intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn thạc sĩ " Đặc điểm địa danh Quảng Nam "

Chia sẻ: Bút Màu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:42

118
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nằm ở tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú (HA), Chùa Cầu (hay còn gọi là chùa Nhật Bản) là công trình kiến trúc do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVI. Chùa Cầu có dáng hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong vòng ở giữa, bắt qua con lạch thông ra sông Hoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ " Đặc điểm địa danh Quảng Nam "

  1. Luận văn thạc sĩ Đặc điểm địa danh Quảng Nam
  2. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt DẪN LUẬN................................................................................................................. .............. 1 1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................................. 3 2.1. Lịch sử nghiên cứu địa danh ở Việt Nam.............................................................. 3
  3. 2.2. Lịch sử nghiên cứu địa danh ở Quảng Nam.......................................................... 7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 9 3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................... 9 3.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................. 9 4. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................... 9 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................... 10 5.1. Phương pháp thống kê, phân loại, miêu tả.......................................................... 10 5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu........................................................................... 10 5.3. Phương pháp điền dã.............................................................................................. 10 5.4. Phương pháp khảo sát bản đồ............................................................................... 10
  4. 6. Bố cục của luận văn...................................................................................................... 11 Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NHỮNG NÉT SƠ LƯỢC VỀ QUẢNG NAM 12 1.1. Cơ sở lý thuyết............................................................................................................ 12 1.1.1. Khái niệm địa danh............................................................................................. 12 1.1.2. Đối tượng nghiên cứu và vị trí của địa danh học............................................ 15 1.1.3. Phân loại địa danh............................................................................................... 16 1.2. Những nét sơ lược về Quảng Nam............................................................................ 21 1.2.1. Vài nét về lịch sử và địa lý hành chính Quảng Nam...................................... 21 1.2.2. Tổng quan về Quảng Nam.................................................................................. 33
  5. 1.3. Tiểu kết....................................................................................................................... . 46 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH QUẢNG NAM........ 48 2.1. Địa danh Quảng Nam: kết quả thu thập và phân loại............................................ 48 2.1.1. Phân loại theo loại hình...................................................................................... 48 2.1.2. Phân loại theo nguồn gốc ngữ nguyên.............................................................. 49 2.1.3. Phân loại theo số lượng âm tiết......................................................................... 50 2.2. Các phương thức cấu thành địa danh Quảng Nam................................................. 51 2.2.1. Phương thức tự tạo............................................................................................... 53 2.2.2. Phương thức chuyển hoá.................................................................................... 63
