intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương "Dung dịch - Sự điện li" lớp 10 chuyên Hóa học

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

77
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương "Dung dịch - Sự điện li" lớp 10 chuyên Hóa học tập trung tìm hiểu phương pháp thiết kế sách giáo khoa điện tử chương "Dung dịch - Sự điện li" lớp 10 chuyên Hóa học giúp HS tự học, tự nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương "Dung dịch - Sự điện li" lớp 10 chuyên Hóa học

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM ------------------------- Trần Tuyết Nhung Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học hóa học Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN THỊ TỬU Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết TW2 (khoá VIII) nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS, nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên.” [22] Điều 24.2. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của HS; phù hợp với đặc diểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.” [36] Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của HS, sinh viên trong quá trình học tập,...” [51] Tăng cường năng lực tự học cho HS là một yếu tố quan trọng góp phần đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường THPT. Xuất phát từ đặc điểm của HS nói chung và HS chuyên hóa nói riêng, ngoài việc học tập trên lớp các em thường phải dành nhiều thời gian để tự học và tự đọc. Việc thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn cho HS là một biện pháp giúp HS có thể dễ dàng trong việc tự học, tự đọc, tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của mình. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy hiện nay rất được Đảng và Nhà nước ta quan tâm vì nó góp phần tích cực thúc đẩy quá trình đổi mới PPDH. Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA ĐIỆN TỬ (E - BOOK) CHƯƠNG “DUNG DỊCH - SỰ ĐIỆN LI” LỚP 10 CHUYÊN HÓA HỌC nhằm hỗ trợ hoạt động tự học môn hóa học của HS và góp phần vào việc đổi mới PPDH hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “dung dịch – sự điện li” lớp 10 chuyên hóa giúp HS tự học, tự nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: Việc thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “dung dịch – sự điện li” lớp 10 chuyên hóa.
  3.  Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn hóa học ở các trường THPT chuyên ở Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài. - Tìm hiểu thực trạng sử dụng CNTT trong dạy học hóa học ở trường phổ thông. - Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “Dung dịch - Sự điện li”. - Thực nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả nghiên cứu. 5. Phạm vi nghiên cứu Chương “Dung dịch - Sự điện li” trong chương trình chuyên hóa học lớp 10 THPT. 6. Giả thuyết khoa học Nếu thiết kế được e – book chương “Dung dịch – sự điện li” một cách khoa học sẽ tăng cường năng lực tự học, tự nghiên cứu cho HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, đồng thời giúp GV tiết kiệm thời gian, sức lao động trong việc soạn bài. 7. Phương pháp nghiên cứu - Đọc và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài. - Phân tích và tổng hợp. - Sử dụng các phần mềm tin học để thiết kế e – book. - Điều tra thực tiễn. - Thực nghiệm sư phạm. - Dùng thống kê toán học để xử lí kết quả. 8. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu - Sử dụng công nghệ thông tin để thiết kế chương “Dung dịch – sự điện li” dưới dạng e-book. - Giúp HS có sách giáo khoa điện tử để tự học, tự nghiên cứu ở nhà. - Giúp GV có một nguồn tư liệu phong phú để giảng dạy chương “Dung dịch – sự điện li”.
  4. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Đổi mới phương pháp dạy và học 1.1.1. Phương pháp dạy học Theo TS Trịnh Văn Biều [4]: - PPDH là một trong những thành tố quan trọng nhất của quá trình dạy học. Cùng một nội dung nhưng HS có hứng thú, tích cực hay không, có hiểu bài một cách sâu sắc không, phần lớn phụ thuộc vào PPDH của người thầy. PPDH có tầm quan trọng đặc biệt nên nó luôn luôn được các nhà giáo dục quan tâm. - PPDH là cách thức thực hiện phối hợp, thống nhất giữa người dạy và người học, nhằm thực hiện tối ưu các nhiệm vụ dạy học. Đó là sự kết hợp hữu cơ và thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học. - PPDH theo nghĩa rộng bao gồm: + Phương tiện dạy học. + Hình thức tổ chức dạy học. + PPDH theo nghĩa hẹp. 1.1.2. Những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học Theo TS. Lê Trọng Tín [52], một số xu hướng đổi mới PPDH nói chung và PPDH hóa học nói riêng ở nước ta là: 1. Tăng cường tính tích cực, tính tìm tòi sáng tạo ở người học, tiềm năng trí tuệ nói riêng và nhân cách nói chung thích ứng năng động với thực tiễn luôn đổi mới. 2. Tăng cường năng lực vận dụng trí thức đã học vào cuộc sống, sản xuất luôn biến đổi. 3. Chuyển dần trọng tâm của PPDH từ tính chất thông báo, tái hiện đại trà chung cho cả lớp sang tính chất phân hóa – cá thể hóa cao độ, tiến lên theo nhịp độ cá nhân. 4. Liên kết nhiều PPDH riêng lẻ thành tổ hợp PPDH phức hợp. 5. Liên kết PPDH với phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại (phương tiện nghe nhìn, máy vi tính…) tạo ra các tổ hợp PPDH có dùng kỹ thuật. 6. Chuyển hóa phương pháp khoa học thành PPDH đặc thù của môn học. 7. Đa dạng hóa các PPDH phù hợp với các cấp học, bậc học, các loại hình trường và các môn học. Việc đổi mới PPDH hóa học cũng theo 7 hướng đổi mới của PPDH nói chung như đã nêu ở trên, nhưng trước mắt tập trung vào 2 hướng sau:
  5. - PPDH hóa học phải đặt người học vào đúng vị trí chủ thể của hoạt động nhận thức, làm cho họ hoạt động trong giờ học, rèn luyện cho họ học tập giải quyết các vấn đề của khoa học từ dễ đến khó, có như vậy họ mới có điều kiện tốt để tiếp thu và vận dụng kiến thức một cách chủ động sáng tạo. - Phương pháp nhận thức khoa học hóa học là thực nghiệm, nên PPDH hóa học phải tăng cường thí nghiệm thực hành và sử dụng thật tốt các thiết bị dạy học giúp mô hình hóa, giải thích, chứng minh các quá trình hóa học. 1.1.3. Đổi mới phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin 1.1.3.1. Xu thế giáo dục trong tương lai Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng: cách mạng khoa học – kỹ thuật (CMKH-KT) và cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng này đang phát triển như vũ bão với nhịp độ nhanh chưa từng có trong lịch sử loài người, thúc đẩy nhiều lĩnh vực, có bước tiến mạnh mẽ và đang mở ra nhiều triển vọng lớn lao khi loài người bước vào thế kỷ XXI. Công nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communication Technology – ICT) là một thành tựu lớn của cuộc CMKH-KT hiện nay. Nó thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, giáo dục, đào tạo và các hoạt động chính trị, xã hội khác. Trong giáo dục - đào tạo, ICT được sử dụng vào tất cả các môn học tự nhiên, kỹ thuật, xã hội và nhân văn. Hiệu quả rõ rệt là chất lựơng giáo dục tăng lên cả về mặt lý thuyết và thực hành. Vì thế, nó là chủ đề lớn được tổ chức văn hóa giáo dục thế giới UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình hành động trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI và dự đoán “sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của CNTT ”. Như vậy, ICT đã ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong đổi mới PPDH, đang tạo ra những thay đổi của một cuộc cách mạng giáo dục, vì nhờ có cuộc cách mạng này mà giáo dục đã có thể thực hiện được các tiêu chí mới: Học mọi nơi (any where). Học mọi lúc (any time). Học suốt đời (life long). Dạy cho mọi người (any one) và mọi trình độ tiếp thu khác nhau. Thay đổi vai trò của người dạy, người học, đổi mới cách dạy và cách học. Ở nước ta, vấn đề ứng dụng ICT trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã thể hiện rõ điều này, như: Nghị quyết CP của Chính phủ về chương trình quốc gia đưa công nghệ thông tin (CNTT) vào giáo dục đào tạo (1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Luật giáo dục (1998) và Luật giáo dục sửa đổi (2005), Nghị quyết 81 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010,…
  6. Trong Nghị quyết TW II, khoá VIII Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải “đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS,…”[22] Nghị quyết đã được cụ thể hóa bằng Chỉ thị 58-CT/TW (17/10/2000) của Bộ Chính trị, trong đó có nêu rõ là cần phải: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ nhu cầu học của toàn xã hội”. Chỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 2005 nêu rõ “CNTT là phương tiện để tiến tới một xã hội hóa học tập”, nhưng “giáo dục và đào tạo phải đóng vai trò quan trọng bậc nhất thúc đẩy sự phát triển của CNTT ”. Trong “Chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo đến năm 2010” của Bộ Giáo dục – Đào tạo đã yêu cầu ngành giáo dục phải từng bước phát triển giáo dục dựa trên CNTT, vì “CNTT và đa phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong quản lý hệ thống giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học”. Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có Chỉ thị 55/2008/CT- BGDĐT về “Tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 - 2012” (30/09/2008) [10]. Như vậy, ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục là một xu thế mới của nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai lâu dài. Trong báo cáo về “Đổi mới giáo dục bằng CNTT và truyền thông” (29/08/2004) [39] và “Công nghệ thông tin trong giáo dục” (2/11/2005) [40], tác giả Quách Tuấn Ngọc đã đưa ra xu thế giáo dục trong tương lai như sau: Bảng 1.1. Xu thế giáo dục trong tương lai ĐIỂM YẾU HỆ THỐNG CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẶC ĐIỂM GIÁO DỤC HIỆN TẠI TRONG TƯƠNG LAI - Mở, mềm dẻo. - Đóng kín, cứng nhắc. - Học ở mọi nơi, mọi lúc, học - Thay đổi tâm lí. mọi thứ, ai học cũng được.
