intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam ra nhập WTO

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

12
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Qua đó, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam gia nhập WTO.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam ra nhập WTO

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Nguyễn Thanh Thảo Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam ra nhập WTO LUẬN VĂN THẠC SỸ Hà nội - 2007
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ Nguyễn Thanh Thảo Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam ra nhập WTO Luận văn Thạc sĩ Mã Số: 60.31.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Minh Khải Hà nội - 2007
  3. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Việc tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO) đang diễn ra sôi động trong đời sống toàn cầu và là xu thế nổi bật của thời đại. Không một quốc gia nào có thể đứng ngoài quá trình gia nhập WTO nếu muốn tranh thủ thời cơ để phát triển vì WTO là tổ chức Thương mại lớn nhất toàn cầu với 150 nước thành viên, chiếm trên 90% kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu toàn thế giới. Với việc gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn, trọn vẹn và toàn diện hơn vào sân chơi rộng lớn của thế giới. Mỗi doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen nhau. Từ nay, họ thường xuyên hằng ngày, hằng giờ sống chung với áp lực cạnh tranh từ nhiều phía, cả từ thị trường trong nước và thị trường thế giới. Trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thì doanh nghiệp nhà nước có vai trò quan trọng nhất trong việc chủ động gia nhập WTO vì hiện nay doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư Nhà nước, 60% tổng lượng tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước ngoài, trên 90% đối tác Việt Nam tham gia các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa, việc doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh, rộng và sâu với những chuẩn mực của WTO (chủ yếu là tự do hóa đầu tư và thương mại trên bình diện quốc tế) chẳng những sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính mình mà còn mở ra cơ hội cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu của quá trình đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì doanh nghiệp nhà nước vẫn còn nhiều yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước? 1
  4. Đây đang là một yêu cầu bức thiết, được sự quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và của từng doanh nghiệp. Vì vậy, việc tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh hiện nay mang một ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Với quan niệm như vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam gia nhập WTO” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Ở Việt Nam, việc nghiên cứu các vấn đề về doanh nghiệp nhà nước, một bộ phận kinh tế quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, luôn được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu, quản lý và hoạch định chính sách. Nhiều công trình nghiên cứu về doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai và nhiều kết quả nghiên cứu đã được áp dụng vào đời sống thực tiễn cải cách doanh nghiệp nhà nước như: - “Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” (2002), luận văn thạc sỹ kinh tế của Dương Thị Hồng Nhung - Khoa Kinh Tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội. - “Giải pháp huy động và sử dụng vốn đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh ở Việt Nam” (2002), luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Văn Tạo, Đại học kinh tế quốc dân. - “Những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước và vận dụng nó vào việc tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” (2002), luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Mạnh Quân, Đại học Kinh tế quốc dân. - “Tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn đến 2010” (2003), luận án tiến sỹ của Đỗ Thị Phi Hoài, Viện Kinh tế học. - “Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam từ 1986 đến nay - Thực trạng và giải pháp” (2005), luận án tiến sỹ của Hoàng Hà, Đại học Kinh tế quốc dân. 2
