intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN QUAN HỆ HAI BỜ DƯỚI LĂNG KÍNH AN NINH TRUYỀN THỐNG

Chia sẻ: Nguyen Tran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

96
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong lịch sử thế giới, vấn đề an ninh quốc gia bao giờ cũng là chủ đề an ninh quan trọng nhất, nổi bật nhất, thậm chí là duy nhất đối với các quốc gia. An ninh truyền thống - đặt trong tổng thể an ninh quốc gia - luôn luôn có vị trí ưu tiên cao độ. Trung Quốc với mong muốn thống nhất Đài Loan đã gia tăng sức ép về chính trị và quân sự đối với hòn đảo này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN QUAN HỆ HAI BỜ DƯỚI LĂNG KÍNH AN NINH TRUYỀN THỐNG

  1. LUẬN VĂN QUAN HỆ HAI BỜ DƯỚI LĂNG KÍNH AN NINH TRUYỀN THỐNG 1
  2. Trong lịch sử thế giới, vấn đề an ninh quốc gia bao giờ cũng là chủ đề an ninh quan trọng nhất, nổi bật nhất, thậm chí là duy nhất đối với các quốc gia. An ninh truyền thống - đặt trong tổng thể an ninh quốc gia - luôn luôn có vị trí ưu tiên cao độ. Trung Quốc với mong muốn thống nhất Đài Loan đã gia tăng sức ép về chính trị và quân sự đối với hòn đảo này. Ngược lại, Đài Loan để đối phó với sức ép thống nhất và các cuộc tập trận quân sự của Trung Quốc đã tăng cường cho an ninh quốc phòng. Bởi vậy, vấn đề an ninh quân sự hay an ninh truyền thống của hai bờ đã trở thành vấn đề nổi cộm trong những thập kỷ qua. Những diễn biến của nó có thể ảnh hưởng trực tiếp tới hòa bình và an ninh khu vực. Do vậy đây là vấn đề quan trọng cần được tìm hiểu và nghiên cứu. Bằng các phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh tác giả cố gắng vẽ lên một bức tranh tổng thể về tình hình quan hệ hai bờ cả về kinh tế lẫn chính trị trong bối cảnh an ninh truyền thống đang được nhiều học giả quốc tế quan tâm tại đây. Do đây là một vấn đề mới, nhậy cảm và tính biến đổi cao nên khó tránh khỏi những hạn chế về nguồn tư liệu mới được cập nhật từ đó khó nắm bắt được những động thái mới trong quan hệ kinh tế - chính trị giữa hai bờ. Đồng thời, đứng từ góc độ một học giả nước ngoài nghiên cứu, tìm hiểu về một đối tượng luôn có nhiều biến động khó lường như vậy thì những đánh giá nhận xét mang tính phiến diện xảy ra là điều khó tránh khỏi, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ các chuyên gia. KHÁI NIỆM Những năm gần đây, nhất là sau sự kiện 11/9/2001, vấn đề an ninh trên thế giới nổi lên với nhiều nhận thức và khái niệm khác nhau, cả cũ và mới, như “an ninh nhân loại”, “an ninh tổng hợp”, “an ninh hợp tác”, “an ninh truyền thống” và “an ninh phi truyền thống” v.v... An ninh theo nghĩa chung, là yêu cầu cơ bản nhất đối với mỗi người, mỗi gia đình và mỗi quốc gia. Nói đến an ninh quốc gia là nói đến điều kiện quan trọng hàng đầu để một quốc gia tồn tại, vì vậy, nó là khái niệm chính trị cơ bản nhất và cũng là giá trị cơ bản nhất. Trong khái niệm an ninh, tuỳ theo các góc độ và nhu cầu sử dụng khác nhau, người ta lại chia ra nhiều loại: chia theo đơn vị phạm vi, có an ninh nhân loại, an ninh khu vực, an ninh quốc gia, an ninh đường phố...; chia theo tính chất thời gian lịch sử có an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; chia theo địa- chính trị có nhận thức khác hẳn nhau của an ninh phương Tây và an ninh phương Đông; chia theo các lĩnh vực, có an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh quân sự, 2
  3. an ninh thông tin, an ninh lương thực, an ninh môi trường... Tuy nhiên, cách phân chia như vậy cũng chỉ nên hiểu theo nghĩa giới hạn tương đối, vì nội dung của các khái niệm có những điểm trùng hợp hoặc đan xen với nhau. Năm 1943, một nhà văn Mỹ tên là Lip- man lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm “an ninh quốc gia”. Sau đó, giới học thuật Mỹ định nghĩa khái niệm này là các hành động liên quan đến việc dùng lực lượng quân sự để đe doạ, sử dụng và khống chế. Và rồi từ đó, khái niệm an ninh quốc gia gần như trở thành một từ đồng nghĩa với “an ninh quân sự”. Từ thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX đến nay, thế giới gọi quan niệm an ninh nào mà lấy an ninh quân sự làm cốt lõi - là quan niệm an ninh truyền thống, gọi đe doạ về quân sự là đe doạ an ninh truyền thống, gọi đe doạ an ninh ngoài quân sự là đe doạ anh ninh phi truyền thống. Trong lịch sử thế giới, vấn đề an ninh quân sự bao giờ cũng là chủ đề an ninh quan trọng nhất, nổi bật nhất, thậm chí là duy nhất đối với các quốc gia. An ninh truyền thống - đặt trong tổng thể an ninh quốc gia - luôn luôn có vị trí ưu tiên cao độ. Trong quan hệ hai bờ, do còn tồn tại những bất đồng về vấn đề chủ quyền nên mối đe dọa về an ninh quân sự hay an ninh truyền thống luôn luôn tiềm ẩn và nổi cộm trên các vấn đề an ninh khác. MÔI TRƯỜNG AN NINH KHU VỰC Đối diện với những thay đổi và xu thế phát triển của cục diện quốc tế, mỗi quốc gia đều cần điều chỉnh chiến lược của mình để đảm bảo vấn đề an ninh quốc gia. Thời kỳ sau chiến tranh lạnh cục diện toàn cầu có nhiều thay đổi, những thay đổi về an ninh và môi trường kinh tế chính trị khu vực Châu Á Thái Bình Dương đều ít nhiều có ảnh hưởng đến phương hướng phát triển trong quan hệ hai bờ. Đứng từ góc độ an ninh, sau chiến tranh lạnh cơ hội hợp tác trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương tăng lên, nhưng xung đột không vì thế mà giảm bớt. Tuy từ sau chiến tranh Việt Nam kết thúc, khu vực này không nảy sinh cuộc xung đột quân sự lớn nào, hơn nữa sau chiến tranh lạnh, những thành quả kinh tế của khu vực này khiến người ta đáng kinh ngạc, nhưng về phương diện chính trị và quân sự, những cơ cấu quyền lực truyền thống và uy hiếp về an ninh thì không có thay đổi nhiều. Giằng co quân sự, chạy đua vũ trang vẫn đang được tiến hành và diễn biến phức tạp. Nó tiềm ẩn rất nhiều nhân tố bất ổn có nguy cơ xảy ra xung đột, làm cho các nước trong khu vực Châu Á - TBD không nước nào không gia tăng ngân sách cho quốc phòng, tăng cường trang bị cho quân sự. Vậy khu Châu Á - TBD là khu vực nào? Theo những nhận định chung cho rằng, khu vực Châu Á - TBD là khu vực từ các quốc gia nằm ở ven phía tây Thái Bình Dương và Mỹ, cộng thêm các quốc gia ở Bắc Mỹ hợp thành. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô xụp đổ thì Mỹ đã trở thành một 3
