intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

31
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là cho thấy sự cần thiết của công tác xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình cổ phần hóa; trình bày thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp và những trở ngại thường gặp khi thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay; đề xuất những biện pháp để nâng cao hiệu quả và hoàn thiện công tác định giá, nhất là đối với tài sản vô hình (thương hiệu, lợi thế kinh doanh, nguồn nhân lực...) nhằm góp phần đẩy mạnh công tác cổ phần hóa ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện nay

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM NGUYỄN PHƯƠNG NAM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHẰM ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.Hồ Chí Minh, năm 2006
  2. Trang 1 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 01 CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1.1/ Giới thiệu tổng quan về doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 04 1.2/ Vai trò của định giá doanh nghiệp trong tiến trình cổ phần hóa 07 1.3/ Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp 08 1.3.1/ Khái niệm giá trị doanh nghiệp 08 1.3.2/ Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp 08 1.3.2.1/ Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh 09 1.3.2.2/ Các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp 11 1.4/ Những phương pháp định giá doanh nghiệp 14 1.4.1/ Khái niệm về xác định giá trị doanh nghiệp 14 1.4.2/ Những phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phổ biến trên thế giới 15 1.4.2.1/ Phương pháp vốn hóa thu nhập 15 1.4.2.2/ Phương pháp số dôi thu nhập – EE (Excess Earning) 15 1.4.2.3/ Phương pháp dòng tiền chiết khấu – DCF (Discounted Cash Flow) 16 1.4.2.4/ Phương pháp tài sản – NAV (Net Asset Value) 17 1.4.2.5/ Phương pháp tính theo giá tài sản vô hình hiện hữu – VSIA 17 (Value of Specific Intangible Assets) 1.4.2.6/ Phương pháp so sánh 18 1.4.2.7/ Phương pháp giá trị kinh tế gia tăng – EVA (Economic Value Added) 18 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TRONGTIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 2.1/ Thực trạng định giá doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa tại Việt 20 Nam 2.1.1/ Giai đoạn thí điểm và mở rộng thí điểm từ 1992 đến tháng 6/1998 20
  3. Trang 2 2.1.2/ Giai đoạn từ tháng 7/1998 đến tháng 9/2002 24 2.1.3/ Giai đoạn từ tháng 9/2002 đến tháng 12/2004 27 2.1.4/ Giai đoạn từ cuối năm 2004 đến nay 31 2.1.4.1/ Phương pháp tài sản 32 2.1.4.2/ Phương pháp dòng tiền chiết khấu 38 2.2/ Những ưu điểm và hạn chế về khâu định giá doanh nghiệp hiện nay 42 2.2.1/ Ưu điểm 42 2.2.2/ Tồn tại và vướng mắc 43 2.2.2.1/ Về quản lý vĩ mô 43 2.2.2.2/ Về cơ chế thực hiện 43 2.2.2.3/ Về phương pháp định giá hiện hành 44 2.2.2.3.1/ Về phương pháp tài sản 44 2.2.2.3.2/ Về phương pháp dòng tiền chiết khấu 53 2.2.2.3.3/ Một số quy định khác về cổ phần hóa có thể gây trở ngại 54 cho việc định giá CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY 3.1/ Quan điểm và phương hướng về định giá doanh nghiệp Nhà nước hiện nay 57 3.2/ Các giải pháp hoàn thiện định giá doanh nghiệp 59 3.2.1/ Giải pháp về quản lý vĩ mô của Nhà nước 59 3.2.2/ Giải pháp về cơ chế thực hiện 61 3.2.3/ Giải pháp về phương pháp định giá 62 3.2.3.1/ Phối hợp 2 phương pháp định giá doanh nghiệp hiện hành 62 3.2.3.2/ Đối với phương pháp dòng tiền chiết khấu 63 3.2.3.3/ Áp dụng đa dạng các phương pháp định giá doanh nghiệp 65 3.2.3.4/ Đối với tài sản cố định 72 3.2.3.5/ Định giá thương hiệu 72
  4. Trang 3 3.2.3.6/ Vấn đề xác định yếu tố con người vào giá trị doanh nghiệp 76 3.2.3.7/ Một số giải pháp khác 76 KẾT LUẬN 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO I PHỤ LỤC 1 V PHỤ LỤC 2 Vii
  5. PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài: Trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế hiện nay, nhằm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, tăng cường khả năng cạnh tranh của khối doanh nghiệp Nhà nước, yêu cầu cấp bách là sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Trong đó, cổ phần hóa là một giải pháp có nhiều ưu điểm nhất trong các giải pháp tái cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá là một hình thức cụ thể của tiến trình xã hội hóa sản xuất. Nhờ sự xuất hiện công ty cổ phần mà vốn được tập trung nhanh chóng. Thực hiện tốt cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sẽ làm tăng sức