  6. 2.3. Đặc điểm cấu tạo địa danh Quảng Nam.................................................................. 70 2.3.1. Cấu tạo đơn.......................................................................................................... 70 2.3.2. Cấu tạo phức........................................................................................................ 71 2.4. Vấn đề danh từ chung và thành tố chung trong địa danh Quảng Nam................ 74 2.4.1. Danh từ chung và tên riêng................................................................................ 74 2.4.2. Danh từ chung và thành tố chung..................................................................... 76 2.4.3. Một số danh từ chung và thành tố chung trong địa danh Quảng Nam......... 77 2.5. Tiểu kết....................................................................................................................... . 79 Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CHUYỂN BIẾN CỦA ĐỊA DANH QUẢNG NAM 81
  7. 3.1. Các nguyên nhân làm biến đổi địa danh................................................................. 81 3.1.1. Nguyên nhân xã hội............................................................................................ 81 3.1.2. Nguyên nhân ngôn ngữ....................................................................................... 87 3.2. Đặc điểm chuyển biến của các loại địa danh......................................................... 90 3.2.1. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ địa hình thiên nhiên...................... 90 3.2.2. Đặc điểm chuyển biến của địa danh hành chính............................................ 93 3.2.3. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ công trình xây dựng.................... 107 3.3. Tiểu kết...................................................................................................................... 111 Chương 4: ĐẶC ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC – Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC CỦA ĐỊA DANH QUẢNG NAM................................................................................................ 113
  8. 4.1. Đặc điểm về nguồn gốc – ý nghĩa.......................................................................... 113 4.1.1. Một số địa danh có nguồn gốc rõ ràng........................................................... 113 4.1.2. Một số địa danh có nguồn gốc còn tranh cãi................................................ 117 4.2. Giá trị phản ánh hiện thực....................................................................................... 119 4.2.1. Giá trị phản ánh về mặt lịch sử....................................................................... 119 4.2.2. Giá trị phản ánh về mặt địa lý tự nhiên.......................................................... 125 4.2.3. Giá trị phản ánh về mặt kinh tế....................................................................... 127 4.2.4. Giá trị phản ánh về mặt văn hoá..................................................................... 130 4.2.5. Giá trị phản ánh về mặt ngôn ngữ................................................................... 133
  9. 4.3. Tiểu kết...................................................................................................................... 136 KẾT LUẬN................................................................................................................. .......... 138 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 141 PHỤ LỤC.................................................................................................................... .......... 147 Chương 4 ĐẶC ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC – Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC CỦA ĐỊA DANH QUẢNG NAM 4.1. Đặc điểm về nguồn gốc – ý nghĩa 4.1.1. Một số địa danh có nguồn gốc rõ ràng 4.1.1.1. Chùa Cầu