  7. - Nối mạng giáo dục/móc - Cấu trúc hoá lại cả về hệ xích các trường với nhau. thống giáo dục lẫn nội dung. - Phân mảnh rời rạc các - Sự hội tụ, giao thoa của - GV trở thành người trường và các ngành. các ngành với nhau và với hướng dẫn hơn là người CNTT và TT. dạy dỗ. - Học trong một khoảng đời. - Học suốt đời. - Tiêu chuẩn chất lượng mới. - Tập trung vào chất lượng - Quốc tế hoá và hợp tác - Tập trung vào chuyện thi cử. con người, nâng cao dân trí. quốc tế. 1.1.3.2. Vai trò của CNTT trong dạy học Hóa học Đối với môn hóa học, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy sẽ tạo ra một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, PPDH. Cụ thể là: - CNTT là một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc xây dựng các kiến thức mới. - CNTT tạo môi trường để khám phá kiến thức nhằm hỗ trợ cho quá trình học tập. - CNTT tạo môi trường để hỗ trợ học tập qua thực hành, qua cộng đồng và qua phản ánh. - CNTT giúp cho việc đánh giá định tính và định lượng hóa học chính xác hơn. 1.1.3.3. Những yêu cầu về kĩ năng CNTT của GV Để sử dụng tốt CNTT trong dạy học, người GV cần có một số kĩ năng sau: - Tìm kiếm thông tin trên internet: Kĩ năng tra cứu, xử lý thông tin là một trong những kĩ năng quan trọng nhất hiện nay. Với internet, người GV có thể thực hiện các công việc như truy cập tìm kiếm thông tin, lưu giữ thông tin, xử lí thông tin. Nhờ có mạng máy tính và đặc biệt là nhờ có internet, GV có thể tham khảo các kiến thức trên internet bất cứ lúc nào. Internet mở ra một triển vọng to lớn trên con đường tự nâng cao kiến thức, tạo cho GV cơ hội to lớn trong việc tự học, tự phát triển năng lực nghề nghiệp. - Kĩ năng giao tiếp, hợp tác thông qua internet: Trong xã hội hiện đại không có cá nhân nào tự mình làm hết mọi việc, mỗi sản phẩm đều được tạo ra bởi rất nhiều người. Hoạt động nghề nghiệp của người GV cũng vậy, nó đòi hỏi sự trao đổi hợp tác với các đối tượng khác nhau nhằm nâng cao chất lượng giáo dục HS. Người GV cần có kĩ năng làm việc theo nhóm nhờ internet, hoạt động này khác với hoạt động truyền thống: lẽ ra mọi người trong nhóm phải cùng làm việc với nhau ở một địa điểm, trong một thời gian xác định, nhưng với internet, mọi thành viên có thể trực tiếp bàn bạc nhưng vẫn có thể ở cách nhau hàng ngàn kilômét. GV có thể trao đổi với nhau về kiến thức chuyên môn, về kinh nghiệm dạy học. Như vậy, việc hợp tác trong chuyên môn không chỉ giới hạn trong khuôn khổ tổ chuyên môn trong trường mà nó được mở rộng trong phạm vi lớn hơn, cho phép các GV từ nhiều vùng trong cả nước có thể tham gia thảo luận cùng một chủ đề chuyên môn. - Kĩ năng diễn đạt ý tưởng bằng công cụ CNTT: Năng lực trình bày, diễn đạt ý tưởng là hết sức quan trọng. Trong thời kì hiện đại, không những chỉ diễn đạt bằng lời, mà còn phải trình bày, diễn đạt ý tưởng bằng công cụ CNTT như soạn thảo văn bản, đồ thị, âm thanh,…. (thể hiện nội dung, bố trí
  8. thông tin, phối hợp các kênh thông tin trong một tài liệu văn bản…); vì thế GV cần có các kĩ năng tốt để trình diễn một tài liệu điện tử - một tài liệu tích hợp các thành phần khác nhau: văn bản, đồ hoạ, âm thanh, video... - Các kĩ năng tạo ra các sản phẩm thích hợp dạng multimedia bao gồm nhiều dạng tài liệu như văn bản, video, hình ảnh, âm thanh cũng hết sức cần thiết. Các tài liệu văn bản và các sản phẩm khác như đồ thị, hình ảnh, đoạn phim, âm thanh thường được tích hợp trong một tài liệu … các sản phẩm này thường là kết quả nghiên cứu trong quá trình dạy học hoặc trong các sinh hoạt nhóm chuyên môn. Như vậy, ngoài khả năng tạo ra văn bản, GV cần biết cách thu thập các dữ liệu cần thiết như các đoạn phim video, các đoạn âm thanh, hình ảnh và tích hợp nó trong một sản phẩm trình diễn. - Kĩ năng sử dụng các PMDH trong chuyên môn: PMDH tạo ra môi trường học tập mới cho HS, giúp HS khám phá, giải quyết vấn đề, sáng tạo. Có nhiều PMDH khác nhau được bán trên thị trường, người GV cần biết được PMDH nào là tốt, cần thiết cho môn học của mình. Với từng PMDH, cần biết lựa chọn tình huống sử dụng phần mềm để dạy học có hiệu quả. Mặt khác GV cần biết cách thức tổ chức hoạt động học tập cho HS trong môi trường CNTT. Cần hình dung nếu sử dụng các PMDH, việc dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học kiến tạo, dạy học theo dự án sẽ như thế nào. Các hình thức tổ chức dạy học khi sử dụng từng PMDH cụ thể như dạy đồng loạt, dạy học theo nhóm, tổ chức hoạt động cá nhân sẽ có những nét khác biệt riêng, cần tới sự am hiểu của GV. GV từng môn học cũng cần có kĩ năng sử dụng CNTT trong các tình huống sư phạm điển hình của môn học. Với môn hóa học, cần lưu ý đến tình huống sử dụng các phần mềm mô phỏng, sử dụng các thí nghiệm ảo trong dạy học...GV cũng cần quan tâm tới khả năng kết hợp tối ưu các thiết bị dạy học truyền thống với CNTT trong dạy học, sử dụng CNTT để đánh giá kết quả học tập của HS. - Biết sử dụng các công cụ trợ giúp để tạo ra các sản phẩm PMDH cá nhân Các PMDH dù có chất lượng cao đến đâu cũng không thể thích ứng hết với mọi trường hợp riêng lẻ của quá trình dạy học. Trong môi trường dạy học đa dạng, với các đối tượng HS rất khác nhau, GV có thể tự tạo ra các PMDH của riêng mình. Hiện nay, có nhiều phần mềm công cụ dành riêng cho GV nhằm hỗ trợ tạo ra các PMDH cá nhân (phần mềm Violet chẳng hạn). GV cần có kĩ năng sử dụng một phần mềm công cụ nào đó và có khả năng tạo ra các PMDH cá nhân phục vụ việc dạy học một số chương, bài thuộc bộ môn mình phụ trách. - Tăng cường nâng cao trình độ bằng các khóa học từ xa: Trong điều kiện xã hội phát triển, yêu cầu về kiến thức, tay nghề đối với GV ngày càng tăng. GV cần tham gia các khoá học nâng cao trình độ thường xuyên. Tuy vậy, do điều kiện công tác của mình, GV không thể tham gia các khóa bồi dưỡng tập trung dài hạn. Hiện nay, đã có nhiều cổng đào tạo trong nước, có các khóa học được đưa lên Internet, GV có thể theo học các khóa học trên. - Cuối cùng, GV cần am hiểu các quy định về đạo đức, luật pháp … trong quá trình ứng dụng CNTT nói chung như sở hữu trí tuệ, luật bản quyền....
