intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của nhà đầu tư trên sàn chứng khoán

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

38
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kiểm tra liệu các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán có hoàn toàn dựa trên lý trí khi đưa ra quyết định đầu tư hay họ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý khác; kiểm tra xem có sự khác biệt trong việc ra quyết định đầu tư giữa nhóm nhà đầu tư có kinh nghiệm và ít kinh nghiệm không.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của nhà đầu tư trên sàn chứng khoán

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---------- HUỲNH THANH NHÃ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---------- HUỲNH THANH NHÃ Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Nghiên cứu hành vi của nhà đầu tư trên sàn chứng khoán” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn này là trung thực, các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc, và các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn này chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác Tp.HCM ngày 20 tháng 9 năm 2013 Người cam đoan HUỲNH THANH NHÃ
  4. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian học tập, nghiên cứu và viết luận văn này, tôi luôn nhận được sự hướng dẫn tận tình, những lời động viên, khích lệ tinh thần, cũng như thấu hiểu, sự giúp đỡ to lớn từ các Thầy Cô giáo, Gia đình và Bạn bè. Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và nghiên cứu. - Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, thực hiện và hoàn thành luận văn này. Với kiến thức và kinh nghiệm sâu rộng mà Cô truyền dạy lại cho tôi đã làm cho luận văn này trở thành một tài sản quý báu và vô giá trong cuộc đời tôi. - Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các quý Thầy Cô của khoa Tài Chính Doanh Nghiệp nói riêng và trường ĐH Kinh Tế Tp.HCM nói chung đã giành hết tâm huyết để giảng dạy và truyền đạt cho tôi những kiến thức mới mẻ và bổ ích, làm nền tảng để tôi hoàn thành luận văn này. - Con xin được gửi một lời cảm ơn đặc biệt nhất đến Mẹ và Bố, hai người đã hy sinh vì con rất nhiều, suốt cả 4 năm con học Đại học và 2 năm Cao học, động viên con mỗi khi con gặp khó khăn, để rồi từ tình thương của Bố Mẹ con đã hoàn thành được luận văn thạc sĩ, một sự nỗ lực rất lớn từ cả gia đình mình. - Cảm ơn gia đình, em trai đã ở bên canh và khuyến khích tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. - Các anh chị em bạn bè lớp Cao học TCDN đêm 3 K21 và lớp Đại cương đêm 12 K21 Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã cùng nhau trao đổi, chia sẻ kiến thức trong suốt quá trình tham gia khóa học.
  5. - Những anh chị em đã tham gia khảo sát cho đề tài này. Các bạn đã góp một phần không nhỏ vào luận văn này của tôi.
  6. MỤC LỤC 1. TỔNG QUAN .............................................................................................................. 1 1.1. Tóm tắt: .................................................................................................................. 1 1.2. Giới thiệu ............................................................................................................... 1 1.3. Mục tiêu nghiên cứu: ............................................................................................. 3 2. KHUNG LÝ THUYẾT và CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÀI CHÍNH HÀNH VI ......................................................................................................................... 4 2.1. Những lý thuyết hành vi của con người ................................................................ 4 2.1.1. Lý thuyết triển vọng ........................................................................................ 5 2.1.2. Lý thuyết ra quyết định dựa trên kinh nghiệm chủ quan (Heuristics) ............ 7 2.2. Một số nghiên cứu thực nghiệm: ........................................................................... 8 2.3. Những xu hướng hành vi ..................................................................................... 12 2.3.1. Xu hướng quá tự tin (Overconfidence) ......................................................... 13 2.3.2. Xu hướng đại diện (Representativeness)....................................................... 14 2.3.3. Xu hướng bầy đàn (Herding) ........................................................................ 15 2.3.4. Xu hướng “Neo” (Anchoring) ....................................................................... 16 2.3.5. Xu hướng Bất hòa trong nhận thức (Cogintive dissonance) ......................... 17 2.3.6. Xu hướng Sợ hối hận (Fear of regret) .......................................................... 18 2.3.7. Xu hướng Gian lận con bạc (Gambler's fallacy) ........................................... 19