  4. siêu cường quân sự duy nhất trên thế giới. Khu vực Châu Á - TBD có chiến lược và lợi ích kinh tế vô cùng lớn đối với Mỹ, do đó Mỹ vẫn sẽ tiếp tục đóng vai trò “người cân bằng” quân sự trong khu vực này. Dự kiến trong tương lai, Mỹ tiếp tục sẽ duy trì khoảng 100 nghìn quân, nhưng để làm dịu bớt các cuộc biểu tình của dân chúng nước sở tại, và giảm thiểu kinh phí do đồn trú quân ở nước ngoài, Mỹ sẽ đóng cửa một bộ phận căn cứ quân sự ở nước ngoài thay vào đó để trang bị vũ khí kỹ thuật cao. Do Mỹ vẫn đóng vai trò siêu cường duy nhất ở khu vực Châu Á - TBD, nên sự phát triển trong tương lai của khu vực này sẽ không thoát khỏi cục diện chiến lược Châu Á-TBD của Mỹ. Về cơ cấu song phương, chiến lược Châu Á-TBD của Mỹ sẽ do hai cơ cấu Mỹ – Nhật và Mỹ – Trung hình thành. Trong đó, Mỹ – Nhật mở rộng hệ thống an ninh sẽ làm cơ cấu chủ chốt cho khu vực Châu Á-TBD, còn quan hệ chiến lược Mỹ – Trung thì sẽ làm cơ cấu chủ chốt cho khu vực các nước xung quanh Trung Quốc. Và Mỹ đóng vai trò người điều chỉnh và người cân bằng trong hai cơ cấu này. Hay nói cách khác, ngoại trừ khi quan hệ Mỹ – Trung cải thiện và giữa ba nước lớn Mỹ – Trung – Nhật có thể xây dựng được mối quan hệ hợp tác thuận lợi, còn nếu không thì sự ổn định của khu vực Châu Á-TBD sẽ khó được duy trì.1 Các quốc gia trong khu vực Châu Á-TBD từ năm 1980 chủ yếu áp dụng sách lược mậu dịch hướng ngoại, lấy xuất khẩu lôi kéo nền kinh tế quốc dân phát triển, hình thành một hệ thống phân công “đàn Nhạn bay” với Nhật Bản đứng đầu, sau đó là Bốn con rồng, các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. Từ hình thái phát triển kinh tế đó đã làm tăng thêm quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tiến đến thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế. Tất nhiên, các nước trong khi tiến hành phân công sản nghiệp cũng phải nảy sinh cạnh tranh, từ đó dễ gây ra những cọ sát và bất ổn giữa các quốc gia trong khu vực. Mặt khác, sau chiến tranh lạnh hợp tác kinh tế của khu vực Châu Á-TBD có tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt, từ khi Hội nghị hợp tác kinh tế Chấu Á TBD được thành lập vào năm 1989 thì dường như nó đã hình thành một thế kiềng ba chân với Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ và Liên minh Châu Âu - ba thực thể kinh tế lớn nhất trên thế giới (Xem bảng 1). Bảng 1: Quy mô ba thực thể kinh tế lớn nhất trên thế giới. Chỉ tiêu Dân số Dự trữ GDP Diện tích đất Mậu dịch (triệu ngoại tệ (tỷ (tỷ USD) (triệu km2) (tỷ USD) Thực người) USD) thể Tổng % Tổng % % Tổng % % Tổng Tổng kinh tế kim toàn dân toàn toàn kim toàn toàn số số ngạch cầu số cầu cầu ngạch cầu cầu APEC 6.248 25,1 1.766 34,1 22,33 14,8 1.955 26,0 366,4 37,0 NAFTA 7.257 29,2 378 7,3 20,49 13,5 1.432 19,1 76,9 7,8 1 Tham khảo từ: http://netcity1.web.hinet.net/ 4
  5. EU 6.697 26,9 370 7,1 3,15 2,1 2.892 38,5 308,2 31,1 Chú thích: APEC: Hội nghị Hợp tác kinh tế châu Á - TBD NAFTA: Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ EU: Liên minh châu Âu Nguồn: Chương Sảnh Bình, “Sở trường của ba thực thể kinh tế lớn trên thế giới”, Kinh tế nhật báo, ngày 5/7/1995. Dẫn từ: Chu Húc, “Tình hình toàn cầu và ảnh hưởng của nó tới quan hệ hai bờ”, Tạp chí Vấn đề và nghiên cứu, số 35, kỳ 10, 10/1996, tr.12. Đằng sau sự phồn vinh và phát triển ở khu vực Châu Á-TBD sau chiến tranh lạnh, vẫn còn tồn tại rất nhiều những biến số ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh của khu vực. Ngoài những tranh cãi về chủ quyền lãnh thổ ra, thì theo học giả Kent E. Calder cho rằng, chạy đua vũ trang, tranh giành năng lượng và tăng trưởng kinh tế sẽ là những “nguy cơ tử vong” bùng phát ở khu vực châu Á. Nhất là các vấn đề về Trung Quốc hiện đại hóa quân sự, Nhật Bản thông qua “Đạo luật hiệp lực hòa bình Liên hiệp quốc” (Đạo luật PKO), bán đảo Triều Tiên với vấn đề hạt nhân, tranh chấp chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong biển Đông (Nam hải), và vấn đề tranh cãi chủ quyền giữa hai bờ eo biển Đài Loan .v.v… Do vậy, khu vực này đã trở thành khu vực mở rộng trang bị cho quân sự tích cực nhất trên toàn cầu, trong đó, nổi bật nhất là các nước thuộc vành đai biển Nam Trung Hoa (Xem bảng 2) Bảng 2: Mười quốc gia và khu vực nhập khẩu vũ khí truyền thống lớn nhất toàn cầu Đơn vị: triệu USD (Lấy giá trị tiền tệ năm 1990) Danh sách các nước và khu vực 1997 1996 1993 - 97 1.Taiwan 4.049 1.530 8.238 2.Saudi Arabia 2.370 1.946 9.834 3.China 1.816 1.102 5.053 4.Malaysia 1.346 199 3.153 5.Turkey 1.276 1.127 7.012 6.India 1.085 1.231 4.428 7.South Korea 1.077 1.591 5.345 8.Thailand 1.031 522 3.211 9.Egypt (Ai cập) 867 937 6.692 10.United Arab Emirates (Cộng 808 684 3.354 đồng các quốc gia Ả-rập) Nguồn: Dẫn từ Niên giám thống kê thế giới năm 1999, Đài Bắc, Thông tấn xã Trung ương, 1999, tr. 655. Vậy, nguyên nhân gì dẫn đến các quốc gia và khu vực trên chi tiền cho quốc phòng nhiều như vậy? Theo các học giả thì chủ yếu có các nguyên 5
  6. nhân sau: (1) Do tăng trưởng kinh tế đã đem lại tiền bạc để tăng cường nâng cao lực lượng quốc phòng; (2) Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các nước muốn tăng cường cho phòng vệ trên biển; (3) Uy hiếp cường quyền khu vực nổi dậy; (4) Mỹ cắt giảm quân số ở khu vực Châu Á-TBD đã tạo ra cảm giác mất an toàn; (5) Xung đột khu vực ngày càng lộ rõ; (6) Nhu cầu bảo vệ 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế; (7) Các vấn đề phi quân sự như phòng chống cướp biển, buôn lậu, đánh bắt cá phi pháp, bảo vệ môi trường…; (8) Nhằm nâng cao tiếng nói của quốc gia; (9) Khoa học tiến bộ muốn thay đổi vũ khí cũ; (10) Mua vũ khí với động cơ tham ô; (11) áp lực từ phía bán vũ khí, nước bán vũ khí áp dụng một số biện pháp giảm giá đẩy mạnh việc bán vũ khí khi thị trường bị thu nhỏ… Tóm lại, khu vực Châu Á-TBD trong thập kỷ qua đã được đánh giá là khu vực có nền kinh tế sôi động nhất, tuy nhiên không phải vì thế mà không có những bất ổn tiềm tàng. Khu vực Châu Á-TBD vẫn còn đang tồn tại những vết tích từ thời chiến tranh lạnh để lại. Do đó, có người nói “Chiến tranh lạnh chỉ kết thúc ở Châu Âu, còn Châu Á thì không” để có thể hình dung ra khu vực Châu Á-TBD ngày nay. Mỹ – Trung – Nhật là ba nước lớn có vai trò quan trọng đối với môi trường an ninh của khu vực Châu Á-TBD, tuy nhiên để dàn xếp được những bất