  5. - “Cơ chế quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước” (2005), luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Thị Mai Hương, Đại học kinh tế quốc dân. - “Tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trước sức ép hội nhập” (2003), của GS.TS Tào Hữu Phùng, Tạp chí Ngoại thương, số 13+14. - “Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, (2006), của PGS.TS Cao Duy Hạ, Tạp chí lý luận, số 1. Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình này đã đề cập đến việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chưa đi sâu vào khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế, đã có công trình nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhưng đó là doanh nghiệp Việt Nam nói chung, ít có đề tài nào đi sâu vào vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước khi Việt Nam gia nhập WTO. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục tiêu: Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Qua đó, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhiệm vụ: * Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước * Khảo sát thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trước khi Việt nam gia nhập WTO. * Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam gia nhập WTO 3
  6. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước Việt Nam. Phạm vi: * Không gian: các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam * Thời gian: từ 1995 đến nay 5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp kết hợp logíc và lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê, phân tích và tổng hợp, phương pháp chuyên gia. 6. Đóng góp mới của luận văn - Khẳng định có căn cứ khoa học và thực tiễn về sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Hệ thống hóa kinh nghiệm của Trung Quốc về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi gia nhập WTO - Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của DNNN trước khi gia nhập WTO, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN sau khi Việt Nam gia nhập WTO. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước khi gia nhập WTO Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trước khi Việt Nam gia nhập WTO Chương 3: Những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam gia nhập WTO 4
  7. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC KHI GIA NHẬP WTO 1.1 Tổng quan về cạnh tranh 1.1.1 Khái niệm cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp * Khái niệm cạnh tranh: Kinh tế thị trường được xem như là một trong những thành tựu vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Nó luôn hàm chứa trong mình những cơ hội và thách thức đối với sự nhạy bén và sáng tạo của con người trong môi trường cạnh tranh. Dưới tác động của quy luật cung cầu, quy luật giá trị, các chủ thể kinh doanh đã cạnh tranh với nhau để cùng với bên kia của thị trường (người tiêu dùng) xác định giá cả và sản lượng của hàng hóa. Dưới tác động của cạnh tranh, thị trường tự thân nó luôn luôn phải giải quyết sự mâu thuẫn không ngừng vận động giữa sở thích của người tiêu dùng và hạn chế kỹ thuật (giới hạn khả năng sản xuất). Do vậy, cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Nó chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh tế thị trường, nơi mà cung và cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là nhân tố quan trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Thực tế cho thấy cạnh tranh là hoạt động xã hội hết sức phức tạp đòi hỏi được làm sáng tỏ ở nhiều tầng tiếp cận khác nhau. 5
  8. Cạnh tranh theo định nghĩa của Đại từ điển Tiếng Việt là “ganh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng khác nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình”. Theo Mác, “Cạnh tranh là nguồn gốc đẩy tới sự mù quáng của chủ nghĩa tư bản tự do phóng túng, sự sung đột mãi mãi giữa các lực lượng cũ và mới, đồng thời cũng là một cuộc vật lộn sống chết mà các nhà tư bản không thể không tham dự”. Quan điểm này cho thấy sự cạnh tranh là sự ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong từ điển thuật ngữ kinh tế học (Nhà xuất bản Bách Khoa Hà Nội – 2001) thì cạnh tranh “là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, các tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được”. Trong từ điển kinh doanh (xuất bản tại Anh năm 1992). “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”. Ủy ban cạnh tranh công nghiệp của tổng thống Mỹ cho rằng “ cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện của thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”. Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác – Lênin nêu ra định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất – kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất – kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. 6