  7. 2.3.8. Xu hướng Kế toán (Mental Accounting) ...................................................... 20 2.3.9. Xu hướng nhận thức muộn (Hindsight) ........................................................ 20 2.4. Tài chính hành vi và việc ra quyết định............................................................... 20 3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN............................................................................................ 23 3.1. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................. 23 3.2. Mẫu khảo sát ........................................................................................................ 24 3.3. Thu thập dữ liệu ................................................................................................... 24 3.4. Các giả thuyết: ..................................................................................................... 25 3.5. Các phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 25 3.5.1. Phân tích sự khác biệt (Discriminant Analysis) ............................................ 25 3.5.2. Phương pháp tính điểm có trọng số: ............................................................. 27 3.5.3. Kiểm định Chi – bình phương cho sự độc lập............................................... 27 4. Các kết quả nghiên cứu .............................................................................................. 29 4.1: Phân tích sơ bộ và Kiểm tra Đa cộng tuyến ........................................................ 29 4.2. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lên danh mục đầu tư ............. 32 4.3. Phân tích sự khác biệt: ......................................................................................... 33 4.4. Phân tích xu hướng và kiểm định giả thiết .......................................................... 40 4.4.1. Quá tự tin (Overconfidence).......................................................................... 40 4.4.2. Tính đại diện (Representativeness) ............................................................... 43
  8. 4.4.3. Xu hướng bầy đàn (Herding) ........................................................................ 47 4.4.4. Xu hướng Neo (Anchoring) .......................................................................... 54 4.4.5. Xu hướng Bất hòa trong nhận thức (Cognitive dissonance) ......................... 56 4.4.6. Xu hướng Sợ hối hận (Fear of Regret) .......................................................... 59 4.4.7. Xu hướng gian lận con bạc (Gambler's fallacy) ............................................ 61 4.4.8 Xu hướng kế toán(Mental Account)............................................................... 64 4.4.9. Xu hướng nhận thức muộn (Hindsight) ........................................................ 67 5. TÓM TẮT KẾT QUẢ VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................... 70 5.1. Tóm tắt: ................................................................................................................ 70 5.2. Một số kết quả chính............................................................................................ 70 5.3. Kiến nghị.............................................................................................................. 73 5.3.1. Đối với các nhà đầu tư: ................................................................................. 73 5.3.2. Kiến nghị khác............................................................................................... 74 6. KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TƯƠNG LAI ........................................ 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 78
  9. 1 1. TỔNG QUAN 1.1. Tóm tắt: Những biến động khắc nghiệt đã gây cản trở sự hoạt động của thị trường tài chính toàn cầu trong những năm 2008. Tâm lý của các nhà đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự thay đổi của thị trường. Trong luận văn này, việc nghiên cứu vai trò của những cảm xúc như sợ hãi, tham lam và dự đoán khi đưa ra quyết định đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng. Tài chính hành vi là một lĩnh vực mới nghiên cứu các yếu tố tâm lý ảnh hưởng như thế nào đến quyết định của các nhà đầu tư. Luận văn này nhằm tìm ra ảnh hưởng của những xu hướng hành vi, bao gồm: Sự quá tự tin, Tính đại diện, tính Bầy đàn,, tính Neo, Bất hòa trong nhận thức, Sợ hối hận, Gian lận con bạc, Sai lầm kế toán và Sự nhận thức muộn, đến quá trình đưa ra quyết định của các nhà đầu tư cá nhân trên sàn chứng khoán. Dữ liệu sơ cấp của luận văn này được tập hợp bằng cách phân phát cho các nhà đầu tư một bảng câu hỏi. Họ được chia thành 2 nhóm: nhóm có kinh nghiệm và nhóm ít kinh nghiệm 1.2. Giới thiệu “Một trong những sự