đồng do lịch sử để lại thì không chỉ có những nước này mới có thể giải quyết được mà cần sự hợp tác chặt chẽ và tính nhân nhượng của các bên. Mỹ với vai trò một siêu cường về kinh tế và quân sự trên thế giới thì liệu Mỹ sẽ được gì khi khu vực này đi vào ổn định không còn tranh chấp ? Do vậy, mong muốn một khu vực hòa bình ổn định đích thực trong tương lai gần là không hiện thực. Nói như vậy không có nghĩa là trong khu vực sắp xảy ra chiến tranh hoặc xung đột vũ trang. Với trào lưu quốc tế hiện nay là hòa bình hợp tác cùng phát triển thì những vấn đề trên sẽ trở nên mờ nhạt trong xu thế đó. QUAN HỆ HAI BỜ EO BIỂN TRONG BỐI CẢNH AN NINH TRUYỀN THỐNG Quan hệ chính trị giữa hai bờ. Sau khi Quốc dân đảng từ đại lục di rời ra đảo Đài Loan năm 1949, do những nhân tố đối lập về chính trị và quân sự, đối kháng về hệ tư tưởng, và bối cảnh phức tạp của chiến tranh lạnh quốc tế, mà hai bờ lúc đó đã rơi vào cục diện chính trị “chia cắt Trung Quốc, hai bờ tự trị”. Những giao lưu về các phương diện văn hóa, kinh tế, xã hội và con người giữa hai bờ đã ở trong trạng thái “đóng băng” trong gần 40 năm. Sự phát triển của quan hệ hai bờ chỉ được bắt đầu từ năm 1987, khi chính quyền Đài Loan dỡ bỏ hạn chế và mở cửa cho dân chúng sang Trung Quốc đại lục thăm thân, lần đầu tiên đã mở cánh cửa giao lưu giữa hai bờ. Thời kỳ chiến tranh lạnh kết thúc 6
  7. đã càng làm ấm lên trong sự trao đổi qua lại giữa hai bờ. Để đáp ứng với cục diện phát triển của quốc tế và sự trao đổi sôi động giữa hai bờ, tháng 9 năm 1990, Đài Loan đã thành lập Uỷ ban thống nhất quốc gia, tháng 1 năm 1991 Uỷ ban Đại lục được thành lập, và thông qua “Cương lĩnh thống nhất đất nước” (国?统纲领?). Trong trao đổi giữa hai bờ, những vấn đề mang tính sự vụ đã nảy sinh và hai bên đã bắt đầu thông qua 2 đoàn thể dân gian là Hiệp hội hai bờ (海协?会?) và Quỹ hai bờ (海基?会?) làm trung gian tiến hành tiếp xúc và thỏa hiệp. Khi đó Trung Quốc lập tức đưa ra nguyên tắc “Một Trung Quốc” cần phía Đài Loan xác định rõ trước. Sau nhiều lần các đoàn đại biểu hai bên tiếp xúc tranh luận, cuối cùng đến tháng 11 năm 1992 hai bên đã đạt được nhận thức chung “hai bên kiên trì nguyên tắc một Trung Quốc”, tuy nhiên nội dung của nó thì mỗi bên lại có cách biểu đạt riêng. Chính nhận thức chung này đã bắt đầu mở màn cho sự giao thương giữa hai bờ. Tháng 4 năm 1993 cuộc Hội đàm GuWang ( 辜 ẳ?ụ?ỏèá) tổ chức tại Singapore, hai bên đã ký 4 Hiệp định chung, có thể nói đây là bước đột phá và có tính phát triển tích cực trong quan hệ hai bờ. Sau cuộc hội đàm này không lâu, đến ngày 31 tháng 8 cùng năm, Trung Quốc đã cho ra mắt cuốn sách trắng “Vấn đề Đài Loan và sự thống nhất của Trung Quốc”. Trong sách đặc biệt nhấn mạnh Đài Loan là một bộ phận không thể chia cắt của Trung Quốc, và cho rằng Trung Quốc chưa thống nhất chính vì còn tồn tại vấn đề Đài Loan, hơn nữa còn cho rằng “trong thời gian dài, vấn đề Đài Loan luôn là một nhân tố bất ổn trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương”. Trong sách trắng này, Trung Quốc đã công khai yêu cầu các nước đã có quan hệ ngoại giao với mình không được thiết lập và phát triển quan hệ ngoại giao với Đài Loan, đồng thời phản đối bất kể quốc gia nào bán vũ khí cho Đài Loan. Giới lãnh đạo thứ ba của Trung Quốc với đồng chí Giang Trạch Dân làm hạt nhân vào tháng 1 năm 1995 đã phát biểu “Giang 8 điểm”, nêu ra dưới nguyên tắc “Một Trung Quốc” hai bên tiến hành đàm phán hòa bình, đồng thời đưa ra cách nói “Người Trung Quốc không đánh người Trung Quốc”. Tuy nhiên, vào tháng 4 cùng năm Lý Đăng Huy (tổng thống) cũng phát biểu “Lý 6 điều”, nêu ra những chính sách kiến nghị cho quan hệ hai bờ, và quan hệ hai bờ nhìn chung là phát triển trong không khí hài hòa. Vào tháng 6 năm 1995, sau khi Mỹ đồng ý cho Lý Đăng Huy sang thăm trường Cornell University tại nước này thì Trung Quốc đã kịch liệt phản đối và liên tục “văn công võ kích” đối với Đài Loan. Từ tháng 7 năm đó bắt đầu tiến hành hàng loạt các hoạt động diễn tập quân sự. Đến tháng 3 năm 1996, khi Đài Loan tiến hành cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp thì Trung Quốc lại liên tiếp phát động ba cuộc diễn tập quân sự, tiến hành bắn thử tên lửa vào gần hai hải cảng quốc tế lớn của Đài Loan là Cơ Long và Cao Hùng, đồng thời tiến hành diễn tập quân sự về không quân gần những hòn đảo ngoài 7
  8. biển của Đài Loan với mục đích làm ảnh hưởng đến tình hình bầu cử. Tuy hai bờ eo biển Đài Loan chưa sảy ra những sung đột quân sự, nhưng sự kiện này lại thể hiện rõ tính bất ổn định và nguy cơ đối kháng quân sự tiềm tàng trong quan hệ hai bờ. Tháng 10 năm 1998, chủ tịch hội đồng quản trị Quỹ Hai bờ Cô Chấn Phủ dẫn đoàn sang thăm Trung Quốc, quan hệ hai bờ sau khi trải qua 3 năm giằng co cuối cùng cũng đi đến hòa hoãn. Tuy có nhiều cuộc gặp gỡ tiếp xúc, đối thoại nhằm tăng cường giao lưu và tìm kiếm những nhận thức chung giữa hai bên, nhưng vẫn còn những vấn đề mang tính kết cấu giữa hai bờ vẫn chưa được hòa giải, nhiều ý kiến bất đồng và nhiều phương diện khác biệt cơ bản vẫn tồn tại. (Xem bảng 3) Bảng 3. Những chủ trương khác nhau trong chính sách hai bờ Chủ trương của Trung Chính sách Chủ trương của Đài Loan Quốc Hàm ý “Một Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Dân Quốc Trung Quốc” Trung Hoa (thành lập từ 1912 đến nay) Một nước hai chế độ (Đài Một nước lưỡng thể (Hai Định vị hai bờ Loan là khu hành chính đặc bờ là hai thực thể chính trị biệt) đối đẳng) Chính quyền địa phương Hai bờ với lập trường đối trong thể chế một nước hai đẳng, cùng ngang hàng Phương diện chế độ không có quyền ngoại trong xã hội quốc tế, không quan hệ quốc tế giao, chỉ có thể giữ quan hệ tranh giành quyền đại diện kinh tế với nước ngoài với Trung Quốc Phương diện giao lưu kinh tế Tăng cường tam thông Kìm nén nhẫn nại mậu dịch hai bờ Không dự định thiết lập lập Hiệp thương hai Tăng nhanh tốc độ hiệp trường, chỉ cần có lợi cho bờ thương chính trị cải thiện quan hệ hai bờ. Nguồn: Tác giả tự quy nạp chỉnh lý. Trong phương diện ngoại giao, Trung Quốc và Đài Loan không ngừng cạnh tranh nhau để lôi kéo và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới. Trung Quốc trước sau coi Đài Loan là một chính quyền địa phương, do đó không những không ngừng phê phán mãnh liệt “thực vụ ngoại giao” của Đài Loan, mà còn tích cực phá vỡ các mối quan hệ ngoại giao của Đài Loan đã thiết lập. (Xem bảng 4) Về phương châm và mục tiêu trong chính sách Đài Loan của Trung Quốc, thì từ năm 1979 Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội) nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã công bố “Thư gửi đồng bào Đài Loan”, áp dụng chính sách “hòa bình thống nhất” đối với Đài Loan, dừng hẳn các trận pháo kích bắn vào Kim Môn, kết thúc trạng thái đối đầu 8