  10. Nằm ở tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú (HA), Chùa Cầu (hay còn gọi là chùa Nhật Bản) là công trình kiến trúc do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVI. Chùa Cầu có dáng hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong vòng ở giữa, bắt qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu có mái che uốn cong mềm mại và được chạm trổ nhiều hoạ tiết tinh xảo. Năm 1717, chúa Nguyễn Phúc Chu trong một lần tuần du tỉnh Quảng Nam, đã đến thăm Hội An, nhân đó đã đổi tên chiếc cầu này thành tên chữ “Lai Viễn Kiều” (có nghĩa là cầu của khách phương xa đến). Ba chữ này được chạm nổi trên cửa chính của cầu. Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ – vị thần chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Ở hai đầu cầu có đặt hai nhóm tượng khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu. Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về con Cù – một loài thuỷ quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản. Mỗi lần Cù cựa quậy là gây lũ lụt, động đất ở những nơi này. Vì vậy, ngoài việc xây cầu để phục vụ giao thông, người xưa còn có hàm ý trấn yểm loài thuỷ quái, giữ cho cuộc sống yên bình. Chùa Cầu là một tài sản vô giá và đã được chọn làm biểu tượng của Hội An. 4.1.1.2. Bằng Than Dân gian quen gọi là “Bàn Than” và cả trên một số sách báo cũng thường viết là “Bàn Than”, với cách giải thích theo kiểu trực quan là hòn núi có đỉnh bằng phẳng như mặt “bàn” và màu đen như than. Thực ra, đúng tên là “Bằng Than”. Trong ngôn ngữ địa phương trước đây đã xảy ra hiện tượng từ “bằng”
  11. vốn là tính từ được dùng như danh từ, chẳng hạn như: Bằng Thùng là tên một ngọn núi ở phía tây huyện Quế Sơn giống như một cái thùng úp ngược; Bằng Võ là tên một khu đất ngày xưa nghĩa quân của Nguyễn Duy Hiệu hay tập võ nghệ; ở huyện Duy Xuyên có núi gọi là Hòn Bằng; ở miền tây Quảng Ngãi có địa danh Bằng Chò là đỉnh núi bằng phẳng có nhiều cây chò mọc. [54, tr.828] Bằng Than là một hòn núi thấp, nằm sát biển, thuộc xã Tam Hải (NT), dài khoảng 2km, cao 40m, trên đỉnh bằng phẳng, rộng khoảng 20ha, phủ đầy một loại cỏ thân cứng và những cây dại như chà là, sim, mua. Thời kháng chiến chống Mỹ, trực thăng của quân đội Mỹ nhiều lần đổ quân trên hòn Bằng Than trong các cuộc càn quét. Điều đáng chú ý là ở mặt phía đông và đông nam, vách đá cao dựng đứng màu đen như than. Từ ngoài biển nhìn vào, ta thấy có một số hang động do sự xâm thực của sóng biển lâu ngày và những bãi cát lô nhô nhiều hòn lớn nhỏ cùng những hố ẩn hiện trong những tia nước và bọt biển trắng xoá trên cái phông màu đen của đá kéo dài đến hút tầm mắt. Theo hình dáng tự nhiên và qua trí tưởng tượng phong phú của người dân địa phương, những vách đá, hố nước nơi đây được đặt tên như: hố Cột Tàu, khe Bà Che, hố Đùng, … Về thắng cảnh này, sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Nam viết: “Núi Phú Xuân có tên là núi Bàn Than, ở cách huyện Hà Đông 50 dặm về phía đông nam, nằm lề bên cửa biển Đại Áp ở phía bắc; mạch núi nguyên từ núi Chủ Sơn kéo về, chia ra quanh co qua các xã Hoà Vấn, Phú Hoà đến thôn Phú Xuân Hạ thì nổi vọt lên một ngọn núi, sắc đá đen như than, đứng xa thấy đỉnh núi bằng màu đen như cái mâm than, nên gọi tên như thế”.