thật thú vị trên thị trường chứng khoán đó là mỗi lần một người mua, một người bán, thì cả 2 đều nghĩ mình sắc sảo hơn người còn lại” - William Feather. Mô hình tài chính truyền thống cố gắng để chứng minh việc các nhà đầu tư sử dụng mô hình để đưa ra quyết định của mình là dựa trên lý trí. Mặc dù nhiều lý thuyết truyền thống vẫn còn tồn tại và phát triển qua nhiều thập kỷ, nhưng lý trí của nhà đầu tư là một giả thuyết trung tâm cần xem xét. Theo Nofsinger (2001), lĩnh vực tài chính đã phát triển trong vài thập kỷ qua, dựa trên giả thuyết là người ta đưa ra những quyết định mang tính lý trí và họ không có xu hướng nghiêng về dự đoán tương lai. Người ta nghĩ rằng các nhà đầu tư hẳn là phải dựa nhiều vào lý trí để có những quyết định mang
  10. 2 tính khả thi. Một nhà đầu tư được xem là lý trí khi (i) người đó luôn cập nhật niềm tin của mình và bày tỏ thái độ khi nhận được thông tin mới, (ii) có những lựa chọn có thể chấp nhận được. (Thaler, 2005). Trong những cái được xem như là “bất thường”, thì việc nền kinh tế thế giới bị sụp đổ bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 là một kết quả. Phần lớn các nhà kinh tế học và những chuyên gia kinh tế chiếm giữ những ghế quan trọng trong chính phủ và các tổ chức tài chính bị bắt bất ngờ và kéo theo đó là những sự kiện như phá sản, vỡ nợ. Thậm chí sau khi cuộc khủng hoảng đã bắt đầu, nhiều người trong số họ vẫn không thể phân tích được cường độ của nó. Ngược một chút về quá khứ, trường hợp của một quỹ bảo hộ có tên là Long Term Capital Management cần được nhắc đến. Mặc dù được hợp tác với cựu phó chủ tịch của Hội đồng dự trữ liên bang, đạt được 2 giải Nobel về kinh tế, nhân viên bao gồm 24 thạc sĩ, họ cũng rơi vào thất bại (Nofsinger, 2001). Sự thất bại của những nhà kinh tế và những học thuyết của họ, đã đưa ra một câu hỏi: Có phải các nhà đầu tư là dựa vào lý trí không ? Hay là họ bị ảnh hưởng bởi những cuộc chiến của cảm xúc như là sợ hãi và tham lam, điều mà sẽ dẫn đến những quyết định xấu. Bernstein (1998) nói rằng “Bằng chứng cho thấy những mô hình được lặp đi lặp lại với sự không hợp lý, không thống nhất và thiếu hợp lý trong cách con người đưa ra quyết định và khi đối mặt với sự không chắc chắn”. Nofsinger (2001) nói rằng những giả thuyết về tính lý trí và sự không thiên về xu hướng của con người đã bị đánh bại bởi các nhà tâm lý học trong khoảng thời gian dài. Những nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm của 2 nhà tâm lý học Daniel Kahneman và Amos Tversky đóng vai trò là nền tảng và đưa ra một lý thuyết mới trong những năm 1980, được gọi là Tài chính hành vi. Từ một quan điểm học thuật, một trong những lý do chính cho sự xuất hiện của lý thuyết Tài chính hành vi là vì có quá nhiều khó khăn khác nhau phải đối mặt trong những lý thuyết truyền thống. Các nhà khoa học tranh luận rằng, nếu các giả thuyết về
  11. 3 lý trí được nới lỏng, các hiện tượng tài chính khác nhau sẽ dễ hiểu hơn. Sau đó, các mô hình khác nhau ra đời. Nó nhấn mạnh rằng mục tiêu chính của tài chính hành vi thì không được chứng minh trong những lý thuyết hiện có, bởi vì nếu những giả thuyết đó không thể chứng minh những kịch bản khó hiểu thành công, chúng sẽ không còn tồn tại nữa. Vì vậy, điều mà Tài chính hành vi cần thiết để đạt đến đó là bổ sung các lý thuyết truyền thống bằng cách kết hợp nó với nhận thức tâm lý, với nỗ lực nhằm tạo ra một mô hình hoàn chỉnh trong việc đưa ra quyết định của các nhà đầu tư . (Thaler, 2005) Từ một quan điểm của một người đang nghiên cứu, Tài chính hành vi xác định những xu hướng dẫn đến những hành xử bất hợp lý của con người nhằm đưa ra quyết định tối ưu. Với một nhà đầu tư thông minh nắm bắt được tầm quan trọng của Tài chính hành vi, tất cả những gì anh ta phải làm được phản ánh trên quyết định đầu tư. Con người dễ bị ảnh hưởng bởi những hành vi bất thường, điều này có thể là trở ngại lớn nhất trong nỗ lực tối đa hóa tài sản của họ. Điều đó có nghĩa là các nhà đầu tư có kinh nghiệm không phải là không có sai sót, chỉ là họ hiểu tầm quan trọng của những cảm xúc trong kinh doanh, và cố gắng không để tâm trí của mình bị lẫn vào cảm xúc khi đưa ra quyết định đầu tư bằng cách theo 2 bước dưới đây (i) hiểu cảm xúc của chính mình và điểm yếu tâm lý bằng cách nghiên cứu những sự bất thường hoặc “xu hướng” và xác định xem anh ta đã mắc phải sai lầm trong quá khứ chưa hoặc có một xu hướng nào đó trong tương lai không; và (ii) sau khi đã đạt được mục đích ở bước trước đó rồi, hiểu cách hành xử vô lý của những người khác và hưởng lợi từ các sai lầm đó (Parikh, 2011). 1.3. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là : - Kiểm tra liệu các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán có hoàn toàn dựa trên lý trí khi đưa ra quyết định đầu tư hay họ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý khác.