  9. quân sự giữa hai bờ. Năm 1981, Ủy viên trưởng Đại hội đại biểu toàn quốc Diệp Kiếm Anh (Chủ tịch Quốc hội?) đã đề ra “Phương châm chính sách thực hiện hòa bình thống nhất Đài Loan trở về Trung Quốc”, Bảng 4. Tình hình cạnh tranh ngoại giao giữa hai bờ trong những năm gần đây (1989-1999) Trung Quốc Đài Loan Năm Tăng thêm Giảm đi Tăng thêm Giảm đi 1989 Bahamas, Bahamas, Grenada, Grenada, Berisso, Berisso, Liberia Liberia 1990 Saudi Arabia Lesotho, Lesotho 、 Saudi Arabia Nicaragua 、 Nicaragua 、 Guinea Bissau Guinea Bissau 1991 C.H Trung Phi C.H Trung Phi 1992 Hàn Quốc Niger Niger Hàn Quốc 1994 Lesotho Burkina Faso Lesotho 1995 Gambia 1996 Niger Senegal Niger 1997 Bahamas, Saint CH. Chad Sao Tome, CH. Bahamas, Saint Lucia Chad Lucia 1998 Nam Phi, Nam Phi, Trung Phi, Trung Phi, Guinea- Guinea- Bissau,Tonga Bissau,Tonga 1999 Macedonian Macedonian Nguồn: Vương Cao Thành, “Cạnh tranh ngoại giao hai bờ trong ‘an ninh lưỡng nan’”, Tạp chí Vấn đề và Nghiên cứu, số 36 kỳ 12, 12/1997, tr 27. (hay còn gọi là “Diệp 9 điều”), coi Đài Loan là một “Khu hành chính đặc biệt” của Trung Quốc. Năm 1983, khi bàn về hiệp nghị Trung-Anh thực hiện chuyển giao quyền lực của Hồng Kông cho Trung Quốc, thì Bắc Kinh đã đề ra cương lĩnh chính sách “hòa bình thống nhất, một nước hai chế độ” đối với Đài Loan. Tháng 5 năm 1984, trong báo cáo công tác chính phủ tại Hội nghị lần thứ hai khóa VI của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Triệu Tử Dương lần đầu tiên trong văn kiện chính phủ đề cập tới ý tưởng “một nước hai chế độ”. Từ đó, trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc tiếp tục lấy “hòa bình thống nhất, một nước hai chế độ” làm phương châm cơ bản và là mục tiêu cao nhất trong chính sách của mình để giải quyết vấn đề Đài Loan. Bảng 5. Diễn biến trong chính sách của Trung Quốc đối với Đài Loan. Công tác tổ chức chủ yếu đối Giai đoạn với Đài Loan 9
  10. Lấy Quân Ủy trung ương, Bộ Điều tra trung ương, Bộ Thống 1949-1978 Dùng vũ lực để chiến trung ương (中央?统战?部) Giai đoạn xung đột giải phóng Đài quân sự Loan và Cơ quan Kiều vụ làm chủ, năm 1972 thành lập Văn phòng công tác Đài Loan. Tổ công tác lãnh đạo trung ương 1979-1987 Hòa bình thống đối với Đài Loan (cơ quan quyết Giai đoạn hòa bình nhất, một nước sách), Văn phòng công tác trung thống nhất hai chế độ ương về Đài Loan (cơ quan chấp hành) 1988-1995 Lấy hòa bình Thành lập “Phòng sự vụ Đài Loan Giai đoạn giao lưu thống nhất, một Quốc vụ viện” và “Hiệp hội quan dân gian nước hai chế độ hệ hai bờ eo biển”, đồng thời 1996 đến nay làm quan điểm trong các bộ ngành của Quốc vụ Giai đoạn chống chủ yếu, tăng viện và các cấp chính quyền thành Đài Loan độc lập cường tam thông lập Phòng sự vụ Đài Loan. thúc đẩy đàm phán tứ lưu (*) Chú thích: (*) Tam thông: Thông thương, thông bưu diện, thông hàng khôn- hàng hải; Tứ lưu: giao lưu kinh tế, giao lưu khoa học kỹ thuật, giao lưu văn hóa, giao lưu thể dục thể thao. Nguồn: tham khảo từ “Khái luận hệ thống công tác tổ chức của Trung Quốc đối với Đài Loan, Đài Bắc, Cục điều tra Bộ tư pháp, 12/1996, tr 5-9. Năm 2003, Trung Quốc đã cải tổ thành viên trong Tổ lãnh đạo công tác Đài Loan từ 8 người tăng lên 9 người. Trong đó, 4 đồng chí Giang Trạch Dân, Tiền Kỳ Tham, Tăng Khánh Hồng, Vương Triệu Quốc đã rút khỏi Tổ, và bổ sung 5 đồng chí mới bao gồm, tổ trưởng Hồ Cẩm Đào Chủ tịch nước, tổ phó Giả Khánh Lâm Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc, thư ký Đường Gia Triền ủy viên Quốc vụ viện, Vương Cương Phó chủ tịch Quân ủy trung ương và đồng chí Lưu Đình Đông. Ngoài ra, 4 người cũ vẫn là Hứa Vĩnh Diệu Bộ trưởng Bộ An ninh quốc gia, Trần Vân Lâm, Uông Đạo Hàm và Hùng Quang Khải. Sau khi cải tổ Hồ Cẩm Đào đã chính thức đưa ra “ý kiến 4 điểm” về công tác Đài Loan đó là: trước sau kiên trì nguyên tắc một Trung Quốc; dốc sức thúc đẩy giao lưu kinh tế và văn hóa giữa hai bờ; quán triệt sâu sắc phương châm hy vọng vào nhân dân Đài Loan; đoàn kết đồng bào giữa hai bờ cùng thúc đẩy sự phục hưng dân tộc Trung Hoa. Đồng thời trong ý kiến về quán triệt sâu sắc phương châm hy vọng vào nhân dân Đài Loan đã tiến thêm một bước đề ra “ba cái có lợi cho”: những việc chỉ cần có lợi cho nhân dân Đài Loan, có lợi cho sự ổn định quan hệ hai bờ và có lợi cho chấn hưng dân tộc Trung Hoa, Trung Quốc đều nguyện tích cực phối hợp thúc đẩy. Cương lĩnh công tác Đài Loan của Hồ Cẩm 10
  11. Đào sau khi nhậm chức vẫn không tách rời phương châm chính sách “Hòa bình thống nhất, một nước hai chế độ” và “Giang 8 điểm”. Tuy Trung Quốc luôn kiên trì vấn đề Đài Loan là vấn đề nội bộ Trung Quốc, không cho phép quốc gia nào khác can dự vào. Nhưng không thể phủ nhận được rằng, chính sách của Trung Quốc đối với Đài Loan luôn chịu ảnh hưởng của môi trường quốc tế tới những tiến triển trong quan hệ hai bờ, đặc biệt là hai nhân tố Mỹ và Nhật Bản. Trong quan hệ Mỹ - Đài Loan, Trung Quốc cho rằng quan hệ Mỹ - Đài Loan ngày càng mật thiết, và tỏ ra rất lo lắng đối với việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan và giữa hai bên hình thành “đồng minh quân sự”, nhất là từ tháng 9 năm 2003 tới nay, Mỹ một mặt vẫn ủng hộ chính sách “một Trung Quốc”, nhưng lại có thái độ thờ ơ đối với việc Đài Loan sửa đổi hiến pháp và chưng cầu dân ý về chủ quyền Đài Loan. Liên quan đến công tác Đài Loan, Trung Quốc đã triển khai nhiều cuộc gặp gỡ ở nhiều cấp đối với Mỹ, bao gồm hai lần hội ngộ giữa Chủ tịch Hồ Cẩm Đào với Tổng thống Mỹ Bust (trong hội nghị G8 vào tháng 6 và Hội nghị thượng đỉnh APEC vào tháng 8), Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nói “Nguyện dốc hết sức lực để lấy phương thức hòa bình thực hiện thống nhất hai bờ”, “Các thế lực Đài Loan độc lập vẫn đang ra sức tiến hành các hoạt động chia rẽ, đây là nguyên nhân căn bản khiến cho cục