intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp thu hút vốn đầu tư ở các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:55

13
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu có cấu trúc gồm 3 chương trình bày cơ sở lý luận về khu công nghiệp; thực trạng thu hút vốn đầu tư các KCN tại tỉnh Đồng Nai, giải pháp thu hút vốn đầu tư các KCN tại tỉnh Đồng Nai. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp thu hút vốn đầu tư ở các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ĐẶNG NGỌC GIÀU GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2007
  2. 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KCN 1.1 Vốn đầu tư, thu hút vốn đầu tư Hoạt động đầu tư, trước hết được hiểu là hoạt động kinh tế tổng hợp được tiến hành bằng cách huy động các nguồn vốn bỏ vào lĩnh vực khai thác, chế biến sản phẩm hoặc dịch vụ trong một thời gian nhất định. Số vốn đó phải tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích thu hồi vốn, tạo ra lợi nhuận đối với nhà đầu tư và mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho đất nước. Vốn bỏ vào các hoạt động đầu tư được gọi là vốn đầu tư. Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình CNH, HĐH. Nhờ có vốn mới có các yếu tố cơ bản và cần thiết khác để CNH, HĐH của quá trình sản xuất như: máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên nhiên vật liệu… để sử dụng, phát huy được nguồn lực lao động dồi dào của nước ta trong công cuộc đẩy mạnh quá trình này. Để có nguồn vốn đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH; chúng ta không những cần phải thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn mà còn phải nâng cao hiệu qủa sử dụng nguồn vốn đó. Thu hút vốn đầu tư vào KCN bao gồm thu hút đầu tư nước ngoài và thu hút đầu tư trong nước. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tuỳ theo quy định của Luật đầu tư từng nước tiếp nhận đầu tư. Quyền điều hành doanh nghiệp tuỳ thuộc vào số vốn góp của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Nếu góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận các chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết qủa hoạt động kinh doanh và tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của doanh nghiệp. 1.2 KCN, đặc điểm và vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế xã hội 1.2.1 KCN
  3. 2 Tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội, địa lý cũng như chính sách kinh tế của từng quốc gia, từng khu vực mà chính phủ mỗi nước lựa chọn mô hình kinh tế cho phù hợp với quốc gia của mình. Theo chương trình môi trường liên hợp quốc xếp các loại hình KCN trên thế giới thuộc loại bất động sản công nghiệp bao gồm : khu chế xuất (Export Processing Zones – EPZ); khu sản xuất hàng thay thế nhập khẩu (Import Processing Zone – IPZ); Khu công nghiệp (Industrial Processing Zones); Khu công nghệ cao (High – Tech Industrial Zones); Khu vực kinh tế tự do (Free Economic Zone – FEZ); Khu mậu dịch tư do (Free Trade Zone – FTZ); Đặc khu kinh tế. Khu chế xuất (EPZ), đây là loại đặc khu kinh tế có diện tích tương đối nhỏ, có hàng rào phân cách về địa lý trong một quốc gia, không có dân cư sinh sống nhằm thu hút các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất được hưởng nhiều ưu đãi; nhất là ưu đãi về thuế và thủ tục hải quan, song đòi hỏi phải xuất khẩu gần như toàn bộ sản phẩm. Khu sản xuất hàng thay thế nhập khẩu (IPZ), đây là hình thức áp dụng chủ yếu ở các nước Đông Á và Đông Nam Á nhằm phục vụ cho chiến lược CNH thay thế hàng nhập khẩu. Tại khu vực này chủ yếu thu hút các ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu và chế biến các nguyên liệu thô trong nước. KCN là hình thức tổng hợp của EPZ và IPZ đã nêu ở trên, các KCN này có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của các nước vì nó kích thích xu hướng sản xuất hướng ra xuất khẩu, vừa động viên phát triển sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và chế biến nguyên liệu thô trong nước. KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định có dân cư sinh sống; do Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố ra quyết định thành lập sau khi có văn bản chấp thuận của Thủ tướng chính phủ. Trong KCN có thể có khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất.