  12. 4 - Kiểm tra xem có sự khác biệt trong việc ra quyết định đầu tư giữa nhóm nhà đầu tư có kinh nghiệm và ít kinh nghiệm không. Nghiên cứu tập trung vào 9 xu hướng hành vi, bao gồm: Sự quá tự tin, Tính đại diện, tính Bầy đàn,, tính Neo, Bất hòa trong nhận thức, Sợ hối hận, Gian lận con bạc, Sai lầm kế toán và Sự nhận thức muộn. Tác động của 9 yếu tố này được phân tích trên sàn chứng khoán Hồ Chí Minh. Ảnh hưởng được phân tích là có hay không có sự tác động của các yếu tố hành vi đến việc mua/bán hoặc nắm giữ cổ phần. Dữ liệu chính của nghiên cứu được tập hợp từ một bảng câu hỏi điều tra. Bảng câu hỏi được phát cho các nhà đầu tư trên sàn môi giới và được đăng trực tuyến để tiếp cận các nhà đầu tư thích giao dịch qua internet hơn. Kết quả cuối cùng bao gồm 104 nhà đầu tư được chia thành 2 khu vực theo độ tuổi và theo số năm kinh nghiệm: Nhà đầu tư có kinh nghiệm là những người có trên 5 năm kinh nghiệm, còn nhà đầu tư trẻ thì có ít hơn hoặc 5 năm kinh nghiệm. Với mỗi xu hướng, sẽ sử dụng kỹ thuật “Thang đo 3 điểm, 5 điểm” của Likert. Một phân tích tổng thể sẽ được thực hiện bằng cách sử dụng phân tích Sự khác biệt, để kiểm tra xem hành vi của nhà đầu tư trẻ và nhà đầu tư có kinh nghiệm có khác nhau không? Thêm nữa, mỗi một xu hướng sẽ được phân tích riêng rẽ ở mỗi nhóm bằng các sử dụng phương pháp Chấm điểm theo trọng số và Chi – bình phương cho sự độc lập. 2. KHUNG LÝ THUYẾT và CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÀI CHÍNH HÀNH VI 2.1. Những lý thuyết hành vi của con người Tài chính hành vi là một nhánh của tài chính, nghiên cứu hành vi của các nhà đầu tư trên thị trường như thế nào và ảnh hưởng của những yếu tố tâm lý đến việc đưa ra quyết định mua hoặc bán, do đó tác động đến giá cả. Tài chính hành vi nhằm giải thích lý do tại sao lại hợp lý để tin rằng thị trường là không hiệu quả.
  13. 5 Do đó, tài chính hành vi có thể được định nghĩa như một lĩnh vực tài chính, với mục đích là giải thích những sự bất thường trên thị trường chứng khoán bằng cách sử dụng những xu hướng tâm lý học, còn hơn là gạt bỏ chúng như “một kết quả phù hợp với thị trường hiệu quả” (theo Fama, 1998). Người ta giả định là các nhà đầu tư cá nhân và kết quả thị trường bị ảnh hưởng bởi các thông tin cấu trúc và các đặc điểm khác nhau của những người tham gia thị trường. 2.1.1. Lý thuyết triển vọng Lý thuyết này được hình thành bởi Kahneman and Tversky (1979) và sau đó Daniel Kahneman đã giành được giải thưởng Nobel cho lĩnh vực Kinh tế. Lý thuyết này chia thành 2 giai đoạn trong quá trình lựa chọn: giai đoạn hình thành (hoặc chỉnh sửa), giai đoạn ước lượng. Tversky and Kahneman, 2 người phát minh ra lý thuyết này, cho thấy con người kiểm soát sự rủi ro và sự không chắc chắn như thế nào. Về bản chất, lý thuyết này giải thích sự bất thường trong hành vi của con người khi đánh giá rủi ro và sự không chắc chắn. Nó nói rằng: con người không phải lúc nào cũng sợ rủi ro, hay đúng hơn là họ sợ rủi ro trong lợi nhuận hơn là rủi ro trong thua lỗ. Con người đặt nhiều hy vọng vào kết quả, vì kết quả có thể nhận biết được chính xác hơn là dự đoán, một đặc trưng được biết đến như là: “hiệu quả chắc chắn” (Kahneman and Tversky, 1979). Lựa chọn của con người cũng bị ảnh hưởng bởi “hiệu ứng khuôn khổ”. Tác động này chỉ ra cách mà trong đó, vấn đề giống nhau được biểu hiện bằng nhiều cách