn còn tồn tại cuộc tranh chấp<br /> về hòn đảo Dokdo/Takeshima. Những động thái trên không chỉ giúp giải tỏa những khúc<br /> mắc giữa hai nước mà còn tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc triển khai cơ chế an ninh<br /> ba bên Mỹ - Nhật - Hàn đã được chính thức hóa từ năm 1997. Có thể thấy điều này qua<br /> những hoạt động hợp tác giữa Mỹ - Nhật - Hàn trong việc giải quyết vấn đề Triều Tiên.<br /> Những thỏa thuận chung giữa ba nước luôn có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả của tiến<br /> trình đàm phán đa phương. Với cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động, Nhật BảnHàn Quốc là hai trong số ít các đồng minh ủng hộ nhiệt tình nhất. Trong cuộc chiến ở<br /> Afghanistan (2001), Nhật Bản đã cung cấp khoảng 120 triệu thùng nhiên liệu trị giá 168<br /> triệu USD cho các tàu chiến của liên quân. Hàn Quốc đã đưa 200 binh sĩ đến Afghanistan<br /> và viện trợ 45 triệu đô-la cho nước này [10]. Trong cuộc chiến ở Iraq (2003), dù Mỹ vấp<br /> phải sự phản đối của nhiều nước kể cả những đồng minh thân thuộc, nhưng Tokyo và Seoul<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2