mạnh của kinh tế Nhà nước, làm chỗ dựa cho Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Mặt khác, đó cũng là một giải pháp để tăng tính năng động trong kinh doanh và phát huy tính tích cực, tự chủ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra còn chậm, chưa đạt yêu cầu. Một trong những lý do chủ yếu khiến quá trình này bị chậm là do chúng ta chưa thể xác định giá trị của các doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa một cách hợp lý do đặc tính doanh nghiệp là một hàng hóa đặc biệt bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Có thể chia làm 3 nhóm như sau: - Nhóm 1: Giá trị các tài sản của doanh nghiệp bao gồm: máy móc thiết bị, vật tư, nhà xưởng, nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm chưa bán, tài sản bằng tiền, ngọai tệ; - Nhóm 2: Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích mặt bằng do doanh nghiệp quản lý và sử dụng; - Nhóm 3: Giá trị các tài sản vô hình: các lợi thế tự nhiên, vị trí của doanh nghiệp, bí quyết kỹ thuật, công nghệ, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường (thương hiệu, chất lượng sản phẩm), đội ngũ những nhà quản lý giỏi, tay nghề của công nhân...
  6. Chính vì những lý do này dẫn đến quá trình xác định giá trị doanh nghiệp là một hoạt động phức tạp. Việc xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn mang tính áp đặt vì chủ yếu việc xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay gắn với cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, nếu không phải là Nhà nước được lợi thì cũng là người lao động được hưởng. Do đó, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp không chỉ cần thiết cho công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước mà trong sự phát triển của kinh tế thị trường, đặc biệt là khi có thị trường chứng khoán, xác định giá trị doanh nghiệp sẽ là công việc thường xuyên diễn ra ở các doanh nghiệp nên việc nghiên cứu vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp là hết sức cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn đối với tiến trình đổi mới quản lý doanh nghiệp ở nước ta hiện nay cũng như sau này. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, tác giả đã thực hiện đề tài “HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHẰM ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY” với mong muốn đóng góp một số ý kiến đến vấn đề định giá doanh nghiệp Nhà nước nhằm mục đích chuyển giao và cổ phần hóa. 2/ Mục đích nghiên cứu: - Cho thấy sự cần thiết của công tác xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình cổ phần hóa. - Trình bày thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp và những trở ngại thường gặp khi thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất những biện pháp để nâng cao hiệu quả và hoàn thiện công tác định giá, nhất là đối với tài sản vô hình (thương hiệu, lợi thế kinh doanh, nguồn nhân lực...) nhằm góp phần đẩy mạnh công tác cổ phần hóa ở Việt Nam. 3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như: chính trị, kinh tế, tài chính, kế toán, ngân hàng, bảo hiểm, pháp luật... Tuy nhiên, phần nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi nghiên cứu xác định giá trị doanh nghiệp trong tiến trình cổ phần hóa ở Việt Nam và đưa ra những giải pháp ở tầm vĩ mô. 4/ Phương pháp nghiên cứu:
  7. Phương pháp nghiên cứu vận dụng xuyên suốt trong đề tài này là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp nghiệp vụ để khảo cứu, phân tích, đánh giá, kế thừa có chọn lọc và hệ thống. Cụ thể: - Bước 1: thu thập, chọn lọc thông tin, tài liệu có liên quan đến lĩnh vực cần nghiên cứu trong đề tài. - Bước 2: tập hợp, xử lý dữ liệu, kết hợp kiến thức đã học và thực tiễn để thực hiện nội dung đề tài. Ngoài ra, các phương pháp và kỹ thuật cụ thể sau đây cũng được vận dụng để lý giải về đề xuất các ý kiến hoàn thiện như: phương pháp phân tích tổng hợp, đối chiếu, so sánh... 5/ Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu: Đề tài trình bày, phân tích một cách hệ thống các vấn đề về lý luận liên quan đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp trong công tác cổ phần hóa. Đề tài đã tổng kết, phân tích quá trình thực hiện công tác định giá để phục vụ tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời rút ra những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại cần giải quyết. Từ đó, đề xuất những giải pháp và định hướng góp phần thiết thực cho hoạt động định giá trong thời gian tới nhằm giúp cho chủ trương cổ phần hóa được thực thi mạnh mẽ hơn.