diện trở nên căng thẳng và không thể cải thiện được quan hệ giữa hai bờ”. Về quan hệ Nhật Bản - Đài Loan, sau khi Trung Quốc và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao, Nhật Bản áp dụng các biện pháp nhất thời mang tính hạn chế đối với các quan chức Đài Loan sang thăm Nhật Bản, nhưng những hạn chế này sau này bắt đầu được nới lỏng. Trước sức ép của chính quyền Đài Loan và sự thúc đẩy của cánh hữu Nhật Bản, thì chính phủ Nhật Bản không ngừng có các hành động ngầm thân Đài Loan, mưu cầu phá vỡ những hạn chế trong Tuyên bố chung Trung – Nhật, mở rộng “quan hệ thực chất” Nhật Bản - Đài Loan. Do đó, các quan chức cấp cao Đài Loan đến Nhật Bản hoạt động ngày càng nhiều, Nhật Bản cho phép các quan chức cao cấp Đài Loan sang thăm Nhật Bản, thậm chí mời cả tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy sang thăm Nhật. Tất nhiên, những hành động như vậy đã làm Trung Quốc rất bất bình. Tại Đại hội 16 của ĐCS Trung Quốc khẳng định vẫn không từ bỏ sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề Đài Loan. Đồng chí Giang Trạch Dân từng nói: “Chúng ta đề ra và kiên trì phương châm cơ bản ‘thống nhất hoà bình, một nước hai chế độ’ tức là muốn duy trì và bảo hộ ở mức cao nhất lợi ích của đồng bào Đài Loan. Nhưng chúng ta không thể từ bỏ sử dụng vũ lực. Nếu như thừa nhận từ bỏ sử dụng vũ lực, sẽ khiến cho thống nhất hoà bình không trở thành hiện thực”.2, Do vậy, mối đe dọa về an ninh quân sự hay an ninh truyền thống vẫn tồn tại trong quan hệ hai bờ và sự chuẩn bị về mặt 2 “Sách phù đạo báo cáo Đại hội 16”, Nxb Nhân dân Bắc Kinh, 11/2002, tr 373. 11
  12. quốc phòng của hai bên là khó tránh khỏi. Về mặt chuẩn bị cho quốc phòng của Trung Quốc, tuy có sự cắt giảm quân số nhưng Trung Quốc đang trang bị hiện đại hóa quân đội. Năm 2003, ngoài việc tiến hành thực hiện chiến lược mới thì cắt giảm quân số cũng là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thế kỷ mới. Trong lễ kỷ niệm 50 năm Đại học Khoa học kỹ thuật Quốc phòng, đồng chí Giang Trạch Dân đã chính thức tuyên bố cắt giảm 200 nghìn quân, và được khởi động vào ngày 1 tháng 10 cùng năm, dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2005. Trong tương lai, tổng binh lực Trung Quốc sẽ duy trì khoảng 2,3 triệu quân. Đợt cắt giảm quân lần này không giống với những lần trước, chủ yếu ở 8 hạng mục là: điều chỉnh giảm quy mô quân đội, tối ưu hóa cơ cấu biên chế quân đội, cải cách thể chế lãnh đạo chỉ huy, tăng cường tin học hóa tập trung thống nhất lãnh đạo quản lý, mở rộng liên kết hậu cần bảo đảm mức độ cải cách, xây dựng hệ thống Viện - Trường theo loại hình mới, giảm số lượng cán bộ và tăng cường xây dựng chế độ chính sách đồng bộ. Cơ chế của nó là lấy “ba giảm” (giảm đơn vị, giảm Viện - Trường và giảm Lục quân) làm nguyên tắc, và lấy hình thái phát triển bộ đội tác chiến chuyên nghiệp tin học hóa làm chủ đạo; lấy “thu hẹp cơ cấu chỉ huy”, “chuyên nghiệp hóa bộ đội tác chiến đối với Đài Loan” và “bộ đội chuyên nghiệp tin học hóa, cơ giới hóa” làm trọng điểm cải cách. Tăng cường trang bị cho hải - không quân và mở rộng bộ đội tên lửa. Thực hiện “quân đội quy mô thu nhỏ, hợp lý hóa cơ cấu, bộ đội trở thành nhất thể hóa, thể chế chỉ huy mạng lưới hóa, thông tin kịp thời, bảo đảm thể chế tổng hợp hóa, tin học hóa” làm mục tiêu cuối cùng. Trung Quốc hy vọng có thể xây dựng được một lực lượng quân sự vũ trang phù hợp với cải cách quân sự mới, có thể “đánh thắng chiến tranh cục bộ trong điều kiện kỹ thuật cao”, từ đó thể hiện sự chuẩn bị tác chiến nhằm vào Đài Loan và tạo sự uy hiếp lớn đối với Đài Loan. Về mặt chuẩn bị quân sự đối với Đài Loan, Trung Quốc chú trọng nghiêng về xây dựng tiềm lực động viên (nhân tài, vật lực phục vụ chiến tranh) ở vùng Đông nam duyên hải. Do điều kiện kinh tế phát triển cao độ của vùng này mà các công tác động viên quốc phòng được quy hoạch chung vào tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của vùng nhằm tích trữ chuẩn bị nguồn lực quân sự cho việc thống nhất Đài Loan bằng vũ lực. Ngoài việc tích cực thúc đẩy điều chỉnh phát triển 4 hệ thống động viên lớn bao gồm kinh tế, nhân dân phòng không, thiết bị giao thông chiến tranh và dân binh dự bị chiến dịch, Trung Quốc còn dựa vào yêu cầu của nhiệm vụ tác chiến đối với Đài Loan trong tương lai để tăng cường xây dựng 3 phương diện lớn khác: Một là, tăng cường xây dựng hải quân, không quân, bộ đội dự bị pháo binh và tăng cường các lực lượng tham chiến chi viện về khoa học kỹ thuật trong nhân dân; Hai là, tăng cường thông đường chiến lược vùng Đông nam duyên hải và xây dựng cơ sở hạ tầng chiến trường, bao gồm chú trọng tích trữ vật tư chiến lược và xây dựng kế hoạch bộ đội vượt biển với quy mô lớn lên đảo tác chiến, đồng thời nâng cao năng lực 12
  13. phục vụ nhanh của các lực lượng hậu cần cho chiến tranh, nhằm xây dựng được mục tiêu cung cấp và bổ xung liên tục vật tư thiết bị cho chiến tranh trong thời chiến; Ba là, với khả năng quân đội Mỹ sẽ vào cuộc trong cuộc chiến tranh giữa hai bờ eo biển nếu xảy ra, thì cần tăng cường xây dựng phòng không nhân dân, nâng cao các biện pháp chuẩn bị chống tập kích bằng đường hàng không như năng lực phòng hộ tổng hợp giữa các thành phố, chống hủy diệt toàn diện và ứng cứu viện trợ khẩn cấp…. Ngoài ra, nhằm thực hiện một cách có hiệu quả công tác chuẩn bị động viên hậu cần quốc phòng, sắp tới Trung Quốc sẽ tiến thêm một bước chế định và hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác động viên quốc phòng này. Về phía Đài Loan, sau sự kiện Trung Quốc bắn tên lửa uy hiếp Đài Loan năm 1996, và trước sức ép thống nhất bằng vũ lực, Đài Loan cũng ráo riết chuẩn bị chu đáo về mặt an ninh quốc phòng cho hòn đảo này. Năm 2001, chiến lược của quân sự Đài Loan là “dọa nạt ngăn chặn có hiệu quả và phòng vệ cố thủ”, lấy binh lực cấp 2 xây dựng sức chiến đấu làm mục tiêu, lấy “chế không, chế hải, chống chiếm đảo” và “chiến tranh điện tử thông tin” làm trọng điểm, nhằm tăng cường nguồn năng lực chiến đấu, thực hiện toàn diện tư tưởng “quyết chiến bên ngoài” của Tổng thống Trần Thủy Biển. Trong các phương diện như cải cách thể chế, xây dựng quân sự kỹ thuật hóa cao, chỉnh đốn sức chiến đấu của các binh chủng và mua vũ khí bên ngoài… đều rất sôi động. Sau khi Trần Thủy Biển trúng cử