  12. 4.1.1.3. Bồ Bồ Núi đất cao 55m so với mực nước biển, đỉnh tương đối bằng phẳng, rộng khoảng 1,5km2, làm ranh giới giữa hai xã Điện Tiến và Điện Thọ (ĐB). Về nguồn gốc địa danh Bồ Bồ được giải thích như sau: Nguyên đây là đỉnh núi cao nhất của cụm “núi đất” dài hơn 2km thuộc làng Đức Ký. Sau “Hiệp ước phòng thủ chung” ở Đông Dương giữa Pháp và Nhật được ký kết (23-7- 1941), quân Nhật được tự do đóng quân ở Đông Dương. Trên đất Điện Bàn, Nhật xây dựng căn cứ dã chiến để bảo vệ Đà Nẵng, thường được gọi là “trảng Nhật”. Cùng thời gian này, quân Nhật xây trên đỉnh cao của núi đất một trạm bằng gạch, mỗi bề 5x5m, cao 0,5m, ở giữa có cây trụ, bên trên đặt một vật hình tròn bằng gỗ bọc phên tre bên ngoài, ở xa trông giống cái bồ đựng thóc, sơn nửa đỏ nửa trắng để làm dấu hiệu dẫn đường cho máy bay Nhật. Người dân bằng cảm quan trực tiếp của mình, gọi đó là “bồ bồ”. Về sau, khi quân Nhật không dùng trạm này nữa, vật “giống cái bồ” bị mục nát, chỉ còn lại địa danh Bồ Bồ. Năm 1949, giặc Pháp đã đóng một đồn lớn trên núi Bồ Bồ, nhằm án ngữ mặt trận phía nam, bảo vệ Đà Nẵng. Ngày 19-7-1954, sau hai giờ chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt cứ điểm Bồ Bồ, diệt 100 tên, bắt sống 300 tên, trong đó có một đại tá. [54, tr.1645] Sau ngày toàn thắng, một tượng đài chiến thắng đã được xây dựng trên đỉnh Bồ Bồ. 4.1.1.4. Ông Đốc
  13. Địa danh này gắn liền với trận đánh “có một không hai” của nghĩa quân Quảng Nam trong thời kháng chiến chống Pháp. Câu chuyện như sau: Để trấn an tinh thần cho quan Khâm sai, đồng thời thị uy với nghĩa quân vùng Phú Kỳ (làng Gò Nổi – ĐB), quân Pháp đã cho bảy ca nô đầy lính tráng, súng ống, ngược sông Vĩnh Điện lên neo đậu tại Bãi Chài thuộc làng Vân Ly (ĐB). Từ trạm tiền tiêu của nghĩa quân ở Phong Thử do đội Côn và đội Thoá trấn giữ bảo vệ đại đồn Bình Yên, địa phận huyện Quế Sơn. Tán tương Nghĩa hội Trần Huy liền cho mời bang tá Nguyễn Đình Tán từ đồn Phong Thử lên khẩn bàn. Kế hoạch tập kích được vạch ra tỉ mỉ. Theo đó, nghĩa quân chia làm ba mặt trận tấn công vào Bãi Chài, một đội xung kích sẽ từ bến đò đánh ra. Tán tương đồn Bình Yên - Trần Huy - cho người lên thượng lưu sông Thu Bồn đóng bè bằng hom dâu thả trôi xuống Bãi Chài. Đây là loại bè có điều khiển bằng cách gióng các sợi mây hai bên, thả trôi ngầm dưới nước để kéo bè đi. Đến một cự li nhất định, gần mục tiêu, bè mới được bứt dây cho lao tới. Lúc phát hiện được bè, sẽ không còn cách nào tránh kịp. Trên bè, nghĩa quân đặt nhiều trái phá với liều thuốc nổ cực mạnh, nhằm công phá đội xuồng máy của giặc đang neo đậu tại Bãi Chài. Đúng giờ quy định, các chiếc bè theo con nước đổ xuôi rất mạnh được bứt dây, phóng vun vút vào đám ca nô. Bọn giặc Pháp thấy thế, ơi ới gọi nhau lấy bất cứ thứ gì có được nhằm đẩy bè ra xa. Nhưng đã quá chậm, các chiếc bè công kềnh cứ thế lao tới, đâm sầm vào đội xuồng máy của giặc. Một loạt tiếng nổ long trời lở đất làm cho các chiếc xuồng tung toé, ba trong bảy chiếc
  14. lật úp xuống sông. Tức thì ba mặt, trên nước và đất liền, nghĩa quân theo quân lệnh “hễ thấy tàu, thuyền có cắm cờ ba sắc cứ bắn xả vào” đã khai hoả vào mục tiêu và dùng câu liêm móc đầu bọn giặc nhào xuống nước, hoặc dùng giáo đâm giặc. Về phía nghĩa quân, đốc binh họ Bùi hy sinh. Để tưởng nhớ ông, nhân dân gọi nơi ông ngã xuống là bến đò Ông Đốc. Địa danh ghi lại một sự kiện lịch sử, thể hiện lòng biết ơn, tôn kính đối với vị anh hùng họ Bùi. Ngày nay, bến đò Ông Đốc ở thôn Vân Ly xã Điện Quang huyện Điện Bàn. 4.1.2. Một số địa danh có nguồn gốc còn tranh cãi 4.1.2.1. Faifo Hội An trong lịch sử có nhiều tên gọi khác nhau: Hải Phố, Hoài Phố, Hội Phố, Hoa Phố, Haiso, Faifo, … vốn là một thương cảng nằm bên bờ con sông lớn nhất tỉnh, đã có một thời kỳ phát triển phát đạt nhất khu vực Đông Nam Á. Nơi này thu hút thuyền buôn nhiều nước Đông Nam Á và nhiều nước phương Tây đến đây để trao đổi, mua bán hàng hoá. Về địa danh Faifo: từ Faifo lần đầu tiên xuất hiện trong hồi ký của nhà truyền giáo người Ý Christoforo Borri đã từng sống ở Hội An và Đàng Trong từ năm 1618 đến năm 1621. Cách giải thích nguồn gốc từ Faifo có nhiều thuyết khác nhau: 1- Faifo từ Hải Phố mà ra (theo Chapuis). 2- Faifo từ Hội An phố mà ra (theo Trần Kinh Hoà). 3- Faifo từ Hoa Phố mà ra (theo Châu Phi Cơ).