  9. Các quan niệm trên đây có sự khác biệt trong diễn đạt và phạm vi, nhưng có những nét tương đồng về nội dung. Từ đó có thể đưa ra một quan niệm tổng quát sau đây về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như những điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, đối với người sản xuất – kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. Như vậy, cạnh tranh, xét về bản chất luôn được nhìn nhận trong trạng thái động và ràng buộc trong mối quan hệ so sánh tương đối. Vì vậy, mọi quan hệ giao tiếp mà các bên tham gia nỗ lực tìm kiếm vị thế có lợi cho mình đều có thể diễn tả trong khái niệm cạnh tranh. Khái niệm cạnh tranh được xem xét đầy đủ trên cả hai mặt: tích cực tạo động lực cho sự vươn tới một kết quả tốt nhất, nhưng một khi những kỹ năng này được thể hiện một cách cực đoan, nó có thể dẫn đến một thực trạng tiêu cực với kết quả trái ngược nhau. Trong xu thế hội nhập vào trào lưu tự do hóa thương mại, khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trên quy mô toàn cầu, việc tiếp cận những khái niệm đó cũng cần được xác định trên cơ sở logic, hệ thống. Theo đó, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp phải được phân tích trong lợi thế cạnh tranh ngành, quốc gia, khu vực. * Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được sử dụng khá phổ biến trong lý thuyết về tổ chức ngành công nghiệp. Lý thuyết này cho rằng, một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh khi doanh nghiệp đó đứng vững trên thị trường bằng cách sản xuất ra những sản phẩm tương tự các đối thủ với mức giá thấp hơn hay bằng cách cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hoặc dịch vụ hoàn hảo, đáp ứng được thị hiếu cho khách hàng trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Một doanh nghiệp yếu 7
  10. kém về năng lực cạnh tranh sẽ bị đẩy ra khỏi thị trường nếu như doanh nghiệp đó không kịp thời thay đổi “ hình ảnh” của mình trước các đối thủ. Lợi ích mà doanh nghiệp này đạt được trong cạnh tranh đồng nghĩa với việc gây ra những “ tổn thương” cho doanh nghiệp khác là đối thủ tham gia cạnh tranh với mình. Cạnh tranh của các doanh nghiệp trong một ngành nào đó có tính chất sống còn sẽ được đặc trưng bởi trò chơi mà nếu một bên được thì bên kia phải mất: zero- sumgame Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước”(1). Có ý kiến khác: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phát huy thực lực, sử dụng lợi thế để tồn tại và phát triển trên thị trường một cách vững chắc nhằm thu được lợi nhuận ngày càng cao”(2). Cuốn sách Asian Development Outlook, xuất bản năm 2003, trang 205 định nghĩa năng lực cạnh tranh (Competitiveness) là “Khả năng của một công ty tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức và chất lượng các sản phẩm cũng như năng lực của nó để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh các thị trường mới” và “một công ty có sức cạnh tranh nếu có thể sản xuất các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao và chi phí thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trong nước và quốc tế của nó. Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với lợi nhuận dài hạn và khả năng của nó để bồi hoàn cho người lao động và tạo ra thu nhập cho các chủ sở hữu”. Có ý kiến khác chi tiết và tổng quát hơn cho rằng : “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được phản ánh không chỉ bằng năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ do nó cung ứng, mà nó còn bằng năng lực tài chính, năng lực quản lý (cả đối nội và đối ngoại), vị thế của doanh nghiệp trên 8