  4. 3 Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ ; KKT kinh tế là khu vực có không gian riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Trong giai đoạn toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và kinh tế trí thức, quan niệm về KCN được mở rộng. Các giao dịch kinh tế không phải chỉ điều chỉnh bằng các quy định pháp lý trong nước mà còn bằng cả các quy định pháp lý quốc tế đặc biệt là những nguyên tắc của WTO. WTO cho phép thành lập các KCN và KCX với những ưu đãi không được trái với các nguyên tắc điều chỉnh của WTO. Như vậy, KCN có thể hiểu là một phương thức tổ chức các hoạt động sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ công nghiệp với những chế độ ưu đãi đặc biệt so với các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ còn lại trên lãnh thổ của một nước nhằm khuyến khích đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu và thực hiện các mục tiêu chính sách khác. KCN được thành lập không chỉ để nhằm thu hút đầu tư nước ngoài mà còn cả thu hút đầu tư trong nước. Đánh giá xếp loại KCN theo tiêu chí về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật KCN; hiệu qủa KCN; hiệu qủa thu hút vốn đầu tư; hiệu qủa xã hội. 1.2.2 Đặc điểm + KCN có vị trí địa lý xác định, có thể có hoặc không có hàng rào ngăn cách, không có dân cư sinh sống. + KCN được thành lập để thu hút các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp. + Đơn vị chủ đầu tư KCN thuê đất Nhà nước, đầu tư hạ tầng và cho thuê lại đất, thu phí hạ tầng.
  5. 4 + Được quản lý bởi một cơ quan chuyên trách là Ban Quản lý KCN cấp tỉnh theo cơ chế ủy quyền của các bộ ngành, với cơ chế một cửa, một đầu mối, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp… 1.2.3 Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế xã hội Trong giai đoạn vừa qua (1991 – 2006), hoạt động các KCN trong cả nước đã đạt được những thành tựu quan trọng. + Hình thành hệ thống các KCN trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cả nước; quy hoạch phát triển ngành, địa phương và vùng lãnh thổ. Các KCN được phân bổ trên các tỉnh thành trên cả nước theo hướng vừa tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở các vùng có lợi thế và tiềm năng, vừa tạo điều kiện để các địa phương có ít lợi thế hơn, có động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Quy mô các KCN đa dạng và phù hợp với từng điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của mỗi địa phương. + KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho CNH, HĐH đất nước. Số dự án ĐTNN và tổng vốn đăng ký vào KCN ngày càng được mở rộng. Giai đoạn 5 năm 1991-1995, số dự án ĐTNN có 155 dự án, đến 5 năm 2001-2005 là 1.377dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần về số dự án và 12 % về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996-2001. Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN đã thu hút được 2.120 dự án có vốn ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 16.843 triệu USD. Trong 5 năm 1991-1995, chỉ có gần 50 dự án trong nước đầu tư vào các KCN, thì đến 5 năm 2001-2005 thu hút được 1.870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với kế hoạch 5 năm trước. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2.367 dự án trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư trên 117 nghìn tỷ đồng. + KCN đã tạo một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài không chỉ đối với địa phương có KCN mà còn góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước. Tại các KCN, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật nói chung khá hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho bãi,
  6. 5 điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. + KCN có tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương theo hướng CNH, HĐH; đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung cả nước, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế. Trong 20 năm thực hiện cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế thế giới, nước ta đã đạt được những thành qủa quan trọng. Tỷ lệ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm (trung bình giai đoạn 2001-2005 đạt 7,5%); cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo CNH, HĐH; tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh (gấp 3 lần, từ 11% GDP năm 1986 lên 39% năm 2005). Số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị từ 1 tỉ USD trở lên tăng từ 0 mặt hàng năm 1981 lên 5 mặt hàng năm 2005. FDI và ODA ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, góp phần cung cấp vốn, cải thiện công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, thị trường xuất khẩu lớn hơn, đa dạng hơn, tăng tính cạnh tranh và tạo việc làm cho người lao động. Tỷ suất FDI/GDP bắt đầu tăng từ cuối thập kỷ 1980 lên 6,41% năm 1994, đạt 15,5% năm 2005 với tổng trị giá 6 tỉ USD; tổng lượng vốn ODA đạt 30 tỉ USD trong vòng 13 năm qua. Trong năm 2005, FDI chiếm 50% xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, 34% thu nhập ngân sách nhà nước. Trong bức tranh kinh tế chung đó của đất nước, KCN là điểm sáng, có những đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tiếp nhận công nghiệp hiện đại, kinh nghiệp quản lý tiên tiến, góp phần xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu… Trong năm 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN đạt 14 tỉ USD, chiếm tỷ trọng gần 30% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp và tăng 25% so với năm 2004. + Các KCN sử dụng ngày càng hiệu quả cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế.