  15. 4- Faifo từ Hoài Phố mà ra (theo Phan Khoang). 5- Ngoài ra, có người cho rằng từ Faifo phát xuất từ cách hỏi tên đường của người phương Tây đến Hội An hồi đó “Có phải phố không?”, người địa phương trả lời “Phải phố.”, do không hiểu tiếng Việt nên “phải phố” được chuyển thành Faifo. Trong các cách giải thích trên, có lẽ Faifo từ Hoài Phố (phố chợ trên sông Hoài – tên gọi của sông Thu Bồn ngày nay) có sức thuyết phục hơn cả. Từ đầu thế kỷ XX, trong các văn bản chính quyền thực dân thường dùng từ Faifo thay cho từ Hội An. Còn trong ngôn ngữ sinh hoạt thường ngày, người dân hay dùng từ phố để chỉ Hội An. [54, tr.1661] 4.1.2.2. Chu Lai Vùng đất ở huyện Núi Thành. Nơi đây là khu kinh tế mở được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thành lập Ban chỉ đạo xây dựng theo Quyết định số 204/1999 ngày 18-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là khu kinh tế mở đầu tiên của Việt Nam, có diện tích rộng 150km2. Địa danh này có hai cách lí giải khác nhau: 1- Có người cho rằng địa danh này đã có từ thời nhà Nguyễn. 2- Vào năm 1965, khi quân Mỹ đổ bộ vào vùng này đã cho xây dựng ở đây một sân bay, tên sân bay được đặt theo tháng xây dựng “July” (tháng 7). Chu Lai do biến âm từ July mà ra. (Sân bay xây dựng trên vùng đất cát xã Tam
  16. Nghĩa (NT), nằm phía đông đường sắt và quốc lộ 1A, có đường băng bằng bê tông dài 3.050m, rộng 45m và một đường băng phụ dài 2.400m, rộng 30m.) Cách lí giải thứ hai có sức thuyết phục hơn, vì những nguyên nhân sau: 1- Nguyên văn câu vè “Châu Lai, Châu Ổ bao xa” thực ra là “Sa Cần, Châu Ổ bao xa”. 2- Nếu địa danh này ra đời dưới thời nhà Nguyễn thì sẽ được gọi tên là Châu Lai (giống như cách gọi Châu Ổ - Quảng Ngãi, Châu Thành, …), vì kiêng huý chúa Nguyễn Phúc Chu nên không bao giờ người dân gọi là Chu Lai. 3- Địa danh Chu Lai xuất hiện từ thời chống Mỹ (1965). Trong danh mục làng xã trước đây không hề có địa danh này. (cf. Lê Trung Hoa) [37, tr.103] 4.1.2.3. Thạnh Mỹ Vùng đất là nơi hai con sông Đắc My (từ Phước Sơn chảy về) và sông Thanh (từ biên giới Lào về) gặp nhau để cùng đổ vào sông Bung. Nhân dân nơi đây lấy từ Thanh ghép vào từ My thành tên gọi vùng đất: Thanh My (theo cách gọi của đồng bào Cơ Tu). Lại có ý kiến cho rằng: vùng đất Thạnh Mỹ hiện nay là vùng đất đá vôi (lớn nhất ở Quảng Nam), có nhiều hang động, nhiều tảng đá rất đẹp nên được gọi là Thạch Mỹ (từ gốc Hán Việt: vẻ đẹp của đá). Đây là cách gọi của người Kinh.