  9. Những yêu cầu đặt ra về CNTT với người GV là nhiều, bước đầu nên đặt ra các yêu cầu tối thiểu, sau đó từng bước bổ sung, nâng cao yêu cầu. Cần có các lớp tập huấn cho GV nhằm giải quyết dứt điểm một số kiến thức và kĩ năng nhất định. 1.1.3.4. Hướng dẫn HS ứng dụng CNTT phục vụ học tập Phương pháp tự học, tự nghiên cứu, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp làm việc theo nhóm được xem là những phương pháp học mới so với phương pháp học thuộc lòng truyền thống trước đây. Những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đã tác động rất lớn đến khả năng ứng dụng CNTT của HS. Nhiều HS tiếp cận rất nhanh, sử dụng thành thạo các phần mềm vi tính. Đặc điểm nổi bật ở các em HS hiện nay là tính năng động, sáng tạo và yêu thích cái mới. Do vậy việc hướng dẫn HS ứng dụng CNTT phục vụ cho phương pháp học tập là điều nên làm và cũng là xu hướng chung trong giáo dục thời đại hiện nay. - GV có thể cung cấp cho HS địa chỉ một số trang web và yêu cầu các em tìm kiếm thông tin ở mạng internet để phục vụ công việc học tập theo từng chủ đề nhất định. - GV có thể vận dụng PPDH theo dự án của chương trình Dạy học cho Tương lai của Intel (Intel Teach to the Future). Phương pháp này đòi hỏi HS vừa làm việc theo nhóm vừa ứng dụng CNTT trong quá trình học tập để thiết kế ba bài tập: bài trình diễn PowerPoint, trang web và ấn phẩm (tờ rơi) để thực hiện ý tưởng dự án của mình. Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp này đòi hỏi GV phải được tập huấn các nội dung của chương trình “Dạy học cho Tương lai của Intel” và hướng dẫn cho HS ứng dụng CNTT để thực hiện các yêu cầu của chương trình phục vụ cho quá trình học tập ... 1.2. Tự học 1.2.1. Tự học là gì? Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa 2001 [25], tự học là: “quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành”. Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng: “Tự học là một bộ phận của học, nó cũng được hình thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với nồng độ học tập nhất định”. Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio, truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triễn lãm, xem phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư viện… Đối với HS, tự học còn thể hiện bằng cách tự làm các bài tập chuyên môn, các câu lạc bộ, các nhóm thực nghiệm và các hoạt động
  10. ngoại khóa khác. Tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao. 1.2.2. Các hình thức của tự học Theo TS. Trịnh Văn Biều [6], có 3 hình thức tự học: - Tự học không có hướng dẫn: Người học tự tìm lấy tài liệu để đọc, hiểu, vận dụng các kiến thức trong đó. Cách học này sẽ đem lại rất nhiều khó khăn cho người học, mất nhiều thời gian và đòi hỏi khả năng tự học rất cao. - Tự học có hướng dẫn: Có GV ở xa hướng dẫn người học bằng tài liệu hoặc bằng các phương tiện thông tin khác. - Tự học có hướng dẫn trực tiếp: Có tài liệu và giáp mặt với GV một số tiết trong ngày, trong tuần, được thầy hướng dẫn giảng giải sau đó về nhà tự học. 1.2.3. Chu trình dạy – tự học Theo tác giả Nguyễn Kỳ: “Quá trình dạy – tự học là một hệ thống toàn vẹn gồm 3 thành tố cơ bản: thầy (dạy), trò (tự học), tri thức. Ba thành tố cơ bản đó luôn luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, qui định lẫn nhau theo những quy luật riêng nhằm kết hợp chặt chẽ quá trình dạy của thầy với quá trình tự học của trò làm cho dạy học cộng hưởng với tự học tạo ra chất lượng, hiệu quả giáo dục cao.” [33] 1.2.3.1. Chu trình tự học của trò Chu trình tự học của trò là một chu trình ba thời: - Tự nghiên cứu - Tự thể hiện - Tự kiểm tra, tự điều chỉnh + Thời (1): Tự nghiên cứu Người học tự tìm hiểu vấn đề, thu thập, xử lí thông tin, xác định vấn đề, đưa ra giả thuyết để giải quyết vấn đề, xác định giải pháp, cách giải quyết vấn đề thích hợp nhất, thử nghiệm giải pháp đó, tự tìm ra kiến thức mới, cách giải quyết vấn đề mới (chỉ mới đối với người học) và tạo ra sản phẩm thô, có tính chất cá nhân. + Thời (2): Tự thể hiện Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, lời nói, tự sắm vai trong các tình huống học, tự trình bày bảo vệ sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự hợp tác, trao đổi, đối thoại qua các tình huống giao tiếp với các bạn và thầy, tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội. + Thời (3): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác, trao đổi, giao tiếp với các bạn và thầy, sau khi thầy kết luận, người học căn cứ vào kết luận của thầy và ý kiến của các bạn, tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành sản phẩm khoa học (tri thức), tự rút kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề.
  11. 1.2.3.2. Chu trình dạy của thầy Chu trình dạy của thầy nhằm tác động hợp lí, phù hợp và cộng hưởng với chu trình tự học của trò, cũng là chu trình ba thời tương ứng với chu trình tự học ba thời của trò. - Hướng dẫn - Tổ chức - Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra. + Thời (1): Hướng dẫn Thầy hướng dẫn cho người học về các tình huống học, các vấn đề cần phải giải quyết, các nhiệm vụ phải thực hiện trong cộng đồng người học. + Thời (2): Tổ chức Thầy tổ chức cho trò tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn: tổ chức các cuộc tranh luận hội thảo, sinh hoạt nhóm, các hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường nhằm tăng cường mối quan hệ giao tiếp trò – trò, trò – thầy và sự hợp tác cùng nhau tìm ra kiến thức, chân lí. + Thời (3): Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra Thầy là trọng tài, cố vấn kết luận về các cuộc tranh luận, hội thảo, đối thoại…để khẳng định về mặt khoa học kiến thức do người học tự mình làm ra. Cuối cùng, thầy là người kiểm tra đánh giá kết quả tự học của trò, trên cơ sở trò tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh. 1.2.4. Dạy – tự học hóa học Việc dạy – tự học hóa học phải tuân theo đúng các đặc trưng của hệ dạy học. Nó có một số đặc trưng là: - Việc học được cá thể hóa cao độ, tức là tự học – cá thể hóa: tôn trọng nhịp độ cá nhân phù hợp với năng lực từng người. - Việc dạy được khách quan tối đa. Nghĩa là: quan hệ giao tiếp giữa dạy và học, những mệnh lệnh điều khiển của dạy đều được chuyển thành ngôn ngữ viết và được đưa ngay vào tài liệu giáo khoa tự học của HS để họ chấp hành. - Diễn giảng không còn giữ vai trò là nguồn thông tin xuất phát nữa, mà trở thành nguồn gây động cơ nhận thức khoa học: giải đáp thắc mắc, tổng kết, kích thích tư duy mới, tạo nhu cầu chiếm lĩnh kiến thức. - Tài liệu giáo khoa (giáo trình) được chia thành các học phần. HS phải chiếm được đơn vị trước mới được đi vào đơn vị tiếp theo. Như vậy điều cốt yếu của dạy – tự học môn hóa học là vấn đề thiết kế, viết tài liệu tự học cho người học.