  8. CHƯƠNG I VAI TRÒ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1.1/ Giới thiệu tổng quan về doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 (ở miền Bắc) và từ sau 1975 (ở miền Nam). Do hoàn cảnh lịch sử, các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên có nhiều đặc trưng khác biệt so với doanh nghiệp nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, biểu hiện ở chỗ: - Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán. Năm 1992, cả nước có trên 2/3 tổng số doanh nghiệp Nhà nước có số lượng lao động dưới 100 người, chỉ có 4% doanh nghiệp có số lượng lao động trên 100 người. Số lượng lao động trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội, khoảng 5-6% 1 . - Tỷ trọng doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tới gần 40% tổng số doanh nghiệp Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của nhiều doanh nghiệp Nhà nước còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Còn khoảng 10% doanh nghiệp làm ăn thua lỗ 2 . - Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, trừ một số rất ít (khoảng 18%) số doanh nghiệp Nhà nước được đầu tư mới trong thời gian gần đây, phần lớn các công nghệ của doanh nghiệp Nhà nước đã được sử dụng khá lâu, có trình độ kỹ thuật thấp kém so với các nước từ 3 đến 4 thế hệ. Có doanh nghiệp còn trang bị các thiết bị máy móc từ những năm 1930 của thế kỷ trước và trước đó được xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ của hệ thống máy móc thấp. Khi chuyển sang nền kinh tế 1 “Nguồn: Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế-xã hội Quốc gia, Tình hình cải cách doanh nghiệp Nhà nước (08/12/2005)” [24] 2 “Nguồn: Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương, Báo cáo tại Hội nghị Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ - CG 2005, Hà Nội ngày 06-07/12/2005” [26]
  9. - Việc phân bổ còn bất hợp lý về ngành, vùng. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp như trước, bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt, nhiều doanh nghiệp không thể trụ nổi buộc phải giải thể hoặc phá sản. Trong những năm gần đây, chúng ta đã tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nước, do đó mặc dù số lượng các doanh nghiệp đã giảm từ 12.084 (tính đến ngày 01/4/1994) xuống hiện còn hơn 3.700 doanh nghiệp Nhà nước (tính đến hết năm 2005) 3 , nhờ sự đổi mới về tổ chức quản lý, về kỹ thuật và công nghệ của các doanh nghiệp còn lại, tỷ trọng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của khu vực kinh tế Nhà nước so với toàn bộ nền kinh tế không những không giảm mà còn tăng lên đáng kể. Bảng 1.1 và 1.2 sau cho thấy rõ điều đó: Bảng 1.1: Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP (%) của Việt Nam Giai đoạn (năm) 1971-1980 1981-1985 1986-1990 1991-1997 2001-2005 Tốc độ tăng trưởng 0,4 6,4 3 7,8 đến 8,5 7,51 kinh tế bình quân “Nguồn: Tổng cục Thống kê, Trang thông tin điện tử ngày 14/4/2006 ” [23] Bảng 1.2: Tỷ trọng GDP (%) của kinh tế Nhà nước so với toàn bộ nền kinh tế Năm 1990 1991 1992 1993 1997 2000 2002 Tỷ trọng GDP của kinh tế quốc doanh so với 34,1 36 39,6 42,9 43,6 47,1 46,3 toàn bộ nền kinh tế “Nguồn: Tổng cục Thống kê, Trang thông tin điện tử ngày 14/4/2006 ” [23] Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã tăng nhanh, đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều ngành kinh tế, nhất là những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn, kỹ thuật cao và các ngành sản xuất cung ứng các hàng hóa và các dịch vụ công cộng. Đồng thời doanh nghiệp Nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân 3 “Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương, tháng 2/2006” [26]
  10. Kế hoạch 2006 600 2005 693 2004 753 2003 532 2002 164 205 2001 2000 212 1999 253 123 Giai đoạn 1992-1998 0 200 400 600 800 Hình 1.1: Thống kê số lượng doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa “Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương, tháng 2/2006” [26] Những đặc điểm trên luôn chi phối phương hướng, bước đi và biện pháp trong quá trình đổi mới ở nước ta. Sau hơn 10 năm đổi mới và sắp xếp, các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang chuyển hướng khá căn bản, đã sắp xếp lại một bước quan trọng, giảm được gần một nửa số doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp địa phương nhỏ bé, hoạt động không hiệu quả. Số lớn doanh nghiệp còn lại được tổ