  7. 6 + Tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội. Phát triển KCN đồng nghĩa với hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. + Thúc đẩy việc đổi mới và hoàn thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. + Các KCN góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới và công nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu vực toàn tuyến hành lang kinh tế nói chung từng bước chuyển theo hướng một nền kinh tế CNH, thị trường, hiện đại. Các KCN có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển vùng, các ngành, lĩnh vực. KCN mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung quanh KCN. Liên kết ngành trong KCN bước đầu đã có những kết qủa nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ KCN bởi những ngành nghề hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong KCN đã tạo điều kiện cho các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp KCN hoặc bản thân các doanh nghiệp trong các KCN có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các cơ sở kinh doanh xung quanh KCN. Đánh giá một cách chung nhất, các KCN không chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng có KCN phát triển mạnh mẽ trong 15 năm qua, mà còn có tác động lan toả rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của công cuộc CNH, HĐH nền kinh tế. + Góp phần quan trọng vào mở rộng thị trường, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại và tăng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực hành lang kinh tế. + KCN đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý, tránh tình trạng khó kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất.
  8. 7 + Mô hình quản lý - áp dụng cơ chế “một cửa, tại chỗ” đối với KCN. Chính sách về KCN trong thời gian qua đã đạt được những chuyển biến tích cực. Bước vào thiên niên kỷ mới, nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ về phát triển kinh tế xã hội, trong đó đầu tư phát triển đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc huy động tương đối đầy đủ các nguồn lực cho đầu tư; cơ cấu lại các nguồn vốn đầu tư, coi trọng nguồn vốn của dân cư, tư nhân; chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý, theo hướng CNH, HĐH; đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, điều chỉnh cơ cấu giữa các ngành, vùng, từng bước hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý, tạo ra thế và lực cho nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và cộng đồng quốc tế. Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách và cơ chế quản lý mới, có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong nước và ngoài nước, nhất là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, vốn đầu tư phát triển hàng năm không ngừng tăng, các nguồn vốn huy động tham gia đầu tư ngày càng đa dạng. Kết qủa là đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, nhiều KCN, KCX, các ngành công nghiệp then chốt của đất nước, hạ tầng giao thông vận tải, nông nghiệp… Hạ tầng xã hội đã được chú trọng đầu tư và được cải thiện đáng kể, tạo ra tiền đề cần thiết và quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành kinh tế. 1.2.4 Các quan điểm phát triển KCN Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO Chính sách phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài cho các tỉnh, thành phố và việc tăng cường hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật, chính sách và các công cụ khác đã làm tăng quyền tự chủ cho các địa phương. Trong những sự lựa chọn về giải pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc thành lập các KCN là giải pháp đã được các địa phương lựa chọn nhiều nhất và có thể đây là một trong những giải pháp phù hợp nhất với khả năng quản lý của địa phương và là sự thể hiện rõ nhất mức độ tự chủ của địa phương trong việc thực hiện chính sách phân cấp đầu tư của Nhà nước.
  9. 8 + KCN phải thực sự là phương tiện hữu hiệu và là một trong những yếu tố chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế địa phương, thu hút mạnh vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tăng cường xuất khẩu và giải quyết việc làm cho lao động địa phương. Những vai trò tích cực này cần được tận dụng triệt để và khai thác theo phương thức tối ưu, do những tác động của dòng vốn quốc tế đang có lợi cho Việt Nam. + Tuân thủ các nguyên tắc của WTO trong quá trình hoạch định chính sách và áp dụng các biện pháp phát triển KCN. Theo những nguyên tắc của WTO mà trực tiếp là nguyên tắc không phân biệt đối xử, các biện pháp được áp dụng các biện pháp ưu đãi có tính chất phân biệt sẽ bị coi là vi phạm các quy định của WTO. + Đánh giá thích hợp vị trí của các KCN cả từ góc độ lợi ích và góc độ chi phí và có giải pháp gia tăng lợi ích và hạn chế mặt chi phí. Tuy nhiên sự phát triển KCN cũng có những tác động nhất định về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. + Đa dạng hoá và hình thức tổ chức và phương thức quản lý các KCN phù hợp với từng địa phương và giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương làm ảnh hưởng đến lợi ích của địa phương. + Giải pháp tổng thể cả về phía ngành, vùng và việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triển dài hạn để phát triển KCN trên cơ sở đánh giá đúng vai trò có tính chất quá độ của các KCN trong quá trình thực hiện nguyên tắc và cam kết trong WTO. 1.2.5 Đánh giá hiệu qủa KCN theo cách phân tích điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức. Điểm mạnh: + Do tính chất tập trung về mặt không gian, nên KCN có nhiều lợi thế trong việc tiến hành xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có đủ quỹ đất để mở rộng và liên kết thành một tổ công nghiệp lớn. + Do tập trung trong một KCN có hàng rào ranh giới phân biệt rõ trong hàng rào và ngoài hàng rào nên thuận lợi cho việc kiểm soát hàm lượng phát thải công nghiệp.