  11. thị trường cũng như uy tín của chính doanh nghiệp. Nhưng, năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp phản ánh tập trung và hội tụ các yếu tố khác quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để có hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao, giá rẻ, doanh nghiệp phải tổ chức sản xuất và tiêu thụ hiệu quả sao cho không lãng phí ở bất cứ khâu nào, sao cho công nghệ của doanh nghiệp luôn ở thế hệ hiện đại nhất. Đồng thời, doanh nghiệp phải có khả năng tự đổi mới, biết tìm và đưa ra các sản phẩm, công nghệ mới. Muốn vậy, phải đầu tư cho công nghệ, cho con người để họ lao động sáng tạo và có năng suất cao. Ngoài ra, doanh nghiệp còn cần có tiềm lực tài chính để đương đầu với các doanh nghiệp cạnh tranh, phải có đủ thông minh để dàn xếp quan hệ đối tác và quan hệ với Nhà nước sao cho không chỉ sức mạnh kinh tế mà uy tín của doanh nghiệp cũng không ngừng tăng lên. Ngoài ra, sức cạnh tranh so sánh giữa doanh nghiệp nước này, địa phương này với doanh nghiệp nước khác, các địa phương khác…còn phụ thuộc vào sự thuận lợi hay không thuận lợi của kết cấu hạ tầng, và các chi phí trung gian, vào sự dễ hay khó có được các dịch vụ công với các chi phí thấp. Nói cách khác, môi trường kinh doanh cũng ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh của DN, nhất là môi trường tài chính và môi trường luật pháp”. Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhưng theo tác giả: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hiệu quả của sự kết hợp các yếu tố cấu thành về chất tạo nên sức mạnh cạnh tranh kinh tế của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh trong một giai đoạn nhất định thuộc môi trường cạnh tranh lành mạnh, được thể hiện qua những tiêu chí khác nhau như: Doanh thu, thị phần, tỷ suất lợi nhuận, sức mạnh thương hiệu, thị giá cổ phiếu… Với quan niệm như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần được nhận thức đồng thời trên hai góc độ: các yếu tố cấu thành về chất của năng lực cạnh tranh và các chỉ tiêu về lượng đo lường năng lực cạnh tranh. 9
  12. * Khái niệm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Theo cách tiếp cận trên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn trong trạng thái vận động dẫn đến kết quả là lợi thế cạnh tranh, thị phần và lợi nhuận của doanh nghiệp có thể thay đổi theo chiều hướng bất lợi hay thuận lợi. Do vậy, để duy trì năng lực cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh của kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào cũng phải thường xuyên nâng cao năng lực cạnh tranh bằng các biện pháp và hành động cụ thể. Cho đến nay, vẫn chưa có một quan niệm chính thức nào mang tính học thuật về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện gia nhập WTO. Theo tác giả để có thể tiếp cận khái niệm nâng cao năng lực cạnh tranh cần chú ý đến những vấn đề sau: Một là, nói đến nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hay một chủ thể kinh tế nào đó là nói đến một hành vi kinh tế đặc trưng - khả năng đổi mới và sáng tạo không ngừng của nó để vượt qua đối thủ do động lực lợi ích kinh tế và áp lực cạnh tranh chi phối. Nếu thiếu một trong hai yếu tố trên thì không có hành vi cạnh tranh hay nâng cao năng lực cạnh tranh. Hai yếu tố này chỉ tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi có sự độc lập về kinh tế của nhiều chủ thể cùng theo đuổi một mục tiêu nào đó trên thị trường. Hai là, Hoạt động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao hàm cả việc giải quyết các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp (cốt lõi là tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế) và giải quyết các mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp (giành lấy điều kiện thuận lợi hơn, thị phần lớn hơn). Trong khi hành vi cạnh tranh chỉ bao hàm giải quyết các mối quan hệ bên ngoài giữa doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh. Cả hai mối quan hệ trên đều cần có những biện pháp và thủ đoạn nhất định để đạt được mục tiêu, nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về phạm vi xử lý. Ba là, Hoạt động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn được đặt trong môi trường kinh tế - xã hội (môi trường kinh doanh) nhất định. 10
  13. Nó không giống nhau ở mỗi quốc gia do độ mở của thị trường, thể chế chính trị và trình độ phát triển kinh tế. Do đó, doanh nghiệp ở mọi quốc gia đều phải cạnh tranh quyết liệt với nhau để đưa ra lợi thế riêng so với đối thủ cả trong và ngoài nước. Bốn là, Kết quả của nâng cao năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp phải giữ vững, mở rộng được thị phần và lợi nhuận trước các đối thủ cạnh tranh hiện có và tiềm tàng nhờ tạo ra được những sản phẩm và dịch vụ có sức cạnh tranh cao, chiếm lĩnh được niềm tin của khách hàng. Với cách tiếp cận đó có thể quan niệm: nâng cao năng lực cạnh tranh của DN trong điều kiện gia nhập WTO là hoạt động không ngừng đổi mới, sáng tạo ra lợi thế cạnh tranh mới có tính vượt trội từ những nguồn lực hoặc yếu tố