  11. 1.2/ Vai trò của định giá doanh nghiệp trong tiến trình cổ phần hóa Cổ phần hóa thực chất là việc Nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ giá trị hiện có thuộc phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cho các cổ đông; hoặc giữ nguyên giá trị thuộc phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Theo nguyên tắc kế toán, giá trị tài sản của doanh nghiệp được ghi nhận theo thực tế tạo thời điểm phát sinh nghiệp vụ mua hay nhập tài sản, thông thường giá này thường khác biệt rất nhiều so với giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa doanh nghiệp. Vì vậy, để cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, cần thiết phải xác định giá trị các doanh nghiệp này. Mặt khác, giá trị thực tế của doanh nghiệp không phải chỉ là tổng cộng giá trị các tài sản hiện có trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, mà còn bao gồm cả các giá trị tài sản vô hình như lợi thế kinh doanh, giá trị thương hiệu, đội ngũ các nhà quản trị doanh nghiệp tài giỏi... Hơn nữa, cổ phần hóa giúp nền kinh tế huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. Đồng thời cổ phần hóa còn phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy vậy, tiến trình cổ phần hóa hiện nay còn diễn ra khá chậm.
  12. Trước đây, một trong những lý do chính của việc chậm cổ phần hóa là do thiếu văn bản, chính sách hướng dẫn. Nhưng từ khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP ra đời và các văn bản hướng dẫn khác cũng lần lượt được các cơ quan hữu quan ban hành, các quy định mới đã cho phép cổ phần hóa các doanh nghiệp, tổng công ty lớn, nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế như Tổng Công ty Điện lực, Tổng Công ty Hàng không, Tổng Công ty Hàng hải, Tổng Công ty Xăng-Dầu... Tuy nhiên, vẫn còn có những nguyên nhân ảnh hưởng đến tiến trình cổ phần hóa ở hầu hết các bộ, ngành, địa phương. Những nguyên nhân đó xuất phát từ nhận thức của cán bộ, công nhân viên đến cơ chế chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa; từ cơ sở pháp lý cho cổ phần hóa còn nhiều bất cập đến quy trình cổ phần hóa còn rườm rà, cứng nhắc; từ khó khăn trong việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng cho đến đặc biệt là khâu xác định giá trị tài sản doanh nghiệp rất phức tạp. Chính vì vậy, vướng mắc chủ yếu là làm thế nào xác định được giá trị doanh nghiệp một cách hợp lý và chính xác. Hiện nay, việc xác định giá trị doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn và thường bị kéo dài. Trong các doanh nghiệp Nhà nước, tài sản cố định thường được trang bị thiếu đồng bộ, công nghệ lạc hậu, lại qua nhiều lần đánh giá cho nên việc đánh giá lại giá trị của tài sản là điều không đơn giản. Nếu định giá tài sản của doanh nghiệp khi cổ phần hóa không đúng với giá trị thực thì sẽ không gây thất thoát tài sản của Nhà nước thì cũng làm giảm lợi ích của nhà đầu tư, trong đó có người lao động. Điều này dẫn đến thật khó có thể dung hòa được lợi ích của các bên để đưa ra quan điểm chung thống nhất Do vậy, để quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện đúng với chủ trương đã đề ra, yêu cầu cần thiết phải xác định lại giá trị doanh nghiệp cho sát với giá thị trường, làm cơ sở cho việc định giá bán cổ phần và hiện nay phần lớn các ý kiến đều cho rằng cơ chế tạo ra giá trị thỏa đáng của doanh nghiệp chính là giá thị trường trên cơ sở cung-cầu và cạnh tranh. 1.3/ Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp 1.3.1/ Khái niệm giá trị doanh nghiệp Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt. Đối với người đầu tư mua doanh nghiệp thì giá trị sử dụng của hàng hóa này là nó có khả năng cung ứng một lượng hàng hóa cho xã hội và thông qua đó người đầu tư thu được khoảng lợi