khác nhau và tác động đến việc ra quyết định. Nó cũng chứng minh được những sự đảo chiều có hệ thống của xu hướng khi vấn đề tương tự nhau được biểu diễn ở những cách khác nhau (Tversky and Kahneman, 1981). Chức năng tối đa hóa giá trị trong lý thuyết triển vọng thì khác so với lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại. Trong lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại, việc tối đa hóa tài sản thì dựa trên vị thế cuối cùng của tài sản trong khi lý thuyết triển vọng quan tâm đến lợi nhuận và thua lỗ. Một khía cạnh quan trọng của quá trình hình thanh khung nữa đó
  14. 6 là con người có xu hướng cho rằng kết quả của việc kinh doanh là lợi nhuận và thua lỗ, chứ không phải là tình trạng cuối cùng của tài sản. Lợi nhuận và thua lỗ được xác định là có liên quan đến một điểm tham chiếu trung lập nào đó và những sự thay đổi được đo lường một cách tương đối chứ không phải là đo lường một cách tuyệt đối (Kahneman và Tversky, 1979). Khi nó liên quan đến đầu tư trên thị trường, điểm tham chiếu là giá mua của cổ phiếu. Thật vậy, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm cho rằng giá mua của cổ phiếu dường như là một trong số những điểm tham chiếu được sử dụng bởi các nhà đầu tư . tuy nhiên, cũng có thể có một vài điểm tham chiếu bổ sung ảnh hưởng đến một nhà đầu tư. Ví dụ, giá cổ phiếu tối đa trong lịch sử lợi nhuận gần đây được phát hiện là ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư. Yếu tố trung tâm nhất của lý thuyết triển vọng là hàm giá trị hình chữ S. Hàm giá trị được định nghĩa về những sự thay đổi trong tài sản chứ không đề cập đến tình trạng cuối cùng của tài sản. Hình dạng của hàm thì lõm trong khu vực lợi nhuận, và lồi trong khu vực thua lỗ phản ánh sự lo ngại rủi ro trong phạm vi lợi nhuận, sự ưa thích rủi ro trong khu vực thua lỗ. Một đặc tính hấp dẫn của hàm giá trị nữa là nó có độ dốc cao nhất tại điểm tham chiếu. Điều này nghĩa là một sự thay đổi trong lợi nhuận hoặc thua lỗ có một ảnh hưởng nhỏ hơn trên giá trị, điều này được nhận biết bởi các nhà đầu tư khi khoảng cách giữa các điểm tham chiếu là lớn. Lý thuyết triển vọng
  15. 7 tranh luận rằng khi lựa chọn giữa các trò chơi may rủi, con người tính toán lợi nhuận và thua lỗ và sau đó chọn một trong hai xét theo lợi ích về sau. Trong bối cảnh tài chính, điều này đề nghị con người có thể chọn cách phân bổ danh mục đầu tư bằng cách tính toán, với mỗi sự phân bổ, lợi ích và thua lỗ tiềm năng trong giá trị cổ phần mà họ năm giữ, và sau đó chọn một sự phân bổ có lợi ích cao nhất sau này . 2.1.2. Lý thuyết ra quyết định dựa trên kinh nghiệm chủ quan (Heuristics) “Heuristics là những quy luật hiệu quả, đơn giản, được sử dụng để giải thích việc con người đưa ra quyết định đầu tư như thế nào, nhìn nhận và giải quyết vấn đề, tiêu biểu là khi đối mặt với những vấn đề phức tạp và thông tin chưa hoàn chỉnh. Những nguyên tắc này làm việc tốt ở hầu hết các trường hợp, nhưng trong một vài trường hợp nhất định, nó dẫn đến các xu hướng nhận thức dựa theo kinh nghiệm”. - Daniel Kahneman (Parikh, 2011). Tversky và Kahneman xác nhận sự ảnh hưởng của Heuristics đến việc đưa ra quyết định. Tversky định nghĩa heuristic như là một chiến lược, có thể được sử dụng cho nhiều vấn đề, thường – không phải là luôn luôn – mang lại một giải pháp chính xác. Con người thường sử dụng heuristics