sản xuất mà doanh nghiệp huy động được so với các đối thủ cạnh tranh hiện có và tiềm tàng nhằm giữ vững, mở rộng thị phần và lợi nhuận cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng. 1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Chìa khóa để hiểu và phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi gia nhập WTO là phải xác định được các yếu tố cấu thành của chúng. Khái quát lại, nó bao gồm các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài. 1.1.2.1 Các nhân tố bên trong năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Nhân tố bên trong năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tập hợp bao gồm: Chiến lược kinh doanh; tiềm lực tài chính; chất lượng nguồn nhân lực; trình độ khoa học công nghệ; chi phí kinh doanh; năng lực tiếp cận thị trường; văn hóa doanh nghiệp. * Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp Michael E.Porter, Giáo sư nổi tiếng về chiến lược kinh doanh của trường Đại học Harvard, đã phát biểu những quan điểm của mình về chiến lược qua bài báo “ Chiến lược là gì” (năm 1996): 11
  14. Thứ nhất, chiến lược là sự sáng tạo ra vị thế có giá trị và độc đáo bao gồm các hoạt động khác biệt. Thứ hai, chiến lược là sự lựa chọn, đánh đổi trong cạnh tranh. Thứ ba, chiến lược là việc tạo ra sự phù hợp giữa tất cả các hoạt động của công ty. Chiến lược có thể coi là tập hợp những quyết định và hành động hướng tới mục tiêu để các năng lực và nguồn lực của tổ chức đáp ứng được những cơ hội và thách thức bên ngoài. Theo Albert.J.Dunlap, “Chiến lược của doanh nghiệp phải hội tụ như tia laze, không tỏa rộng như viên đạn ghém”. Hội tụ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp gồm nhiều loại chiến lược phân theo các cấp độ khác nhau gắn với từng lĩnh vực cụ thể của doanh nghiệp như: chiến lược về vốn, chiến lược khoa học và công nghệ, chiến lược phát triển nguồn nhân lực; chiến lược sản phẩm; chiến lược khai thác thị trường và phục vụ khách hàng; chiến lược cạnh tranh với từng đối thủ xác định…Thành công ở từng chiến lược là bằng chứng xác đáng nhất về hiệu quả của chiến lược kinh doanh. Chẳng hạn, đứng trước một đối thủ xác định , muốn chiến thắng trong cạnh tranh phải phân tích kỹ đối thủ (cả đối thủ “trên cơ” và đối thủ “dưới cơ”). Nhận thức được điều này là đã tuân thủ nguyên tắc: “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Khi phân tích đối thủ cạnh tranh cần chú ý mấy điểm sau: Điểm 1: Xác định đối thủ (bao gồm các đối thủ hiện tại và các đối thủ tiềm tàng). Nhờ xác định một tập hợp đối thủ mà phân loại được đối thủ, qua đó tìm cách đối phó với từng đối thủ cụ thể đảm bảo được tính thực tiễn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điểm 2: Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ tức là tìm ra được lợi thế và những bất lợi thế của đối thủ khi tiếp cận cạnh tranh với doanh nghiệp của mình trên thị trường. Điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ không 12
  15. phải là một hằng số, nó luôn thay đổi, tùy thuộc vào mục tiêu kinh doanh của đối thủ đó ở từng thời gian và trong từng không gian nhất định; biến thiên theo đà thành đạt và phản ứng linh hoạt khi đối thủ vấp phải rủi ro. Càng phân tích kỹ điểm này doanh nghiệp càng phát huy được lợi thế của mình trong cạnh tranh. Điểm 3: Biết được chiến lược kinh doanh của đối thủ, đẩy mạnh việc nhận thức đối thủ lên một bước ở từng loại sản phẩm cụ thể. Khi nắm bắt được càng rõ những “chiêu bài” của đối thủ (về chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối, marketing, chuyên biệt hóa…) thì hành động phản ứng “bắt bài” đối thủ sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. * Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp không chỉ thể hiện ở quy mô vốn kinh doanh. Có những doanh nghiệp quy mô vốn “lớn” nhưng “không mạnh”, đó là do cơ cấu tài sản, nguồn vốn không phù hợp với quy mô và đặc thù sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp chưa biết khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của mình và không tránh được nguy c nợ đọng trong thanh quyết toán. Ngược lại, có những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng vẫn được coi là mạnh vì doanh nghiệp đã duy trì tình trạng tài chính tốt, biết cách huy động những nguồn tài chính thích hợp để sản xuất kinh doanh những sản phẩm có sức cạnh tranh phục vụ tốt thị trường mục tiêu. Như vậy, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải nâng cao tiềm lực tài chính của doanh nghiệp mình không chỉ bằng cách tăng quy mô vốn mà quan trọng hơn là phải nâng cao khả năng huy động vốn, bởi vì khả năng huy động vốn có hiệu quả phục vụ cho quá trình tái sản xuất là một nội dung rất quan trọng, nó không những phản ánh năng lực của doanh nghiệp trong việc tiếp cận những yếu tố đầu vào của sản xuất, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tiêu thụ sản phẩn sau này. 13