  13. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên mỗi doanh nghiệp có đặc điểm riêng về cơ sở vật chất kỹ thuật, về điều kiện và vị thế kinh doanh. Do vậy, mỗi doanh nghiệp đưa ra xác định giá trị là một hàng hóa đơn chiếc, cá biệt, không giống nhau giữa các doanh nghiệp. Vì thế, đòi hỏi trong việc xác định giá trị doanh nghiệp cần xem xét thận trọng và lựa chọn phương pháp phù hợp. Kết quả định giá doanh nghiệp không phải là giá cả của doanh nghiệp. Cũng giống như các loại hàng hóa khác, giá trị thị trường của doanh nghiệp chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, ... nên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp chỉ là một căn cứ cơ sở để xem xét thương lượng. 1.3.2/ Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp Từ khái niệm trên chúng ta thấy rằng, kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai sẽ quyết định giá trị doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố bao gồm các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh và các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp. Vì vậy, để xác định giá trị doanh nghiệp trước hết chúng ta phải hiểu được các nhân tố chủ yếu quan trọng và ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Có nhiều nhân tố tác động, ảnh hưởng và làm thay đổi kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Các nhân tố đó có thể là các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh hoặc cũng có thể là các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh tác động đến giá trị doanh nghiệp là các nhân tố không thuộc phạm vi kiểm soát của chính doanh nghiệp và chịu tác động bởi diễn biến kinh tế xã hội của quốc gia và những quy định, quy luật, luật lệ của Nhà nước. Thuộc dạng những nhân tố này là tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình trạng lạm phát, lãi suất tín dụng, đặc biệt là lãi suất ngân hàng, hoạt động của thị trường chứng khoán. Tất cả các nhân tố đó đều tác động đến tỷ suất hoàn vốn, thu nhập dự kiến, mức độ rủi ro và do đó có ảnh hưởng đến giá trị
  14. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh xét về một mặt nào đó cũng tác động ảnh hưởng khá lớn đến giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, các nhân tố ảnh hưởng lớn và quyết định đến giá trị doanh nghiệp lại không phải là các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh mà là các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp. Nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp là các nhân tố chủ quan thuộc về sự kiểm soát của chính bản thân doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào những nhân tố này. Nói cách khác, những nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp là những nhân tố quan trọng tạo thành giá trị doanh nghiệp. 1.3.2.1/ Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh bao gồm: Thứ nhất, môi trường kinh doanh tổng quát Môi trường kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế mức độ ổn định của đồng tiền, của tỷ giá ngoại tệ, của tỷ suất đầu tư các chỉ số trên thị trường chứng khoán... đều có tác động trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, lạm phát phi mã là biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay, mọi sự đánh giá về doanh nghiệp trong lúc này kể cả đánh giá về giá trị doanh nghiệp đều bị đảo lộn hoàn toàn. Môi trường chính trị: Sự phát triển kinh tế chỉ có thể ổn định trong một môi trường ổn định về chính trị, các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ tác động trực tiếp đến sản xuất kinh doanh, bao gồm: - Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống luật pháp. - Quan điểm, chủ trương của Nhà nước đối với sản xuất kinh doanh thông qua hệ thống luật pháp, các văn bản pháp quy. - Quan điểm bảo vệ sản xuất, bảo vệ các nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng. - Quan điểm khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài. - Quan điểm phân biệt đối xử thể hiện qua các quy định pháp luật về thuế, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ.