  10. 9 + Các KCN được bố trí ở những khu vực có cự ly vận tải thích hợp, thuận tiện vận chuyển, bảo quản nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm…nên có nhiều thuận lợi trong việc cung cấp nguyên liệu trong nước hoặc nhập từ nước ngoài. + Quy mô KCN và quy mô xí nghiệp công nghiệp có điều kiện để đồng bộ hoá và chuyên môn hoá sản xuất cho phù hợp với công nghệ chính và điều kiện kết cấu hạ tầng để đảm bảo hiệu quả. + Cũng nhờ tính tập trung cao mà KCN có nhiều thuận lợi trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước. + Có nhiều thuận lợi trong việc cung cấp lao động, cả về số lượng và chất lượng với chi phí tiền lương thích hợp, cũng như bố trí chỗ ở, phương tiện đưa đón công nhân. + KCN là nơi kết hợp hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, xã hội, người lao động và các nhà đầu tư. Điểm yếu: + Do KCN xuất hiện nơi đất trống, không nằm trong nội đô, nên xét về nhiều phương diện nó là một dự án lớn được hình thành trên cơ sở tính toán kỹ càng, thì dù sao vẫn là một hoạt động làm thay đổi cái cũ, hiện có để hình thành cái mới trong không gian và thời gian nhất định, nên có xung đột. + Những nhà đầu tư kết cấu hạ tầng của KCN thường đứng trước sự lựa chọn trong việc giải bài toán thu hồi vốn và lãi, thường là phải đánh đổi giữa thu hồi vốn nhanh thì thiếu bền vững, còn thu hồi vốn chậm thì nhiều rủi ro. + Khả năng đáp ứng lao động của các khu vực lân cận cho các KCN đang gặp nhiều khó khăn do trình độ đào tạo và tay nghề của người lao động chưa theo kịp nhu cầu của các doanh nghiệp trong các KCN. Thời cơ: + Thời cơ để thu hút vốn: KCN khi đã được hoàn thành khâu xây dựng kết cấu hạ tầng, thì thời cơ thu hút vốn thường gắn môi trường đầu tư trong nước, khu vực và thế giới. Bởi vậy, dự báo và lựa chọn thời điểm khởi công, thời gian xây dựng cơ bản có ý nghĩa quyết định đến thành công của một dự án KCN.