tổng thống đã tăng cường giáo dục quân đội theo hướng “chính quyền Đài Loan độc lập”; làm nhạt hóa chiến lược “quyết chiến bên ngoài” để yểm trợ cho “dọa nạt ngăn chặn có hiệu quả”; tăng cường xây dựng năng lực làm “tê liệt chiến lược” đòn đánh phủ đầu quân đội Đài Loan; phát triển hệ thống phòng ngự tên lửa đa nguyên hóa, nâng cao “sức cầm cự” trong chiến tranh; tăng cường dùng phương thức “mua vũ khí lấy ngoại giao” quan hệ quân sự của Đài Loan với Mỹ vô cùng mật thiết… Về cơ cấu tổ chức và hệ thống quản lý quân sự hiện nay của Đài Loan thì Tổng thống là thống soái cao nhất. Dưới Tổng thống là Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tổng chính trị tác chiến phân cấp nắm các quyền về quân đội, quân lệnh…. Tổng thống trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Viện trưởng Viện Hành chính lãnh đạo Bộ Quốc phòng, trực tiếp chỉ đạo Tổng tham mưu trưởng. (Xem biểu đồ 1) Biểu đồ 1: Thể chế quân sự Đài Loan Tổng thống Hội đồng an Viện ninh quốc gia Hành chính Cục an ninh Hệ thống Hệ thống Bộ quốc gia quân lệnh quân chính Quốc phòng 13
  14. Bộ Tổng Bộ Tinh luyện Bộ Tổng tham mưu liên hợp tác chiến chính trị tác ế Bộ Bộ Bộ Bộ Bộ Bộ Tổng Tổng Tổng Tổng Tư Tư tư tư tư tư lệnh lệnh lệnh lệnh lệnh lệnh tuần hiến lục hải không hậu tra quân quân quân binh cần biển Nguồn: Châu Hiển Long, Quan sát quân sự Đài Loan, Phúc Châu, Nxb Nhân dân Phúc Kiến, 9-1999, tr. 3. Quan hệ kinh tế giữa hai bờ. Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 của ĐCS Trung Quốc diễn ra vào tháng 12 năm 1978, sau khi đã quyết định thực thi chính sách “mở cửa đối ngoại, chỉnh đốn đối nội” thì vô hình chung đã thu hút thương nhân Đài Loan đến Đại lục đầu tư. Tháng 1 năm 1979, Trung Quốc công bố “Thư gửi đồng bào Đài Loan” đề ra hai bờ nên lập tức thực hiện chính sách tam thông “Thông thương, thông bưu diện và thông hàng không-hàng hải”, và đến tháng 5 cùng năm đã ban bố “Quy định tạm thời về triển khai mậu dịch đối với Đài Loan”, từ đó quan hệ kinh tế mậu dịch giữa hai bờ được bắt đầu. Nhưng do lúc đó phản ứng của phía Đài Loan là áp dụng chính sách Ba không là “Không tiếp xúc, không đàm phán và không thỏa hiệp”, hơn nữa quy định thương nhân Đài Loan không được tiến hành mậu dịch với Trung Quốc nên quan hệ kinh tế qua lại lúc này chỉ được tiến hành theo phương thức gián tiếp. Trước những năm 1970, quan hệ hai bờ rơi vào trạng thái đối lập về chính trị, quân sự và kinh tế, trạng thái này đã đem lại những thiệt hại lớn không thể tính hết cho cả hai bên. Năm 1979, Trung Quốc đại lục tuyên bố mở cửa quan hệ kinh tế với Đài Loan. Lúc đó, Trung Quốc đang ở vào thời kỳ đầu của công cuộc cải cách nền kinh tế và mở cửa đối ngoại. Đồng thời, cũng là điểm ngoặt lịch sử có ý nghĩa to lớn trong tiến trình công nghiệp hóa của Trung Quốc. Mở cửa quan hệ kinh tế với Đài Loan không chỉ là sự thay đổi quan trọng chính sách Đài Loan của Trung Quốc đại lục, mà còn là biện pháp trọng đại trong chiến lược phát triển kinh tế và chính sách công nghiệp hóa. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, nhu cầu về quan hệ kinh tế mậu dịch ngày càng trở nên quan trọng, Trung Quốc đã dốc sức thúc đẩy giao lưu kinh tế mậu dịch với Đài Loan, nhằm mục đích hy vọng có thể thu hút được các doanh nghiệp lớn và các ngành sản nghiệp kỹ thuật cao đến Trung 14
  15. Quốc đầu tư, vì khi thương nhân Đài Loan vào sẽ đem đến tiền vốn và kỹ thuật, cái mà Trung Quốc đang rất cần. Ngoài ra, Trung Quốc cũng hy vọng dùng lợi ích kinh tế để “dụ dỗ” mở rộng giao lưu giữa hai bờ, tăng cường mức độ phụ thuộc của Đài Loan vào kinh tế Trung Quốc, có lợi cho việc hạn chế khuynh hướng ly khai của Đài Loan, đồng thời hóa giải trạng thái đối lập chính trị, làm cho Trung Quốc có được ưu thế ổn định trong quá trình trao đổi tương hỗ giữa hai bờ, hơn nữa Trung Quốc có thể thực hiện được “tam thông” nhằm tạo điều kiện có lợi cho thúc đẩy thống nhất đất nước. Từ đó có thể thấy, việc thúc đẩy quan hệ kinh tế mậu dịch của Trung Quốc với Đài Loan cùng lúc có hai mục đích về kinh tế và chính trị. Vào những năm 1970, Đài Loan do nắm bắt được thời cơ có lợi trong hoàn cảnh quốc tế, nên đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong phát triển kinh tế, và cơ bản thực hiện được quá trình công nghiệp hóa, trở thành khu vực có nền công nghiệp hóa mới và nền kinh tế đầy sức sống. Đến niên đại 80, kinh tế Đài Loan đã bước vào giai đoạn thành thục. Lúc này, hoàn cảnh trên đảo Đài Loan và cục diện kinh tế chính trị thế giới đã có một loạt những thay đổi. Để thực hiện phát triển nền kinh tế trên đảo hơn nữa, về khách quan cần phải cải thiện và phát triển quan hệ giữa hai bờ, bù đắp cho những điều kiện còn hạn chế trên đảo, mở rộng không gian phát triển kinh tế. Do vậy, mặc dù đến năm 1984, chính quyền Đài Loan luôn áp dụng chính sách cự tuyệt giao lưu thương mại giữa hai bờ, nhưng do lợi ích trao đổi thương mại hai bờ rất lớn, các thương nhân Đài Loan tuyệt đối không bỏ qua cơ hội có lợi này. Một khi Trung Quốc đại lục thực hiện mở cửa thì đã tạo ra sự thôi thúc rất lớn đối với các thương nhân Đài Loan. Do đó, hình thành nên sự đột phá mang tính lịch sử trong quan hệ thương mại giữa hai bờ, trao đổi mậu dịch gián tiếp từ 77 triệu Nhân dân tệ (NDT) năm 1979 đã tăng nhanh lên 5,52 tỷ NDT năm 1984, tăng gấp hơn 6 lần.3 Năm 1985, chính quyền Đài Loan đã tuyên bố “ba nguyên tắc” đối với quan hệ kinh tế hai bờ, trên thực tế là bắt đầu áp dụng thái độ ngầm thừa nhận đối với mối quan hệ này. Giai đoạn từ năm 1985 đến 1987 là thời kỳ Đài Loan không có chính sách rõ ràng đối với quan hệ hai bờ, nhiều hoạt động kinh tế thương mại của các thương nhân Đài Loan được coi là vi phạm pháp luật, tuy nhiên nó không thể ngăn cản được xu thế phát triển quan hệ kinh tế giữa hai bờ, đến năm 1987, kim ngạch mậu dịch gián tiếp giữa hai bờ đã tăng lên gần gấp 2 lần, đạt 1,515 tỷ USD. Thời gian 1987-1988, là giai đoạn tính hợp lý của kinh tế đã phá vỡ tính bất hợp lý của giai đoạn trước: năm 1987, chính quyền Đài Loan bắt đầu thả lỏng những hạn chế đối với mậu dịch gián tiếp giữa hai bờ eo biển; năm 1988, Bộ Kinh tế Đài Loan đã công bố chính sách “không truy cứu” đối với hoạt động mậu dịch gián tiếp giữa thương nhân Đài Loan với Trung Quốc đại lục. Từ đó, quan hệ kinh tế hai bờ đã phát triển với quy mô lớn hơn, 3 Long Vĩnh Khu, Quan hệ hợp tác kinh tế hai bờ, Nxb Quản lý kinh tế, 1998, tr 4. 15