  15. - Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của công dân, các doanh nghiệp. - Xu hướng, quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế của chính phủ với các quốc gia khác; quan điểm cá nhân của người đứng đầu chính phủ cũng tác động tới quá trình sản xuất kinh doanh. Môi trường văn hóa xã hội: Mỗi doanh nghiệp tồn tại trong một môi trường văn hóa nhất định: lối sống, văn hóa, tác phong, quan niệm về chân thiện mỹ, quan niệm về nhân cách; về văn minh xã hội thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng. Môi trường xã hội thể hiện ở môi trường số lượng cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ dân số, thu nhập bình quân đầu người. Môi trường kỹ thuật công nghệ: Các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong đời sống vật chất, đời sống tinh thần của con người, hàm lượng tri thức có khuynh hướng gia tăng trong giá thành sản phẩm. Ở góc độ doanh nghiệp đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của doanh nghiệp, sự thiếu nhạy bén trong việc chiếm lĩnh những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa doanh nghiệp đến chỗ phá sản. Thứ hai, môi trường kinh doanh đặc thù Quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng: Thị trường là yếu tố quyết định đến đầu ra đối với sản phẩm của doanh nghiệp, thị trường đối với một doanh nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, khách hàng của doanh nghiệp có thể là tổ chức, cá nhân; có thể là khách hàng hiện tại hoặc trong tương lai; thông thường khách hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh nghiệp nhưng cũng có trường hợp khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, muốn đánh giá đúng doanh nghiệp cần phải xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng. Quan hệ giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp: Trong quan hệ giữa các nhà cung cấp, doanh nghiệp đóng vai trò như là thượng đế. Tuy nhiên, có thể do tính khan hiếm của nguyên vật liệu, do số lượng nhà cung cấp không đủ lớn làm cho các nguồn cung cấp của doanh nghiệp không ổn định. Khi đánh giá doanh nghiệp ta phải xét đến sự phong phú của các nguồn cung cấp, số lượng, chủng loại
  16. Quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh: Ngày nay được sự ủng hộ từ phía Nhà nước, trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt, điều này vừa là cơ hội song cũng vừa là thách thức đối với doanh nghiệp. Do vậy, khi đánh giá năng lực cạnh tranh, chúng ta phải xem xét trên các mặt về giá cả, chất lượng, dịch vụ bảo hành sửa chữa. Ngoài ra, cần xem xét số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, năng lực thực sự và thế mạnh của họ là gì, chỉ ra các yếu tố mầm mống có thể làm xuất hiện các đối thủ mới. Có như vậy mới kết luận đúng vị thế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan Nhà nước: Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp nói chung được quyền chủ động hoàn toàn trong sản xuất kinh doanh, tuy nhiên sự hoạt động của doanh nghiệp luôn được đặt với sự kiểm tra của cơ quan Nhà nước. Các tổ chức này giám sát doanh nghiệp, đảm bảo việc hoạt động của các doanh nghiệp không được vượt quá những quy ước xã hội, luật pháp của Nhà nước. 1.3.2.2/ Các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp Các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp gồm có: Một là, hiện trạng về tài sản doanh nghiệp Tài sản trong doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Tùy thuộc vào loại hình sản xuất hay kinh doanh thương mại-dịch vụ mà cơ cấu tài sản trong các doanh nghiệp sẽ khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, trình độ của trang thiết bị và công nghệ sản xuất là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng, số lượng sản phẩm sản xuất ra. Chính vì vậy, đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất, khối lượng, trình độ trang thiết bị máy móc và dây chuyền công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định kết quả sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại-dịch vụ: quá trình sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với quá trình lưu thông, phân phối