  11. 10 + Thời cơ về tạo việc làm. + Thời cơ về nâng cao thu nhập cho người lao động. + Thời cơ làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thời cơ để nông nghiệp, nông thôn vươn lên sản xuất hàng hoá và hội nhập. + Thời cơ để rèn luyện và nâng cao năng lực nguồn nhân lực trong vùng. Thách thức: + Tình trạng thừa lao động chưa qua đào tạo trong lúc thiếu trầm trọng lao động qua đào tạo và lao động chất lượng cao đang là thách thức lớn đối với xã hội Việt Nam trong vài thập niên tới. + Mức sống của người lao động tăng lên nhanh cùng với đà phát triển của nền kinh tế làm cho mất dần lợi thế về giá sức lao động rẻ. + Hội nhập ngày một sâu hơn làm cho tự do lưu thông các luồng lao động, tư bản- vốn, khoa học, công nghệ… một mặt san lấp nhanh sự chênh lệch về giá cả hàng hoá nói chung cũng như sức lao động nói riêng và đồng thời làm mất dần tính chất ưu tiên, ưu đãi về cơ chế chính sách đối với trong hàng rào KCN so với toàn bộ nền kinh tế. + Tự do hoá thị trường đi liền với việc phát triển đồng bộ các loại thị trường làm cho thị trường bất động sản, nhất là thị trường quyền sử dụng đất được hình thành rõ nét dần. Điều đó làm cho khâu đền bù giải phóng mặt bằng để xây dựng kết cấu hạ tầng trong các KCN, cũng như hàng rào ngày càng trở nên đắt đỏ, khó khăn hơn, làm tăng chi phí đầu tư của các nhà đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng… hậu qủa là giảm dần năng lực cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư của các KCN. 1.3 Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước. 1.3.1 Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài Nhiều người biết đến Nhật Bản như một câu chuyện thần kỳ trong phát triển kinh tế - xã hội và là một cường quốc kinh tế, có GDP đứng thứ ba trên thế giới (sau Hoa Kỳ và Trung Quốc). Là nước rất nghèo về tài nguyên, trong khi dân số thì đông, phần lớn nguyên vật liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ
  12. 11 trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973). Trong suốt thời kỳ tăng trưởng (những năm 70 của thế kỷ XX) của nền kinh tế Nhật Bản, các KCN đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất công nghiệp và đảm bảo phát triển kinh tế cân đối giữa các vùng, miền của Nhật Bản. Tính đến những năm cuối của thế kỷ trước, Nhật đã có 602 KCN, gồm 77 KCN ven biển, 525 KCN nội địa với tổng diện tích 34.968ha, trong đó, tổng diện tích các KCN ven biển 20.257 ha và các KCN nội địa là 14.711 ha. Nhân tố đã tạo nên sự thành công của hệ thống KCN Nhật Bản, có các bài học: Bài học thứ nhất: Xây dựng cơ sở pháp lý phù hợp. Như những nghiên cứu đã được công bố, thì Nhật Bản trước khi tiến hành phát triển các KCN đã xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động và phát triển KCN. Bài học thứ hai: Quy hoạch phát triển các KCN của từng địa phương phải phù hợp với quy hoạch tổng thể các KCN trên cả nước và quy hoạch phát triển công nghiệp, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, miền, nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi địa phương để từ đó có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc đầu tư phát triển các KCN. Trong hệ thống quản lý của Nhật Bản, có 3 cơ quan chính quản lý hoạt động phát triển của các KCN gồm: Bộ Thương Mại và Công nghiệp quốc tế, Cơ quan quản lý đất quốc gia và Bộ Xây dựng. Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Bộ Vận tải quản lý những vấn đề khác có liên quan. Bài học thứ 3: Cần lựa chọn cơ cấu đầu tư trong các KCN theo hướng khuyến khích phát triển, thu hút các dự án đầu tư các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, có tốc độ tăng trưởng cao và sức lan toả nhanh tới các ngành kinh tế khác để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
  13. 12 Nhận thức được tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận tiện cho sản xuất công nghiệp, Chính phủ Nhật Bản đã dành một lượng vốn đầu tư ngày càng lớn cho lĩnh vực này. Việc phát triển các KCN của Nhật Bản diễn ra trong những thập niên đầu và giữa thế kỷ 20, trong bối cảnh thế giới khác nhiều so với thời kỳ hiện nay – thời kỳ của toàn cầu hoá, thương mại tự do và động lực tri thức. Tuy nhiên đối với nước ta – một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH thì những bài học kinh nghiệm về hoạch định chính sách đầu tư phát triển các KCN của Nhật Bản vẫn bổ ích đối với nước ta. 1.3.2 Kinh nghiệm thu hút đầu tư trong nước của KCN tỉnh Quảng Nam Một số kết qủa đạt được cùng với cả