  12. Nếu cứ với các bộ sách giáo khoa như hiện nay và căn cứ vào phương pháp thuyết trình giải thích…thì không thể dạy – tự học được. Tài liệu phải được thiết kế sao cho tiềm ẩn trong đó “một thầy giáo giỏi đang dẫn dắt HS tự tìm ra chân lý”. 1.2.5. Vai trò của tự học - Tự học có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của mỗi người. - Tự học là con đường tự khẳng định của mỗi người. Tự học giúp cho con người giải quyết mâu thuẫn giữa khát vọng cao đẹp về học vấn với hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống cá nhân. - Tự học khắc phục nghịch lý: học vấn thì vô hạn mà tuổi học đường thì có hạn. Đối với HS THPT, thời gian 3 năm đào tạo ở trường chắc chắn sẽ không thể nắm chắc được hết khối lượng kiến thức khổng lồ của chương trình. Do đó, tự học là một giải pháp tối ưu để giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quĩ thời gian ít ỏi ở nhà trường. - Tự học là con đường tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người. Quá trình tự học khác hẳn với quá trình học tập thụ động, nhồi nhét, áp đặt. Quá trình tự học diễn ra theo đúng qui luật của hoạt động nhận thức. Kiến thức có được do tự học là kết quả của sự hứng thú, tìm tòi, lựa chọn nên bao giờ cũng vững chắc bền lâu. - Người học phải biết cách tự học vì học tập là một quá trình suốt đời. Đối với HS THPT, nếu không có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên cứu thì khi lên đến những bậc cao hơn HS sẽ khó thích ứng với cách học mới đòi hỏi phải tự học, tự nghiên cứu nhiều hơn. - Tự học của HS THPT còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. Đổi mới dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức. Vì vậy, tự học là con đường phát triển phù hợp với qui luật tiến hóa của nhân loại và là biện pháp sư phạm đúng đắn cần được phát huy ở các trường phổ thông. 1.2.6. Tự học qua mạng và lợi ích của nó 1.2.6.1. Tự học qua mạng Tự học qua mạng là một hình thức của tự học trong đó thay vì dùng lời nói trực tiếp để giao lưu với nhau, mà dùng các phương tiện khác đó là máy tính có kết nối mạng internet. Người học chủ động tìm kiếm tri thức để thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của mình, tự củng cố, tự phân tích, tự đào sâu, tự đánh giá, tự rút kinh nghiệm…với sự hỗ trợ của máy tính, các công nghệ tin học và mạng internet. 1.2.6.2. Lợi ích của tự học qua mạng - Tính linh hoạt: người học có thể tự lựa chọn kiến thức tùy theo nhu cầu của bản thân. - Tự học qua mạng có thể làm biến đổi cách học cũng như vai trò của người học. Người học đóng vai trò trung tâm và chủ động của quá trình đào tạo, có thể học mọi lúc, mọi nơi, miễn rằng nơi đó có phương tiện trợ giúp việc học.
  13. - Tự học qua mạng, người học có thể học theo thời gian biểu cá nhân, với nhịp độ tuỳ theo khả năng và có thể chọn các nội dung học, do đó nó sẽ mở rộng đối tượng đào tạo rất nhiều. Tuy không thể hoàn toàn thay thế được phương thức đào tạo truyền thống, tự học qua mạng cho phép quyết định một vấn đề nan giải trong lĩnh vực giáo dục thế giới: đó là nhu cầu đào tạo của người lao động tăng lên quá tải so với khả năng của các cơ sở đào tạo. - Giải quyết vấn đề thiếu hụt GV cho các vùng sâu, vùng xa có nhu cầu nhân lực. - Tự học qua mạng cho phép người học làm chủ hoàn toàn quá trình học của bản thân, từ thời gian, lượng kiến thức cần học, đặc biệt là cho phép tra cứu trực tuyến những kiến thức có liên quan đến bài học một cách tức thời, duyệt lại những phần đã học một cách nhanh chóng, tự do trao đổi kinh nghiệm và kiến thức giữa các người học hoặc với GV ngay trong quá trình học, những điều mà theo cách học truyền thống là không thể làm được hoặc đòi hỏi chi phí quá cao. - Các chương trình đào tạo từ xa trên thế giới hiện nay đã đạt đến trình độ phong phú về giao diện, sử dụng rất nhiều hiệu ứng đa phương tiện như âm thanh, hình ảnh, hình ảnh động ba chiều, kỹ xảo hoạt hình,… có độ tương tác cao giữa người sử dụng và chương trình, đàm thoại trực tiếp qua mạng. Điều này đem đến cho người học sự thú vị, say mê trong quá trình tiếp thu kiến thức cũng như hiệu quả trong học tập. - Tài liệu, giáo trình được chuẩn bị kỹ và chịu sự kiểm tra, đánh giá của nhiều người (do công khai trên mạng) nên là những tài liệu có chất lượng. - Tự học qua mạng giúp người học tiếp cận với nền tri thức cao trên thế giới, tạo điều kiện cho việc chuyển giao tri thức được thực hiện nhanh chóng. Tóm lại, có thể nói tự học chính là con đường để mỗi chúng ta tự khẳng định khả năng của mình. Nó có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của mỗi người. Tuy tự học có một vai trò hết sức quan trọng nhưng tự học của HS cũng không thể đạt được kết