  17. Ngày nay, do bị biến âm nên gọi chệch đi thành Thạnh Mỹ (cf. Nguyễn Tri Hùng). Thạnh Mỹ hiện nay là thị trấn của huyện Nam Giang. 4.1.2.4. Tr’Hy Sau khi Gia Long (Nguyễn Ánh) lên ngôi, lập ra triều nhà Nguyễn, vị vua này tiến hành truy sát binh lính của triều Tây Sơn – Nguyễn Huệ. Một số người dân vùng Đại Lãnh (ĐL) phải lánh nạn lên núi, cư trú tại vùng của đồng bào dân tộc thiểu số. Tại nơi đây, họ được đồng bào Cơ Tu che chở, nuôi nấng và trở thành dân làng. Những người Kinh chạy nạn này thường kể cho đồng bào nghe việc làm tốt đẹp của quan quân nhà Tây Sơn là lấy đất người giàu chia cho dân nghèo và thường nói câu “Tây Sơn hy hữu” (ít có như Tây Sơn). Chính vì câu chuyện này mà người dân tại đây lấy luôn cụm từ “Tây Sơn hy hữu” để đặt tên cho làng mình. Vì cái tên quá dài nên được rút gọn lại là Tây Hy, về sau biến âm thành Tr’Hy. (cf. Nguyễn Tri Hùng) Hiện nay, Tr’Hy là một xã của huyện Tây Giang, nằm giáp với nước bạn Lào. 4.2. Giá trị phản ánh hiện thực Địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý nhất định. Địa danh chứa đựng những thông tin về chính trị, lịch sử, văn hoá, xã hội. Những thông tin đó cho ta biết được đặc điểm của vùng đất cư trú. Cũng giống như địa danh trên thế giới, địa danh Việt Nam, địa danh Quảng Nam cũng thế. Khi nghiên cứu những giá trị phản ánh hiện thực của địa danh, ta có thể tìm ra những ý nghĩa về nhiều mặt của đời sống xã hội được thể hiện thông qua
  18. địa danh. Không sai khi có người cho rằng địa danh giống như “vật hoá thạch”, hay người khác lại cho rằng đó là những “đài kỷ niệm”. Trải qua lịch sử hình thành gần 600 năm, địa danh Quảng Nam thể hiện rõ những giá trị hiện thực như vậy. 4.2.1. Giá trị phản ánh về mặt lịch sử Quảng Nam là vùng đất mang nhiều biến cố lịch sử. Có nhiều vùng đất, qua những biến thiên của lịch sử, đã trở thành phế tích, nằm sâu dưới lớp phù sa cũ và mới nhưng lịch sử hình thành và phát triển của nó vẫn tồn tại trong tên của chính nó. Bên cạnh những di tích lịch sử cụ thể, địa danh cũng góp phần ghi lại những thông tin quan trọng khi muốn tìm hiểu về lịch sử. 4.2.1.1. Phản ánh quá trình di trú Xứ Quảng vốn là địa bàn cư trú của người Chăm từ khoảng thế kỷ thứ II. Nơi đây đã hình thành nên vương quốc với những tên gọi khác nhau như Lâm Ấp, Chiêm Thành, … Quảng Nam là nơi đặt kinh đô Sinhapura (kinh thành Sư Tử), nay là vùng Trà Kiệu (DX) từ thế kỷ thứ IV đến giữa thế kỷ thứ VIII, và cũng là nơi đặt kinh đô Indrapura (kinh thành Sấm Sét) tại khu vực Đồng Dương (TB) từ khoảng giữa thế kỷ thứ IX đến cuối thế kỷ thứ X. Chính vì thế, ở Quảng Nam có không ít những làng Việt đan xen với làng Chăm hoặc làng Việt được hình thành ngay trên phế tích của làng Chăm. Đó là những làng có nhiều công trình như đền, chùa, miếu, … được xây dựng với những vật liệu đá cũ như ở Chiêm Sơn (DX), Trà Kiệu (DX), làng Thanh Chiêm (ĐB), Cù Lao Chàm (HA), Đồng Dương (TB), Hương Quế (QS), … Dấu ấn