  16. mặc dù trong 10 năm tới sự phát triển của quan hệ hai bờ luôn thay đổi khó lường lúc dừng lúc tiến, nhưng xu thế trao đổi qua lại kinh tế giữa hai bờ thì không gì ngăn cản nổi. Trong những năm gần đây, với những lời kêu gọi, hay phương châm chỉ đạo của các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Đài Loan thì dường như trong tương lai những giao lưu hợp tác về kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật giữa hai bờ sẽ ngày càng phát triển gắn bó với nhau hơn. Ngày 24 tháng 1 năm 2002, tại Hội nghị kỷ niệm 7 năm thực hiện chính sách “Giang 8 điểm”, nguyên phó thủ tướng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham phát biểu, sau khi hai bờ gia nhập tổ chức WTO vào cuối năm 2001, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hợp tác kinh tế khu vực, hai bờ đều đứng trước những cơ hội phát triển và những thách thức lớn. Do đó, để thúc đẩy quan hệ kinh tế hai bờ nâng lên một tầm cao mới, thì cần xây dựng cơ chế hợp tác kinh tế và mối quan hệ kinh tế mật thiết giữa hai bờ. Đồng thời, tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc khóa 16 diễn ra vào tháng 11 năm 2002, chủ đề hợp tác kinh tế hai bờ cũng nhận được sự ủng hộ và cổ vũ của thế hệ lãnh đạo thứ tư của Trung Quốc. Tháng 3 năm 2003, chủ tịch Hồ Cẩm Đào khi tham gia Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc phát biểu “ý kiến bốn điểm” đối với quan hệ hai bờ, trong đó điểm thứ hai đã nhấn mạnh “cần dốc sức thúc đẩy giao lưu kinh tế văn hóa hai bờ”. Vào tháng 12 cùng năm, chủ tịch Hồ Cẩm Đào trong cuộc gặp gỡ với Hội trưởng Hiệp hội doanh nghiệp có vốn Đài Loan đã nêu ra nguyên tắc chính sách đối với Đài Loan là “ba điều chỉ cần”, trong đó, điều “chỉ cần” thứ hai là “chỉ cần là những việc có lợi cho giao lưu hợp tác đối với các lĩnh vực như kinh tế hai bờ, khoa học kỹ thuật và văn hóa…” thì Trung Quốc đều tận lực thúc đẩy. Về phía Đài Loan cũng có những lời kêu gọi như vậy. Ngày 3 tháng 2 năm 2004, Tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển đề nghị hai bờ nên xây dựng một “Cơ cấu tương hỗ hòa bình ổn định” (和平?稳?定?的互?动架?构?), dưới nguyên tắc thiết lập hòa bình, hai bờ nên tiến hành hiệp thương trong 4 chủ đề lớn, trong đó chủ đề thứ hai bao gồm triển khai sâu rộng giao lưu và hợp tác, cụ thể là bao gồm kinh tế (tam thông, du lịch, quan hệ kinh tế mậu dịch), văn hóa, giao lưu khoa học kỹ thuật, cùng chống tội phạm, cùng triển khai kinh tế ven biển, và giải quyết tranh chấp nghề cá, v.v… Ngày 20 tháng 5 năm 2004 sau khi liên nhiệm chức tổng thống Đài Loan, Trần Thủy Biển đã nhiều lần nhắc lại ý nguyện thúc đẩy cơ cấu này, đồng thời nhấn mạnh hai bờ có thể bắt đầu tiến hành hiệp thương từ chủ đề mở đường bay thẳng sang nhau.4 Chính bởi những ý nguyện của các nhà lãnh đạo hai bên mà trong 17 năm qua (1987-2004) tốc độ phát triển kinh tế mậu dịch giữa hai bờ tăng trưởng 4 Đồng Chấn Nguyên, “Viễn cảnh cơ chế hợp tác hai bờ”, Hội thảo quốc tế Hệ thống hợp tác kinh tế Trung Hoa tại Ma Cao, ngày 3-7/12/2004. 16
  17. nhanh chóng, giữa Trung Quốc và Đài Loan đã trở thành đối tác đầu tư và mậu dịch vô cùng quan trọng của nhau. Về phương diện mậu dịch, từ năm 1993 tới nay, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng mậu dịch lớn thứ 3 của Đài Loan, chỉ sau Mỹ và Nhật Bản. Năm 2003, Trung Quốc lần đầu tiên vượt qua Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Đài Loan, và là nguồn xuất siêu lớn nhất của hòn đảo này. Trong năm này, kim ngạch mậu dịch hai bờ đạt 46,3 tỷ USD, Đài Loan xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 35,4 tỷ USD và nhập khẩu là 11 tỷ USD, kim ngạch xuất siêu của Đài Loan là 24,4 tỷ USD.5 Trên thực tế, một phần rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan là do các thương nhân Đài Loan đầu tư ở Trung Quốc đem lại. Từ năm 1992, Trung Quốc đã trở thành khu vực đầu tư nhiều nhất hàng năm của Đài Loan. Theo thống kê của Đài Loan, đến cuối tháng 6 năm 2004, tổng số kim ngạch đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc đạt 37,7 tỷ USD, và con số này so với thống kê của Trung Quốc thì thấp hơn rất nhiều lần, vì rất nhiều các doanh nghiệp Đài Loan sang Trung Quốc đầu tư không thông báo cho chính quyền Đài Loan hoặc không thông báo số vốn đầu tư tại Trung Quốc.6 Trong những năm qua, bất kể là hoạt động mậu dịch, đầu tư hay các hoạt động trao đổi khác có liên quan thì tất cả đều liên tục tăng trưởng, từ đó làm cho mức độ phụ thuộc mậu dịch của Đài Loan vào Trung Quốc cũng không ngừng tăng lên theo từng năm. Theo số liệu thống kê của Ủy ban Đại lục Đài Loan thì trong 6 tháng đầu năm năm 1998 mức độ phụ thuộc mậu dịch của Đài Loan vào Trung Quốc đã vượt quá 11% (nếu cộng thêm cả Hồng Kông thì tăng cao đạt 24%), đã vượt qua giới tuyến cảnh giới 10%. (Xem bảng 6). Cùng với các hoạt động mậu dịch và đầu tư, thì những hoạt động về trao đổi tiền tệ giữa hai bờ cũng vô cùng sôi động. Theo thống kê của Ngân hàng Trung ương Đài Loan, tính đến cuối tháng 6 năm 2004, số tiền cá nhân của người Đài Loan gửi sang Trung Quốc là 7,2 tỷ USD (thống kê từ năm 1990), còn số tiền của các doanh nghiệp Đài Loan chuyển sang Trung Quốc (thống kê từ năm 1993) là 13 tỷ USD, tổng cộng là 20,2 tỷ USD. Mặt Bảng 6: Bảng thống kê mức độ phụ thuộc mậu dịch giữa hai bờ và Đài Loan với Hồng Kông Đơn vị: % Đài Loan phụ thuộc Đài Loan phụ thuộc Trung Quốc phụ Năm Trung Quốc Hồng Kông thuộc Đài Loan 5 Như trên. 6 Viện Nghiên cứu Trung Hoa, “Báo cáo tình hình kinh tế Đại lục và hai bờ năm 1997-1998”, Đài Bắc, Ủy ban Đại lục Viện Hành chính, 1999, tr 193-194. 17