quả cao nhất nếu không có sự hướng dẫn, chỉ dạy của người thầy. Chính vì vậy, “trong nhà trường điều chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn độn… mà là giáo dục cho học trò phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề” (Thủ tướng Phạm Văn Đồng - 1969). GV cần giúp cho HS tìm ra phương pháp tự học thích hợp và cung cấp cho HS những phương tiện tự học có hiệu quả. Dạy cho HS biết cách tự học qua mạng chính là một trong những cách giúp HS tìm ra chiếc chìa khóa vàng để mở kho tàng kiến thức vô tận của nhân loại. 1.3. Sách giáo khoa điện tử (e-book) 1.3.1. Khái niệm e-book Theo trang web www.thuvien-ebook.com [83] “E-book là từ viết tắt của electronic book (sách điện tử). Hiểu theo cách đơn giản nhất, sách điện tử (e-books hay digital books) là phiên bản dạng số (hay điện tử) của sách. Nội dung của sách số có thể lấy từ sách giấy hoặc mang tính độc lập tùy thuộc vào
  14. người xuất bản. Một số người thường sử dụng thuật ngữ này để chỉ luôn cả thiết bị dùng để đọc sách dạng số (còn gọi là book – reading appliances hay e-book readers)”. Trong luận văn này, có thể hiểu sách giáo khoa điện tử thực chất giống như một cuốn sách giáo khoa bình thường nhưng có bổ sung nhiều hình ảnh, phim thí nghiệm, nhiều bài tập hoá học… và được sử dụng thông qua hệ thống máy tính.  Những tính năng ưu việt của e-book E-book có những lợi thế mà sách in thông thường không có được: - Rất gọn nhẹ, giá thành rẻ. - Có thể điều chỉnh về cỡ chữ, màu sắc, và các thao tác cá nhân hoá tuỳ theo sở thích của người đọc. - Nhiều hình ảnh, phim minh họa rõ nét, hấp dẫn. - Khả năng lưu trữ lớn, có thể chứa rất nhiều thông tin, hình ảnh, phim… Cùng với sự phát triển vượt bậc của mạng internet và kết hợp với các thiết bị kỹ thuật cao cấp, hầu hết các sách in giấy thông thường đều có thể được làm thành sách điện tử. Chính vì vậy mà ngày nay, không khó khăn lắm để chúng ta tìm một tác phẩm nổi tiếng để đọc trực tiếp trên mạng hay tải về máy tính để đọc theo dạng e-book.  Nhược điểm của e-book - Giống như e-mail (thư điện tử) e-book chỉ có thể dùng các công cụ máy tính như máy vi tính, máy trợ giúp kỹ thuật số cá nhân (palm, pocket pc…) để xem. - Không giống như sách in thông thường, sách điện tử cũng có những “định dạng” khác nhau. Nói một cách dễ hiểu là sách có nhiều tập tin mở rộng như .pdf, .prc, .lit, … Những tập tin này sở dĩ khác nhau vì chúng được làm từ những chương trình khác nhau và vì thế, muốn đọc được chúng, ta cần phải có những chương trình tương ứng. 1.3.2. Mục đích thiết kế e-book Thiết kế e-book hỗ trợ cho hoạt động tự học hóa học của HS phổ thông như là một công cụ tự học thích hợp từ đó nâng cao hiệu quả tự học thông qua những kiến thức được minh họa một cách sinh động, hấp dẫn. Ngoài ra, khi GV ứng dụng ICT trong dạy học hóa học có thể sử dụng e-book như là một tài liệu tham khảo. 1.3.3. Các yêu cầu thiết kế e-book Việc thiết kế e-book phục vụ cho giáo dục đòi hỏi phải đáp ứng những đặc trưng riêng về mặt nghe, nhìn, tương tác; do đó theo tác giả Nguyễn Trọng Thọ để đáp ứng nhu cầu tự học, chúng ta phải tuân theo đầy đủ các bước của việc thiết kế dạy học (ADDIE là chữ viết tắt của 5 bước): 1. Analysis (phân tích tình huống để đề ra chiến lược phù hợp): - Hiểu rõ mục tiêu. - Các tài nguyên có thể có.
  15. - Đối tượng sử dụng. 2. Design (thiết kế nội dung cơ bản): - Các chiến lược dạy học. - Siêu văn bản (hypertext) và siêu môi trường (hypermedia). - Hướng đối tượng, kết nối và phương tiện điều hướng. 3. Development (phát triển các quá trình): - Thiết kế đồ hoạ. - Phát triển các phương tiện 3D và đa môi trường (multimedia). - Hình thức và nội dung các trang Web. - Phương tiện thực tế ảo. 4. Implementation (triển khai thực hiện): Cần tích hợp với chương trình công nghệ thông tin của trường học :  Chuẩn bị cho phù hợp với thực tế các phòng máy tính.  Thủ tục tiến hành với thầy.  Triển khai trong toàn bộ các đối tượng dạy, học và quản lí.  Quản lí tài nguyên (nhân lực và vật lực). 5. Evaluation (lượng giá): Đánh giá hiệu quả huấn luyện thường sử dụng mô hình bốn bậc do Donald Kirkpatrick phát triển (1994). Theo mô hình này, quá trình lượng giá luôn được tiến hành theo thứ tự vì thông tin của bậc trước sẽ làm nền cho việc lượng giá ở bậc kế tiếp: - Bậc 1: Phản ứng tích cực hay tiêu cực (Reactions). - Bậc 2: Hiệu quả học tập (Learnings). - Bậc 3: Khả năng chuyển giao hay chuyển đổi (Transfers). - Bậc 4: Kết quả thực tế (Results). Hình 1.1. Mô hình lượng giá bốn bậc theo Kirkpatrick 1.3.4. Các phần mềm thiết kế e-book Trong luận văn này, chúng tôi thiết kế e-book dưới dạng một website nên đã sử dụng các phần mềm dùng xây dựng website.