nước, việc đầu tư, phát triển các KCN được xem là điểm đột phá phát triển tỉnh Quảng Nam từ sau ngày tái lập. Qua hơn 9 năm phát triển, đến nay ngoài khu kinh tế mở Chu Lai Quảng Nam đã có 5 KCN với diện tích 1.500 ha, bao gồm KCN Điện Nam – Điện Ngọc đã cơ bản lấp đầy diện tích giai đoạn I và 1/3 diện tích giai đoạn II. Các KCN khác như Thuận Yên, Bắc Chu Lai, Tam Hiệp, Đông Quế Sơn cũng đã khởi động. Thêm vào đó, một số cụm công nghiệp nhỏ ở từng địa phương cũng đã được hình thành. Bên cạnh những kết qủa đạt được, các KCN ở Quảng Nam vẫn tồn tại một số điểm yếu kém cần khắc phục. Đó là: Công tác quy hoạch phát triển KCN còn mang yếu tố điểm, chưa nhân ra diện rộng, đặc biệt chưa thực sự có tầm nhìn xa để đón đầu các điều kiện thuận lợi sẽ phát sinh; Phần đầu tư hạ tầng bằng nguồn vốn Nhà nước còn quá thấp so với nhu cầu, làm cho hạ tầng được triển khai còn chắp vá, chậm so với tiến độ thu hút đầu tư vì phụ thuộc khả năng tài chính của chủ đầu tư KCN; Công tác quản lý môi trường phòng chống cháy nổ, quản lý theo quy định về lao động ngày càng phức tạp, nhưng vẫn chưa triển khai những giải pháp ngăn ngừa xử lý hữu hiệu; Công tác cải cách hành chính chưa đi vào chiều sâu và sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành chưa nhuần nhuyễn, ăn khớp nên tính nhanh nhạy, chính xác khi giải quyết các yêu cầu của nhà đầu tư còn hạn chế; Nguồn lao động giản đơn trên địa bàn lớn nhưng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng phục vụ
  14. 13 KCN chưa đáp ứng yêu cầu tay nghề, kỹ thuật của các nhà máy trong KCN; Công tác xúc tiến đầu tư còn chủ yếu dựa vào sự năng động của Công ty chủ đầu tư KCN, các đơn vị của Nhà nước tham gia chưa nhiều, chưa đồng bộ và các hình thức chưa thật đa dạng. 1.3.3 Bài học chung Trải qua hơn 5 thập kỷ phát triển KCN ở nhiều quốc gia trên thế giới, đến nay đã đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho sự thành công của mô hình KCN. Các bài học đó tựu chung là: +Mục tiêu của KCN phải được xác định rõ ràng để có thể hoạch định chiến lược phát triển với cơ cấu các ngành công nghiệp, loại hình sản phẩm phù hợp với lợi thế so sánh và nhu cầu thị trường, trên cơ sở đó xác định quy mô, thời gian, địa điểm xây dựng của từng KCN cũng như quy hoạch của mạng lưới KCN trên một vùng lãnh thổ, đảm bảo vị trí thuận lợi với mạng lưới giao thông nhanh chóng, ổn định cho hoạt động của KCN. + Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đủ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vào KCN trên cơ sở đảm bảo môi trường kinh tế - chính trị ổn định với sự cam kết rõ ràng của chính quyền trung ương và địa phương. + Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, đảm bảo thông tin liên lạc nhanh chóng, cung cấp điện nước đầy đủ với chi phí hợp lý. + Bộ máy quản lý KCN có đủ năng lực, hoạt động hiệu quả với các thủ tục hành chính và quy chế hoạt động “một cửa, tại chỗ”. + Có lực lượng lao động dồi dào, được đào tạo tốt với giá nhân công hợp lý. + Tổ chức tốt việc khuyếch trương khi xây dựng KCN để thu hút được các công ty lớn đầu tư vào KCN. Kết Luận Chương 1 Chúng ta cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về KCN, tiến tới ban hành Luật về KCN làm cơ sở pháp lý ổn định và thống nhất cho việc tổ chức và hoạt động của các KCN Việt Nam. Các công cụ chính sách đầu tư phát triển KCN phải
  15. 14 rõ ràng minh bạch, đặc biệt là phải nhất quán, có tầm nhìn dài hạn và toàn cục được xây dựng trên cơ sở cân nhắc rất kỹ mục tiêu CNH cho từng thời kỳ. Cả trong hiện tại và lâu dài về phát triển công nghiệp đất nước và các địa phương theo hướng coi trọng các ngành có lợi thế so sánh và các ngành có lợi thế cạnh tranh, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp đang là động lực thúc đẩy các địa phương thành lập KCN hướng tới mục tiêu đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, như vậy các KCN sẽ còn tiếp tục thành lập. Sự phát triển của các KCN chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện phát triển của từng địa phương về vị trí địa lý, nguồn lực phát triển, việc bố trí cơ cấu kinh tế theo ngành và theo vùng trong từng thời kỳ phát triển. Khi nhu cầu phát triển của các KCN vẫn còn, đặc biệt là nhu cầu khai thác các nguồn lực phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy xuất khẩu, tăng cường thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, công nghệ hiện đại từ nước ngoài…thì các KCN sẽ trở thành một trong những mục tiêu được coi trọng phát triển.