  16. * Chất lượng nguồn nhân lực Chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa sống còn đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nó cho phép doanh nghiệp thực hiện được chủ trương chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo chiều sâu, ứng dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào các quy trình sản xuất nhằm thực hiện chuyên môn hóa sâu rộng, chuyên biệt hóa sản phẩm… Vì thế, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thông điệp ở đây là : Thu hút và phát triển nguồn nhân lực tài năng là yếu tố chủ chốt quyết định tốc độ tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong dài hạn. * Trình độ khoa học công nghệ Nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm phát triển và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. * Chi phí kinh doanh Bao gồm chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D); các chi phí tiện ích (điện, nước, điện thoại…); chi phí vận tải; chi phí thuê mặt bằng 14
  17. sản xuất kinh doanh… là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới là chi phí quan trọng trong nền kinh tế hiện đại bởi các doanh nghiệp muốn tồn tại, có sức cạnh tranh thì cần phải biết đổi mới mình. Do đó, đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là tại các nước phát triển chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị trường. Các chi phí điện nước… luôn là một yếu tố được xem xét khi có dự án đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài. Nó cũng được xem xét đến khi so sánh sức cạnh tranh giữa các nước. Điều này cho thấy chi phí điện, nước… ảnh hưởng không nhỏ tới giá thành sản phẩm trong một số ngành và có ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. * Năng lực tiếp cận thị trường Thị trường là nơi kiểm chứng tốt nhất cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo quan điểm sản xuất, có thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường các yếu tố đầu ra với hai hoạt động cơ bản là nghiên cứu nhu cầu thị trường và xác định thị trường mục tiêu. Hiểu biết, nắm bắt thị trường nhạy bén đi đôi với khai thác và chiếm lĩnh thị trường mục tiêu là nhiệm vụ sống còn của doanh nghiệp vì nó tác động trực tiếp đến quá trình tái sản xuất mở rộng. Quá trình này đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, khoa học và chấp nhận chi phí thỏa đáng. Sức mạnh cạnh tranh quốc tế đòi hỏi sự phân tích chính xác từng đoạn thị trường nhằm đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi từ phía cầu. * Văn hóa doanh nghiệp Văn hóa doanh nghiệp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vì yếu tố này tác động đến cách thức các cá nhân, nhóm, bộ phận tương tác với nhau và khả năng sáng tạo của họ. Nếu doanh nghiệp xác định được truyền thống văn hóa thích hợp sẽ là nhân tố 15
  18. thuận lợi khai thông mọi ý tưởng sáng tạo, kích thích tiềm năng của các cá nhân và hệ thống, gắn kết được các hoạt động các cá nhân, bộ phận trong doanh nghiệp thành thể thống nhất, thực hiện hài hòa lợi ích và gắn kết được người lao động và quản lý với sự phát triển của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu văn hóa doanh nghiệp đề cao cách làm việc mang tính “rập khuôn” máy móc, thụ động, không khuyến khích những ý tưởng mới sẽ làm hạn chế khả năng đổi mới của doanh nghiệp. 1.1.2.2 Các nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp * Chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Michael.E.Porter chỉ ra bốn yếu tố quyết định môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi quốc gia. Tư tưởng này được khái quát như sau: Một là, đầu vào cho quá trình sản xuất Các doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh nếu họ sử dụng tốt các nhân tố đầu vào có chi phí thấp, chất lượng cao như: chất lượng và số lượng nguồn lao động; hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ ; nguồn tài nguyên; khí hậu, vị trí địa lý thuận lợi; nguồn vốn tài chính và chiến lược phát triển khoa học - công nghệ quốc gia…Năm nhóm đầu vào này được phân ra thành 2 dạng cơ bản là đầu vào sơ cấp và đầu vào cao cấp, được sử dụng chung cho mọi ngành hay có tính chất chuyên ngành. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại thì cạnh tranh dựa vào những yếu tố đầu vào sơ cấp - phổ biến (tài nguyên, khí hậu, vị trí địa lý, lao động giản đơn …) phải nhường vị trí ưu tiên hàng đầu cho phát triển cạnh tranh dựa vào yếu tố đầu vào cao cấp - chuyên ngành (hệ thống viễn thông hiện đại, lao động kỹ thuật cao, công nghệ cao…). Đầu vào 16