  18. Độ Độ Độ Độ Độ Độ Độ Độ Độ phụ phụ phụ phụ phụ phụ phụ phụ phụ thuộc thuộc thuộc thuộc thuộc thuộc thuộc thuộc thuộc XK NK MD XK NK MD XK NK MD 1986 2.29 0.60 1.49 7.4 1.6 5.2 0.46 1.89 1.29 1987 3.70 0.83 1.38 7.7 2.0 5.5 0.73 2.84 1.83 1988 4.38 1.22 2.47 9.2 3.9 6.8 1.01 4.06 2.65 1989 4.38 1.22 2.94 10.6 4.2 7.8 1.12 4.90 3.12 1990 4.88 1.40 3.32 12.7 2.7 8.2 1.23 6.14 3.50 1991 6.12 1.79 4.16 16.3 3.0 10.3 1.57 7.32 4.27 1992 7.72 1.55 4.83 18.9 2.5 11.2 1.32 7.80 4.47 1993 9.25 1.43 5.36 21.7 2.2 12.4 1.20 7.30 4.44 1994 15.70 2.20 9.30 22.8 1.8 12.7 1.07 7.36 4.14 1995 16.00 3.00 9.80 23.4 1.8 13.0 1.09 8.60 4.45 1996 17.87 3.02 10.95 23.1 1.7 13.1 1.04 6.99 3.89 1997 18.39 3.42 11.15 23.5 1.7 12.98 0.93 6.82 3.52 1-6/ 1998 18.06 3.90 11.07 22.8 1.8 12.45 0.94 6.56 3.33 Nguồn:Dẫn từ Niên giám thống kê thế giới năm 1999, tr. 798. khác, từ năm 1993 đến tháng 6 năm 2004, số tiền mà Đài Loan từ Trung Quốc gửi về là 17,2 tỷ USD.7 Về số lượt người qua lại du lịch giữa hai bờ, từ năm 1988 đến cuối tháng 6 năm 2004, Đài Loan tổng cộng có gần 32 triệu lượt người sang Trung Quốc, tính riêng năm 2002, Đài Loan đã có 3,66 triệu lượt người sang Trung Quốc, mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch SARS, nhưng năm 2003 Đài Loan vẫn có 2,73 triệu lượt người sang Trung Quốc. Mặt khác, từ năm 1987 đến cuối tháng 6 năm 2004, số người Trung Quốc sang Đài Loan thăm thân và du lịch tổng cộng đạt 1,06 triệu lượt người. Riêng năm 2002, số người Trung Quốc sang Đài Loan là 150 nghìn lượt; và năm 2003 do chịu ảnh hưởng của dịch SARS cũng đạt gần 140 lượt người.8 Quan hệ kinh tế hai bờ có được sự phát triển nhanh chóng như vậy, chủ yếu là nhận được sự thúc đẩy của nhân tố thị trường. Ví dụ, trong thời gian từ năm 1995 đến 2001, khi thương nhân Đài Loan chuyển giao mỗi 1% sức sản xuất đến Trung Quốc trong ngành sản nghiệp thông tin khoa học kỹ thuật thì tỷ lệ chiếm hữu của họ tại thị trường thế giới bình quân tăng 0,5%, đây là lợi ích kinh tế vô cùng kinh ngạc.9 Chính quyền hai bên ở mỗi mức độ nhất định đều chịu khuất phục bởi sức mạnh của thị trường to lớn và khó chống đỡ, từng bước áp dụng chính sách ngày càng mở rộng cửa hơn 7 Đồng Chấn Nguyên, “Viễn cảnh cơ chế hợp tác hai bờ”, Hội thảo quốc tế Hệ thống hợp tác kinh tế Trung Hoa tại Ma Cao, ngày 3-7/12/2004. 8 Như trên. 9 Đồng Chấn Nguyên, “Đài Loan chế tạo, Trung Quốc đại lục sản xuất – Thương nhân Đài Loan đầu tư vào Trung Quốc ngành thông tin có ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của họ và tới nền kinh tế Trung Quốc”, Tạp chí Tình hình và đánh giá kinh tế, Số 10, kỳ 2, tháng 9/2004, trang 141-158. 18
  19. trong giao lưu kinh tế giữa hai bờ. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển giao lưu kinh tế nhanh như vậy cũng kéo theo rất nhiều vấn đề cần hai bên cùng hiệp lực giải quyết, và nếu không thể giải quyết được thì những vấn đề này tất yếu sẽ ảnh hưởng tới động lực và xu thế giao lưu hợp tác giữa hai bờ trong tương lai. Như, các vấn đề về bảo đảm sự an toàn về con người và quyền lợi đầu tư cho các thương nhân Đài Loan; vấn đề về tranh chấp trong khai thác nghề cá giữa hai bờ; vấn đề người Trung Quốc nhập cảnh phi pháp vào Đài Loan; vấn đề tranh chấp thương mại giữa hai bờ sau khi gia nhập WTO; vấn đề tranh chấp thương mại giữa Trung Quốc với các quốc gia khác; vấn đề quản lý giám sát tiền tệ và cơ chế quyết toán tiền tệ giữa hai bờ; vấn đề thông báo tình hình bệnh dịch và hợp tác phòng trừ..v.v… Tóm lại, quan hệ kinh tế giữa Đài Loan và Trung Quốc đại lục về đại thể đã trải qua ba giai đoạn: giai đoạn 1: từ 1979 đến 1986 là giai đoạn thăm dò; giai đoạn 2: từ 1987 đến 1994, là giai đoạn phát triển cao độ; giai đoạn 3: từ 1995 đến nay là giai đoạn tăng trưởng ổn định. Trải qua thời gian hơn 20 năm, quan hệ kinh tế mậu dịch hai bờ luôn luôn được tăng cường và không ngừng phát triển. KẾT LUẬN. Nhìn chung quan hệ hai bờ luôn “ấm nóng về kinh tế và nguội lạnh về chính trị”. Những năm qua, cuộc đấu tranh giữa kiên trì nguyên tắc một Trung Quốc và thừa nhận “nhận thức chung ngày 2 tháng 9” vẫn là chủ tuyến chính trong phát triển quan hệ hai bờ. Trong bối cảnh Đảng Dân Tiến vẫn giữ lập trường muốn Đài Loan độc lập, không thừa nhận nguyên tắc một Trung Quốc và “nhận thức chung ngày 2/9” thì quan hệ hai bờ vẫn không thoát khỏi nguy cơ một cuộc chiến quân sự và mối đe dọa về vấn đề an ninh truyền thống vẫn tồn tại. Trước sức ép về ngoại giao và chính trị của Trung Quốc đối với Đài Loan nên Đảng Dân Tiến cũng phải “hạ thấp giọng” về vấn đề chủ quyền của Đài Loan, cộng thêm việc cả hai bờ cùng gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và quan hệ kinh tế ngày càng ấm lên, nên giữa hai bờ đã hình thành cục diện vừa có thách thức, vừa có cơ hội phát triển song song cùng tồn tại. 19
  20. TÀI LIỆU THAM KHẢO =====  ===== Long Vĩnh Khu, Quan hệ hợp tác kinh tế hai bờ, Nxb Quản lý kinh tế, 1998. Liêu Thiên Nhiệm, Điểm mặt các công ty ở Trung Quốc đại lục, “Tạp chí Thông thương nghiệp Trung Quốc” Đài Loan, 7/1996. Cao Hiểu Quyên, Đặc trưng đầu tư của thương nhân Đài Loan ở Trung Quốc đại lục, Tạp chí “Vấn đề mậu dịch quốc tế”, số 2 năm 2002. Ngô Hiến Bân, Xu thế phát triển của quan hệ thương mại hai bờ, “Tạp chí Châu Á đương đại”, Số 1/2003. Giang Trạch Dân, Vấn đề Đài Loan của Trung Quốc, NXB Cửu Châu, Bắc Kinh, 9/1998. Trầm Đan Dương, Hạ Quải Niên, Mở rộng quan hệ kinh tế với Đài Loan, thúc đẩy hai bờ thống nhất hòa bình, “Tạp chí Kinh tế châu Á Thái Bình Dương” (Phúc Châu), số 33~37-2/1999. Lý Lợi, Đặc điểm và xu thế của thương nhân Đài Loan đầu tư vào Trung Quốc trong thời gian gần đây, “Nghiên cứu kinh tế đối ngoại”, Bắc Kinh, Phòng nghiên cứu chính sách Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại, ngày 30/1/2003. Vương Kiến Dân, Lưu Ngọc Xuân, Xu thế mới trong quan hệ kinh tế hai bờ, “Hợp tác kinh tế quốc tế”, Bắc Kinh, số 10-2002. Hoàng Mai Ba, Quan hệ qua lại và triển vọng đầu tư của hai bờ eo biển, “Hợp tác kinh tế quốc tế”, Bắc Kinh, số 10-2002. Tạ Văn Vũ, Diệp Kiến Lượng, Tổng thuật hội thảo học thuật triển vọng quan hệ kinh tế hai bờ trong thế kỷ 21, “Động thái kinh tế học”, Bắc Kinh, số 45~48-6/2002. Ngô Năng Viễn, Quán triệt chủ trương 8 điểm, thúc đẩy quan hệ hai bờ, “Tạp chí Nghiên cứu Đài Loan hiện đại”, số 1-2003. Trần Hướng Thông, Lựa chọn cơ chế hợp tác kinh tế hai bờ và chế độ khung, “Nghiên cứu Đài Loan hiện đại”, Phúc Châu, số 1-2003. Châu Thính Xương chủ biên, Môi trường an ninh xung quanh Trung Quốc với chiến lược an ninh, Bắc Kinh, Nxb Thời sự, 1-2002. Châu Hiển Long, Quan sát quân sự Đài Loan, Phúc Châu, Nxb Nhân dân Phúc Kiến, 9-1999. Vương Tuấn Ngạn, Mật sử quan hệ Đài Loan Nhật Bản sau chiến tranh, Phúc Châu, Nxb Nhân dân Phúc Kiến, 7-2000 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2