  16. Hiện nay có rất nhiều công nghệ được sử dụng để thiết kế và phát triển website, xây dựng và thiết kế website tĩnh với ngôn ngữ HTML hay xây dựng, thiết kế website với các ngôn ngữ lập trình cấp cao hơn (PHP, ASP, ASP.NET, JSP...). Vậy phải lựa chọn công nghệ nào? Theo www.thegioiwebsite.net với bài viết “Lựa chọn công nghệ nào để phát triển website” đưa ra những nhận định đơn giản giúp ta chọn được giải pháp tốt nhất cho mình trước khi lựa chọn một ngôn ngữ lập trình để thiết kế web. Bảng 1.2. So sánh các công nghệ xây dựng website PHP ASP.NET ASP JSP/ java Tốc độ xử lý Nhanh, hiệu quả cao. Nhanh, hiệu quả cao. Rất chậm. Hơi chậm. Thấp Cao Trung bình Chi phí (không tốn chi phí (do một phần phải (do một phần phải Cao. mua bản quyền). mua bản quyền). mua bản quyền). Thời gian Hơi phức tạp, Hơi phức tạp, code và triển Nhanh, đơn giản. Trung bình. chậm hơn PHP. chậm hơn PHP. khai Số lượng nhà Không nhiều, vì Không nhiều, vì cung cấp Nhiều, dễ lựa chọn. vậy khó cho việc vậy khó cho Ít, khó tìm. hosting lựa chọn. việc lựa chọn. Ít, khả năng Nhiều, khả năng Nhiều, khả năng Số lượng nhà chọn lựa để xây chọn lựa một chọn lựa một cung cấp Ít. dựng một trang trang web phù trang web phù website web phù hợp rất hợp tốt hơn. hợp tốt hơn. khó. Khả năng mở Dễ dàng và rộng và phát Dễ dàng. Khó khăn. Khó khăn. nhanh chóng. triển Phong phú, đa Phong phú, đa dạng. Phát triển dạng. Phát triển web trên nền web trên nền web web 2.0. Sử dụng 2.0. Sử dụng Các công cụ công nghệ Ajax công nghệ Ajax và công nghệ làm cho quá Ít, khó tìm. Ít, khó tìm. làm cho quá trình hỗ trợ trình duyệt web duyệt web nhanh nhanh chóng và chóng và thân thân thiện hơn thiện hơn đối với đối với người người dùng. dùng. Đối với những GV không chuyên trong lĩnh vực lập trình website với các ngôn ngữ lập trình cấp cao, thì việc chọn cho mình ngôn ngữ thiết kế web với HTML là giải pháp tốt nhất, bởi vì ngôn ngữ HTML dễ học, thiết kế đơn giản, dễ thay đổi cấu trúc web và phát triển website thật dễ dàng, đồng thời
  17. việc kết hợp HTML với các ngôn ngữ thiết kế web khác như CSS, Javascript và đồ họa sẽ làm cho website đẹp hơn, sinh động hơn. 1.3.4.1. Ngôn ngữ HTML HTML (hay Hypertext Markup Language - Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản) là ngôn ngữ đánh dấu chuẩn dùng lập trình các tài liệu World Wide Web, tài liệu là các tập tin văn bản đơn giản. Ngôn ngữ HTML dùng các tag (thẻ) hoặc các đoạn mã lệnh để chỉ cho các trình duyệt (Web browsers) cách hiển thị các thành phần của trang như text và graghics, và đáp lại những thao tác của người dùng bởi các thao tác ấn phím và nhắp chuột. Hầu hết các Web browser, đặc biệt là Microsoft Internet Explorer và Netscape Navigator, nhận biết các tag của HTML vượt xa những chuẩn HTML đặt ra. 1.3.4.2. CSS (Cascading Style Sheet) CSS (cascading style sheet) cho phép chúng ta định dạng (font chữ, kích thước, màu sắc ....) của các đối tượng sử dụng CSS đó. Ưu điểm của CSS là tách riêng phần định dạng ra riêng khỏi phần nội dung, do đó rất tiện khi bạn muốn thay đổi giao diện của một website. 1.3.4.3. Ngôn ngữ Javascript (ngôn ngữ kịch bản) JavaScript, theo phiên bản hiện hành, là một ngôn ngữ lập trình kịch bản (script) dựa trên đối tượng được phát triển từ các ý niệm nguyên mẫu. Ngôn ngữ này được dùng rộng rãi cho các trang web, nhưng cũng được dùng để tạo khả năng viết script sử dụng các đối tượng nằm sẵn trong các ứng dụng. Các đoạn mã script được chèn vào HTML để làm tăng khả năng linh hoạt của thiết kế website động, tạo ra một số hiệu ứng đặc biệt cho website. 1.3.4.4. Thiết kế web với Dreamweaver Dreamweaver là một chương trình chuyên nghiệp để tạo và quản lý các trang web. Dreamweaver cung cấp các công cụ phác thảo trang web cao cấp, hỗ trợ các tính năng DHTML (Dynamic HTML) mà không cần viết các dòng lệnh, giúp người sử dụng không biết lập trình web cũng có thể thiết kế được các trang web động một cách dễ dàng, trực quan. Với Dreamweaver chúng ta có thể dễ dàng nhúng các sản phẩm của các chương trình thiết kế web khác như Flash, Fireworks, Shockwave, Generator, Authorwave vv... Dreamweaver còn cho phép người sử dụng chỉnh sửa trực tiếp HTML. Với Quick Tag Editor bạn có thể nhanh chóng bổ sung hoặc xóa bỏ một HTML mà không cần thoát khỏi cửa sổ tài liệu. Chế độ soạn thảo trang web bằng HTML giúp chúng ta có thể thiết kế trang trực tiếp bằng ngôn ngữ HTML. Dreamweaver còn hỗ trợ các HTML Styles và Cascading Style Sheet giúp chúng ta định dạng trang web nhằm tăng tính hấp dẫn khi duyệt các trang web này. Vùng làm việc của chương trình
  18. Deamweaver rất linh động và dễ sử dụng gồm các thành phần như sau: Document, Launcher, Object Palette, Property Inspector, Floating Palette và các context menu (menu ngữ cảnh) ... Màn hình làm việc 1.3.4.5. Photoshop Phần mềm Adobe Photoshop là một phần mềm chuẩn và dẫn đầu trong việc biên tập và xử lý hình ảnh chuyên nghiệp, với nhiều hiệu ứng biên tập, xử lý và biến đổi hình ảnh giúp cho công việc xử lý các hình ảnh nhanh chóng. Photoshop được đánh giá là phần mềm dẫn đầu thị trường về sửa ảnh bitmap và được coi là chuẩn cho các ngành liên quan tới chỉnh sửa ảnh. Trong Photoshop có thể mở và lưu nhiều dạng thức tập tin khác nhau: - Photoshop (.psd): Đây là dạng thức riêng của Photoshop, cũng là dạng thức tối ưu khi chúng ta làm việc trong Photoshop. - Bitmap (.bmp): Dạng thức này tương thích với Windows, không có dữ liệu nào của tập tin bị loại bỏ khi chúng ta lưu tập tin. - EPS (.eps): Dạng tập tin Encapsulated PostScript là một lựa chọn lý tưởng cho ảnh nét trắng đen. - GIF (.gif): Dạng thức trao đổi đồ họa (Graphics Interchange Format) là một lựa chọn tuyệt vời cho Web. - JPEG (.jpg): Tập tin Joint Photographic Experts Group. Loại định dạng này lưu tập tin mà dữ liệu hình ảnh sẽ bị loại bỏ bớt nhằm giảm bớt kích thước. - PCX (.pcx): Dạng thức dược dùng với nền Windows. PDF (.pdf) Portable. - Documemts Format: Hoạt động kết hợp với phần mềm Acrobat của Adobe, cũng là dạng thức tập tin dùng để sản xuất trang Web. - Pixar (.pxr): Dùng với chương trình tạo ảnh ba chiều.