  19. chuyên ngành có vai trò quyết định hơn, bền vững hơn đầu vào phổ biến, mặt khác đầu vào chuyên ngành thường là đầu vào cao cấp. Như vậy, lợi thế cạnh tranh của DN chủ yếu phụ thuộc vào việc tạo ra các yếu tố đầu vào hơn là việc sử dụng các yếu tố đầu vào đã có. Chẳng hạn như ngành sản xuất thép ở Nhật Bản có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới dù họ không có lợi thế về tài nguyên sắt hoặc than mà ở chỗ họ có công nghệ sản xuất thép rất tốt. Hai là, sức ép từ phía cầu Ba khía cạnh chủ yếu của nhu cầu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: bản chất của nhu cầu, dung lượng và tốc độ của tăng trưởng của nhu cầu, cơ chế lan truyền nhu cầu trong nước ra thị trường quốc tế. Khi người tiêu dùng đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm và các dịch vụ đi kèm theo sẽ tạo áp lực đối với các doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, đặc tính kỹ thuật, dịch vụ… tạo sức ép chuyển sang đáp ứng đoạn nhu cầu mới cao cấp hơn qua đó nâng vị thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Tốc độ tăng trưởng của nhu cầu trong nước ở một khía cạnh khác là nhu cầu bão hòa nhanh chóng sẽ kích thích doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động… Tức là phải liên tục đổi mới. Với những doanh nghiệp cạnh tranh mạnh trong môi trường trong nước thì khi tham gia cạnh tranh quốc tế sẽ có nhiều cơ may chiến thắng hơn. Chẳng hạn, như các doanh nghiệp trong ngành chế biến thức ăn nhanh của Hoa Kỳ có sức cạnh tranh rất mạnh trên thị trường thế giới là do người tiêu dùng trong nước là những khách hàng đòi hỏi tốc độ và sự thuận tiện nhất thế giới. Ba là, ngành công nghiệp phụ trợ Ngành công nghiệp phụ trợ là ngành mà doanh nghiệp có thể phối hợp và chia sẻ trong chuỗi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chúng có tính 17
  20. chất bổ trợ ở các khâu của quá trình sản xuất. Ngành công nghiệp phụ trợ bao gồm sản xuất chi tiết linh kiện, các công nghệ sản phẩm đầu vào để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành phụ trợ càng mạnh thì tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp mũi nhọn (chính) càng lớn, cơ hội thành công trong cạnh trạnh của doanh nghiệp càng cao. Sự hiện diện của các cụm công nghiệp tạo ra cho doanh nghiệp một lợi thế kinh tế theo quy mô, giảm thiểu chi phí sản xuất và hiệu ứng lan truyền, chuyển giao, chia sẻ công nghệ rất hữu ích. Sở dĩ ngành sản xuất máy tính của của Hoa kỳ là một trong những đầu đàn vì các công ty có nhiều sáng kiến, phát minh, ứng dụng công nghệ mới trong ngành công nghệ bán dẫn, vi xử lý, hệ thống điều hành và dịch vụ máy tính. Bốn là, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp phù hợp với cạnh tranh quốc tế Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp bị tác động rất lớn từ cấu trúc của sở hữu (Nhà nước, tập thể, tư nhân, hỗn hợp). Cơ cấu tổ chức và hoạt động nhanh gọn, mô hình quản lý doanh nghiệp hướng tới hiệu quả, chiến lược cạnh tranh rõ nét kết hợp các yếu tố phân tích ở trên có vai trò rất lớn đối với thành công của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp có chiến lược cạnh tranh và cơ cấu tổ chức tốt, hiểu biết về ngành nghề kinh doanh, có kế hoạch theo sát với các quy định của Chính phủ, hoạt động trong môi trường cạnh tranh trong nước khốc liệt sẽ có cơ hội thành công nhiều hơn khi tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế. Sở dĩ các công ty xe hơi của Nhật Bản vững vàng trên thị trường thế giới, có thị phần khổng lồ vì họ đã cạnh tranh mạnh mẽ ở thị trường trong nước, luôn suy nghĩ và hành động mang tính chiến lược. Tóm lại, khi nào môi trường cạnh tranh trong nước tạo được sức ép mạnh mẽ để doanh nghiệp không ngừng cải tiến, đổi mới theo hướng dựa ít hơn vào lợi thế nguồn lực tài nguyên và chi phí lao động thấp mà chủ yếu dựa 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2