  19. Chămpa còn lưu lại khá rõ ở các tên làng đã được Việt hoá như: Trà Quế (HA), Trà Nhiêu (DX), Trà Châu (DX), Trà Đoả (TB), Thi Lại (DX), … Những cư dân đầu tiên đến định cư, mở đất ở Trà Kiệu là 13 tráng binh quê gốc Thanh Hoá và Nghệ An trong đội quân bình Chiêm của vua Lê Thánh Tông được phân công ở lại để tổ chức khai hoang, lập làng. Chính 13 người này là 13 vị thuỷ tổ của làng Ngũ Xá Trà Kiệu (DX), về sau chia thành 5 làng: Trà Kiệu Thượng, Trà Kiệu Đông, Trà Kiệu Tây, Trà Kiệu Nam, Trà Kiệu Trung. Minh Hương (HA) là địa danh thể hiện rõ ràng nguồn gốc những cư dân đầu tiên của làng. Cư dân ở đây chủ yếu là người Hoa, họ chính là lưu dân nhà Minh (Trung Quốc), chạy sang cư trú ở Hội An để tránh sự truy bắt của quân Thanh. Được sự cho phép của chúa Nguyễn, họ đã định cư tại nơi đây và lấy tên Minh Hương làm tên làng. Quá trình cộng cư của người Việt, người Chăm và người Hoa trên đất Quảng Nam đã được thể hiện trong sách Ô Châu cận lục khi miêu tả đời sống của dân Điện Bàn (được hiểu là nửa tỉnh phía bắc Quảng Nam lúc bấy giờ) vào giữa thế kỷ XVI như sau: “Dân lấy thóc làm giàu, nhà nông dùng trâu đạp lúa; xe tiện chuyên chở đường bộ, ghe thuyền thuận lợi đường sông. Vườn Mạc Xuyên trồng lắm hoa hồng, người Lang Châu dệt nhiều lụa trắng… Phụ nữ mặc quần vải Chiêm, đàn ông tay cầm quạt Tàu…”. Một trường hợp khá đặc biệt của một tập thể lưu dân gồm 33 người quê huyện Nghi Lộc (tỉnh Nghệ An) vào Quảng Nam thế kỷ XVI, lập ra bốn làng ở phía nam chân núi Hòn Tàu. Để ghi nhớ quê gốc, họ đặt tên ba làng lấy từ
  20. đầu là “Nghi”, đó là các làng Nghi Thượng, Nghi Hạ, Nghi Trung và một làng lấy từ cuối là “Lộc”, làng Lộc Đại. Cả bốn địa danh này nay là bốn thôn của xã Quế Hiệp (QS). Ở huyện Quế Sơn còn có một trường hợp khác, đó là địa danh Đức Giáo. Đức Giáo nguyên là tên của một làng ở Phú Xuân (Thuận Hoá) nơi có nhiều người chuyên nghề hát tuồng. Vào tháng 4 năm Ất Sửu (1805), khi vua Gia Long bắt đầu xây dựng kinh thành Phú Xuân thì Đức Giáo nằm trong diện giải toả. Thế là phần lớn dân Đức Giáo vào Quảng Nam, đến định cư tại làng Khánh Đức (nay là một thôn thuộc xã Quế Hiệp – QS). Tuy ở địa phận Khánh Đức nhưng nhóm dân di cư này vẫn lập một làng riêng và giữ tên làng cũ là Đức Giáo. Làng này đặc biệt ở chỗ “hữu đinh vô điền”, tức là có dân mà không có ruộng đất. Dân Đức Giáo vẫn tiếp tục giữ nguyên nghề cũ của mình là hát tuồng, do đó mới có câu phổ biến trong vùng là “Đức Giáo vô địa lập chuỳ, dĩ xướng ca vi nghệ” (Đức Giáo không có đất cắm dùi, chỉ lấy việc xướng ca làm nghề vui sống) [54, tr.1093]. Đức Giáo là một trong những cái nôi đã khai sinh ra nghệ thuật hát bội đặc sắc của Quảng Nam. Qua tìm hiểu của chúng tôi, một số địa danh có nguồn gốc dân tộc thiểu số ở Quảng Nam cũng phản ánh quá trình cư trú của dân tộc họ. Khi những người Ve chuyển từ nước Lào về huyện Nam Giang, họ vẫn tiếp tục lấy tên làng cũ để đặt tên cho làng họ đến cư trú, như: làng Đắc Pring (NG), làng Đắc Pre (NG). Hay trường hợp đồng bào Cơ Tu dù đã chuyển đến sinh sống tại huyện Tây Giang nhưng vẫn lấy tên ngọn núi ở quê cũ (nước Lào) để đặt tên cho xã mới, đó là xã Bhalêê (TG).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2