  16. 15 Chương 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ CÁC KCN TẠI TỈNH ĐỒNG NAI 2.1 Sự phát triển KCN cả nước 2.1.1 Mục tiêu và việc hình thành các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. + Mục tiêu tổng quát Mục tiêu phát triển các KCN tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các KCN chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các KCN có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp; đưa tỷ lệ góp vốn của các KCN vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ trên 24% hiện nay lên khoảng 39-40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào giai đoạn tiếp theo; tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp của các KCN từ 19,2% giá trị xuất khẩu toàn quốc hiện nay lên khoảng 40% vào năm 2010 và cao hơn vào giai đoạn tiếp theo. + Mục tiêu cụ thể Giai đoạn đến năm 2010: Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản lấp đầy các KCN đã được thành lập; thành lập mới một cách có chọn lọc các KCN với diện tích tăng thêm khoảng 15.000 ha – 20.000 ha, nâng tổng diện tích các KCN đến năm 2010 lên khoảng 45.000 ha – 50.000 ha. Đầu tư đồng bộ, hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng các KCN hiện có, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải và đảm bảo diện tích trồng cây xanh trong các KCN theo quy hoạch xây dựng được duyệt nhằm bảo vệ môi trường và phát triển công nghiệp bền vững. Giai đoạn đến năm 2015:
  17. 16 Đầu tư đồng bộ để hoàn thiện các KCN hiện có, thành lập mới một cách có chọn lọc các KCN với tổng diện tích tăng thêm khoảng 20.000 ha – 25.000 ha; nâng tổng diện tích các KCN đến năm 2015 khoảng 65.000 ha – 70.000 ha. Phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy các KCN bình quân trên toàn quốc khoảng trên 60%. Có các biện pháp, chính sách chuyển đổi cơ cấu các ngành công nghiệp trong các KCN đã và đang xây dựng theo hướng hiện đại hoá phù hợp với tính chất và đặc thù của các địa bàn lãnh thổ. Xây dựng các công trình xử lý rác thải công nghiệp tập trung quy mô lớn ở những khu vực tập trung các KCN tại các vùng kinh tế trọng điểm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN; phấn đấu thu hút thêm khoảng 6.500 – 6.800 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng trên 36 –39 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư thực hiện khoảng 50%. Giai đoạn đến năm 2020: Quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý diện tích đất dự trữ cho xây dựng KCN. Hoàn thiện cơ bản mạng lưới KCN trên toàn lãnh thổ với tổng diện tích các KCN đạt khoảng 80.000 ha vào năm 2020. Quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các KCN đã được thành lập theo hướng đồng bộ hoá. Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài nói chung vào các KCN, KCX từ nay đến năm 2010 tương đối sáng sủa. Đối với đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp tiếp tục phát huy hiệu quả, được đánh giá là có tiềm năng to lớn trong việc huy động vốn. Theo dự báo, những lĩnh vực có triển vọng hơn cả trong việc thu hút đầu tư vào các KCN trong 5 năm tới sẽ là ngành công nghiệp năng lượng (điện, than và dầu khí); tiếp đến là công nghiệp ôtô; công nghiệp dệt may, da giày; cơ khí đóng tàu; sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, thiết bị thông tin, phần mềm và vật liệu xây dựng. 2.1.2 Hoạt động của các KCN, KKT của Việt Nam trong năm 2006 được khái quát ở những kết qủa dưới đây:
  18. 17 Năm 2006 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, cũng là năm đánh dấu bước chuyển biến mới của hệ thống các KCN, KKT sau 15 năm xây dựng và phát triển: Thứ nhất là tiếp tục thành lập mới và mở rộng các KCN ở một số địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập 9 KCN mới với tổng diện tích đất tự nhiên đạt 2.081 ha và đồng thời cho phép mở rộng thêm 526 ha. Tổng diện tích các KCN được thành lập mới và mở rộng trong năm 2006 đạt 2.607 ha, trong đó đất công nghiệp có thể cho thuê là 1.780 ha. Trước xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, việc tiếp tục thành lập mới và mở rộng thêm các KCN trong năm 2006 đã tính tới giai đoạn phát triển trong những năm sau, nhằm chuẩn bị quỹ đất để đón các nhà đầu tư trong một vài năm tới. Đồng thời diện tích các KCN tăng thêm năm 2006 đã được điều chỉnh hợp lý hơn so với các năm trước (bằng khoảng 75%) nhằm đảm bảo hiệu qủa sử dụng quỹ đất và phù hợp với tốc độ gia tăng đầu tư. Tính đến cuối tháng 12/2006, cả nước có 139 KCN được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 29.392 