  19. - PNG (.png): Thay thế cho dạng thức gif, rất lý tưởng cho Word Wide Web và đang ngày càng được ưa chuộng. Nó cho phép chúng ta lưu tập tin sao cho tập tin này được tải xuống theo dạng đan xen trên Word Wide Web. - RAW (.raw): Dạng thức này lưu tập tin dưới dạng một luồng byte. Rất tốt để di chuyển qua lại giữa các ứng dụng. - Scitex (.sci): Dành cho các hệ thống kỹ thuật cao. - Targe (.tga): Dùng cho hệ thống sử dụng Card Video. - TIFF (.tif): Một dạng thức rất phổ biến, Tagged - Image file Format. Màn hình làm việc 1.3.4.6. Flash Adobe Flash (Macromedia Flash), hay còn gọi một cách đơn giản là Flash, được dùng để chỉ chương trình sáng tạo đa phương tiện (multimedia) lẫn phần mềm dùng để hiển thị chúng Macromedia Flash Player. Flash là công cụ để phát triển các ứng dụng như thiết kế các phần mềm mô phỏng. Sử dụng ngôn ngữ lập trình ActionScript để tạo các tương tác, các hoạt cảnh trong phim. Điểm mạnh của Flash là có thể nhúng các file âm thanh, hình ảnh động. Người lập trình có thể chủ động lập các điều hướng cho chương trình. Flash cũng có thể xuất bản đa dạng các file kiểu html, exe, jpg, ... để phù hợp với các ứng dụng của người sử dụng như trên web, CD, … Ưu điểm lớn nhất của Flash - với đồ họa dạng vectơ - là kích thước file rất nhỏ. Thuận tiện cho việc truyền tải dữ liệu qua internet.
  20. Hiện nay có rất nhiều phần mềm thiết kế tập tin flash (.swf), các phần mềm này có tính năng là dễ sử dụng, giúp cho người sử dụng thiết kế được các flash một cách đơn giản nhờ vào các hiệu ứng sẵn có. Các phần mềm như: Sothink SWF Quicker, SWF Text, Sothink SWF Easy… 1.4. Tình hình sử dụng CNTT trong dạy học hiện nay 1.4.1. Thuận lợi - Ứng dụng CNTT vào dạy học – xu thế của thời đại khoa học: Nói đến đổi mới phương pháp dạy - học ngày nay, không thể không nói đến việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy và học tập. Đổi mới PPDH bằng cách sử dụng CNTT đang là một xu thế của thời đại, được UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI và dự đoán rằng nền giáo dục các nước trong tương lai gần sẽ có sự thay đổi một cách căn bản do ảnh hưởng của CNTT. - Nhiều nước đã đưa tin học vào giảng dạy trong nhà trường, đồng thời ứng dụng tin học vào việc giảng dạy các môn học. Đã có nhiều PMDH được dùng trong giảng dạy các môn học khác nhau như: Toán học, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Địa lí,… - Theo Thông tấn xã Việt Nam (nguồn www.vnanet.vn): Đến nay, đã có 20% GV trung học, 30% trường THPT, ứng dụng CNTT. Trong đó, từ 2-5% số bài giảng được sử dụng PMDH và có ứng dụng CNTT. Ngoài ra, còn có nhiều phần mềm hỗ trợ khác đã được sử dụng rộng rãi trong các trường. Các tập đoàn máy tính và phần mềm lớn như Intel, IBM, Microsoft,... cũng đã đầu tư rất lớn cho việc nghiên cứu đưa CNTT vào giáo dục và đã hỗ trợ cho Bộ Giáo dục và Đào tạo nhiều dự án đang được triển khai ở nhiều trường phổ thông một cách có hiệu quả, mở ra một hướng mới cho việc đổi mới giáo dục ở nước ta. Một số nước như Ấn độ, Thái Lan,... nhà nước đang đầu tư để cung cấp đến từng HS loại máy tính xách tay (laptop) giá 100 USD để đổi mới thực sự cách dạy và cách học trong nhà trường. - Theo báo cáo của phòng giáo dục huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai năm 2009: sau 3 năm triển khai, đã có 80% số trường trong huyện được kết nối mạng, ứng dụng hiệu quả nhiều phần mềm trong quản lý cán bộ, HS cũng như nhiều PMDH. Đặc biệt, việc soạn giảng bằng giáo án điện tử đã thu hút được đông đảo GV tham gia, tạo hứng thú học tập cho HS. Bên cạnh đó những tiết dạy bằng giáo án điện tử hay còn được tích hợp lên Website của phòng để cho các GV và HS tham khảo. - Đối với bộ môn hoá học, một môn khoa học thực nghiệm, việc đổi mới PPDH, phương tiện, thiết bị dạy học càng cần được chú trọng hơn. Hiện nay, hầu hết các GV đã thấy được lợi ích to lớn của internet. Thông qua internet GV có thể sử dụng các hình động, âm thanh, các văn bản dưới nhiều dạng khác nhau làm cho bài giảng sinh động và dễ được tiếp thu cũng như có thể tiến hành các bài tập, bài kiểm tra dưới dạng tương tác. - Hiện nay trên thế giới có khá nhiều phần mềm, tư liệu dạy học hoá học phong phú như: ChemWindow, ChemOffice được dùng để viết và vẽ công thức cấu tạo dạng 2D, 3D; các chương trình
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2