  17. Như vậy, hiện trạng tài sản cố định (bao gồm cả số lượng và trình độ công nghệ) có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Tài sản cố định càng lớn, càng hiện đại, càng làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Ngược lại, tài sản cố định càng lạc hậu, không đồng bộ, càng làm giảm giá trị doanh nghiệp. Mặt khác, trong một số trường hợp, người mua không quan tâm ngay đến kết quả sản xuất kinh doanh và khả năng phát triển của doanh nghiệp mà họ lại quan tâm vào hiện trạng của tài sản vì rủi ro có thể xảy ra, liên quan đến việc phải thay thế tài sản cố định mới hoặc phải tốn thêm chi phí để bổ sung thêm trang thiết bị đảm bảo cho sự đồng bộ của dây chuyền sản xuất. Vì vậy, giá trị và tình trạng hiện thời của tài sản cố định luôn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Hai là, trình độ quản lý Một yếu tố khác ảnh hưởng khá quan trọng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp là bộ máy quản lý. Một doanh nghiệp với đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, được sự hỗ trợ tích cực của bộ máy điều hành năng động chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. Ở các nước phát triển, khi nhà đầu tư dự định tài trợ hoặc đầu tư vào một doanh nghiệp nào đó, họ rất quan tâm đến vấn đề này. Khi đã tin tưởng vào đội ngũ quản lý giỏi đặt dưới sự điều hành của một giám đốc năng động, có trình độ, họ sẵn sàng đầu tư và có thể chấp nhận trả giá cao. Một bộ máy quản lý tốt, đồng bộ sẽ tạo điều kiện sử dụng tốt nhất, có hiệu quả nhất tài sản tiền vốn của doanh nghiệp, từ đó sẽ gia tăng thu nhập từ kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Không chỉ có vậy, trình độ quản lý giỏi của lãnh đạo doanh nghiệp còn tạo điều kiện ổn định và không ngừng nâng
  18. Ba là, vị trí ngành nghề kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường, vị trí ngành nghề kinh doanh có ảnh hưởng quan trọng đến giá trị doanh nghiệp. Một ngành nghề kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao, ổn định và đang có xu hướng phát triển, mở rộng thì các doanh nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh đó sẽ được quan tâm hơn và như vậy, các doanh nghiệp đó sẽ có giá trị lớn hơn. Ngược lại, các doanh nghiệp ở những ngành nghề kinh doanh đang có xu hướng co lại, tỷ suất lợi nhuận thấp và rủi ro cao thì giá trị cũng bị giảm đi. Bốn là, vị trí địa lý Một doanh nghiệp có vị trí thuận tiện, gần các trung tâm kinh doanh thương mại sầm uất, thuận tiện trong việc vận chuyển thì kinh doanh có rất nhiều thuận lợi trong việc quan hệ, giao dịch với khách hàng; nhanh nhạy với nhu cầu thị hiếu của khách hàng để điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình... Ngoài ra, một vị trí địa lý tốt sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm được chi phí vận chuyển thành phẩm đi tiêu thụ, từ đó doanh nghiệp giảm giá vốn hàng hóa, tăng tỷ suất lợi nhuận, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vị trí địa lý tốt sẽ là lợi thế của doanh nghiệp và chắc chắn sẽ được nhà đầu tư đánh giá cao, từ đó làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Năm là, trình độ tay nghề của người lao động Trong các doanh nghiệp, trình độ tay nghề của người lao động càng cao càng tạo điều kiện cho việc sản xuất ra các sản phẩm đạt chất lượng cao. Hơn thế nữa, trình độ lành nghề của người lao động sẽ tạo ra năng suất lao động cao, sản phẩm sản xuất ra nhiều với giá thành thấp do sử dụng tiết kiệm nhiên vật liệu và giảm chi phí quản lý trên một đơn vị sản phẩm. Vì vậy, người ta luôn cho rằng:
  19. Một đội ngũ những người lao động lành nghề, làm việc với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao không phải doanh nghiệp nào cũng có. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề của người lao động nếu được sở hữu hay quản lý doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không có đội ngũ lao động lành nghề thì năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó sẽ thấp từ đó giá trị của doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống. Mặt khác, vì người mua sẽ phải tốn thêm chi phí để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công nhân nên tất yếu trong sự trù tính của họ sẽ trừ khoản chi phí đó vào giá trị doanh nghiệp. Sáu là, các báo cáo chứng từ tài chính của doanh nghiệp Báo cáo tài chính của doanh nghiệp gồm nhiều loại báo cáo nhằm phản ánh tình hình tài chính và kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian nhất định nhưng quan trọng nhất vẫn là bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhìn chung, qua việc nghiên cứu các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp giúp ta thấy được các nhân tố làm gia tăng giá trị và các nhân tố làm giảm giá trị doanh nghiệp, trong đó có những nhân tố có thể định lượng được, nhưng cũng có những nhân tố không định lượng được, đòi hỏi người làm công tác xác định giá ngoài những hiểu biết chuyên môn còn phải có giác quan nghề nghiệp nhạy cảm và khả năng thuyết phục người đầu tư. Đối với bên bán, sau khi nắm được các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp, họ sẽ tìm thấy những điểm yếu của doanh nghiệp mình mà cần phải cố gắng cải thiện những điểm yếu đó trước khi đưa ra bán. Họ sẽ tìm mọi cách để nêu bật các điểm mạnh của doanh nghiệp nhằm tăng thêm giá trị cho doanh nghiệp. Người bán phải phân tích cho được những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp mình dưới lăng kính người mua. Đối với người mua, hiểu được các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp sẽ giúp người mua nắm được thực chất giá trị doanh nghiệp mà mình đang quan tâm. Và điều quan trọng hơn là qua phân tích của bản thân và
  20. 1.4/ Những phương pháp định giá doanh nghiệp 1.4.1/ Khái niệm về xác định giá trị doanh nghiệp Xác định giá trị doanh nghiệp là sự kết hợp giữa nghệ thuật và khoa học. Mục tiêu cuối cùng là doanh nghiệp sẽ có giá trị sao cho người mua sẵn lòng trả tiền để có nó. Tuy vậy, có rất nhiều cách thức để xác định giá trị doanh nghiệp. Thông thường người ta sẽ tính giá trị doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau, và được nhiều kết quả khác nhau, sau đó họ sẽ lấy giá trị trung bình của các kết quả khác nhau này. Việc đánh giá về mặt tài chính có quan hệ tới doanh nghiệp như vật trao đổi giữa người mua và người bán dựa trên một thị trường có tổ chức (ví dụ thị trường chứng khoán) mà giá cả tuỳ thuộc vào khả năng kiếm được lợi nhuận trong việc sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ của bản thân doanh nghiệp. Xác định giá trị có thể liên quan đến doanh nghiệp trong nhiều thời điểm khác nhau của chính đời sống của doanh nghiệp: Từ giai đoạn lập dự án, thành lập doanh nghiệp; giai đoạn hoạt động; giai đoạn thanh lý, giải thể. Tuy nhiên, thường thì việc định giá xảy ra vào lúc có chuyển nhượng quyền sở hữu của một doanh nghiệp đang hoạt động, nghĩa là một doanh nghiệp đã có một quá khứ cụ thể hóa bằng một sở hữu tài sản, nhưng cũng đảm bảo được một tương lai. 1.4.2/ Những phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phổ biến trên thế giới 1.4.2.1/ Phương pháp vốn hóa thu nhập Một phương pháp thường được dùng để định giá một doanh nghiệp là phương pháp vốn hoá thu nhập, phương pháp này đề cập đến khoản thu nhập trên số vốn đầu tư đang được nhà đầu tư mong đợi. Có rất nhiều sự đa dạng trong cách áp dụng phương pháp này. Tuy nhiên, bản chất logic là giống nhau. Công thức tính như sau: BV = CF (1.1)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2