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 19.743 ha, chiếm 67% tổng diện tích đất tự nhiên. Về phân bố các KCN, trong thời gian qua, phân bố các KCN đã dần dịch chuyển theo hướng giảm bớt mật độ các KCN ở các Vùng kinh tế trọng điểm, ưu tiên thành lập các KCN ở Trung Du và miền núi Bắc Bộ, Đồng Bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, 48 tỉnh, thành phố đã thành lập KCN, tuy nhiên, phân bố các KCN vẫn tập trung ở ba Vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tập trung nhiều KCN nhất với 65 KCN với tổng diện tích tự nhiên 16.228 ha, chiếm 55,2% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 25 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 4.601 ha, chiếm 15,7% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước và Vùng kinh tế trọng
  19. 18 điểm Miền Trung có 10 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 2.395 ha, chiếm 8,1% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước. Thứ hai là tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT trong năm 2006 đạt được mức tăng trưởng rất cao. Thu hút đầu tư nước ngoài: năm 2006, các KCN, KKT đã thu hút được 356 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 4.336 triệu USD, chiếm khoảng 56% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước và gấp 2,4 lần so với năm 2005. Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất cả nước với 213 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 2.578 triệu USD, chiếm khoảng 60% cả số dự án và số vốn đầu tư thu hút mới trong các KCN trên cả nước. Về tình hình tăng vốn, trong năm 2006, có 337 lượt dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn với tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 1.347 triệu USD, chiếm khoảng 62% số vốn tăng thêm của cả nước, tăng 30,5% so với năm 2005 (về tổng vốn đầu tư tăng thêm). Đồng Nai, Bình Dương, Long An và thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương dẫn đầu cả nước về số vốn đầu tư tăng thêm với tổng số 219 lượt dự án tăng vốn và tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 1.024,5 triệu USD, chiếm 76% tổng vốn đầu tư tăng thêm trong các KCN cả nước. Trong năm 2006, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KKT đạt 5.682 triệu USD, chiếm khoảng 56% tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước và tăng gần 2 lần so với năm 2005. Tính đến cuối tháng 12/2006, các KCN đã thu hút được 2.433 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 21,79 tỷ USD. Trong đó, trên 1.700 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và 380 dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện lũy kế đến cuối năm 2006 đạt 11,37 tỷ USD, chiếm khoảng 52 % tổng vốn đầu tư đăng ký.
  20. 19 Thu hút đầu tư trong nước: năm 2006, các KCN trên cả nước thu hút được trên 300 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đạt trên 15.000 tỷ đồng. Lũy kế đến cuối tháng 12/2006, các KCN cả nước thu được 2.623 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 135,69 nghìn tỷ đồng. Trong đó, trên 1.720 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và còn gần 500 dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện lũy kế đến cuối năm 2006 đạt khoảng 78 nghìn tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 58%. Thứ ba là, trong năm 2006, mặc dù có nhiều biến động trên thị trường trong nước và thế giới, đặc biệt sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO), các doanh nghiệp KCN vẫn tiếp tục duy trì hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 16,8 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2005 và chiếm khoảng 29 -30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 16,8 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2005 và chiếm trên 21% so với tổng giá trị xuất khẩu cả nước năm 2006 (kể cả dầu thô). Giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 12,5 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm 2005. Qua các chỉ tiêu nêu trên, ta thấy đóng góp của KCN, KKT vào giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu của cả nước ngày càng lớn. Năm 2006, các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách khoảng 880 triệu USD, tăng 35,4% so với năm 2005. Tính đến cuối năm 2006, các KCN đã giải quyết việc làm cho trên 918.000 lao động trực tiếp. Thứ tư là, tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN đã được cải thiện đáng kể. Đến cuối năm 2006, cả nước có 19 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 970 triệu USD và 120 dự án
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2