để làm giảm sự phức tạp trong cách giải quyết vấn đề (Tversky và Kahneman, 1981). Quá trình quyết định dựa trên heuristics là một quá trình mà các nhà đầu tư tự mình nhận thấy những điều, thường là bằng cách thử và sai, dẫn đến sự phát triển của quy tắc ngón tay cái. (Luật ngón tay cái là một quy luật dựa trên kinh nghiệm, thói quen của con người chứ không phải dựa trên khoa học hay là sự đo lường chính xác.) Con người thì không có khả năng xử lý toàn bộ các thông tin được thể hiện hàng ngày. Trong khi tích lũy kinh nghiệm thông qua quá trình làm một việc gì đó, những kinh nghiệm này cho thấy những ấn tượng về việc đó hoạt động như thế nào. Quá trình này tạo ra quy tắc ngón tay cái , con người có thể sử dụng khi gặp phải một tình huống tương tự. Hiện tượng này được gọi là sử dụng dựa trên kinh nghiệm chủ quan
  16. 8 heuristics. Nó cũng có liên quan đến nền kinh tế hiện đại, khi số lượng các công cụ tài chính và mật độ thông tin tăng lên một cách đáng kể. Sử dụng heuristics cho phép đẩy nhanh tiến độ của việc đưa ra quyết định tài chính so với việc xử lý theo lý trí những thông tin sẵn có. Ưu điểm của điều này là có thể tiết kiệm được thời gian, trong khi nhược điểm chính đó là nó phụ thuộc vào kinh nghiệm trước đây. Những mô hình tài chính truyền thống loại bỏ heuristic và giả định tất cả các quyết định đều dựa trên những công cụ thống kê có lý trí (Shefrin, 2000). 2.2. Một số nghiên cứu thực nghiệm: Một vài nghiên cứu thực nghiệm có giá trị được tóm tắt sau đây: Hoffmann, Shefrin and Pennings (2010) phân tích những sự khác biệt có hệ thống trong danh mục của các nhà đầu tư và chiến lược ảnh hưởng đến danh mục đầu tư họ chọn lựa như thế nào và lợi nhuận họ kiếm được. Những phân tích trong nghiên cứu này được thực hiện trên những hồ sơ giao dịch của một mẫu khách hàng (65,325 tài khoản cá nhân với trên 9 triệu lượt giao dịch từ tháng 1/2000 đến tháng 3/2006), từ trang môi giới trực tuyến lớn nhất ở Hà Lan. Dữ liệu được thu thập thông qua 1 bảng câu hỏi. Kết quả có thể hữu ích với những nhà hoạch định chính sách. Người ta nhận ra rằng các nhà đầu tư nào mà dựa vào các phân tích cơ bản thì sẽ có doanh thu và kỳ vọng cao hơn, chịu nhiều rủi ro hơn, và quá tự tin, làm tốt hơn các nhà đầu tư mà dựa vào phân tích kỹ thuật. Chandra (2008) nghiên cứu tác động của các yếu tố hành vi và tâm lý của nhà đầu tư khi đưa ra quyết định, và kiểm tra phản ứng của họ với rủi ro và hành vi ra quyết định. Nghiên cứu này dựa vào dữ liệu thứ cấp. Thông qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy không giống như lý thuyết tài chính truyền thống đã nói, các nhà đầu tư cá nhân không phải lúc nào cũng đưa ra quyết định một cách lý trí. Quyết định đầu tư bị ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố hành vi như sự tham lam và sợ hãi, bất hòa trong nhận
  17. 9 thức, cảm tính, kế toán, và Neo. Những yếu tố hành vi này được xem như là yếu tố rủi ro trong khi đưa ra quyết định đầu tư. Chira, Adams và Thornton (2008) nhắm đến việc nghiên cứu sự nhận thức muộn và cảm tính, điều mà các nhà đầu tư là sinh viên phải gánh chịu. Mục đích của nghiên cứu này là xem xét các sinh viên bị ảnh hưởng bởi những xu hướng này như thế nào. Một cuộc khảo sát được tổ chức với mẫu bao gồm 68 sinh viên ở đại học Jacksonville của Mỹ trong suốt tháng 11/2007 bằng cách phát hành một bảng câu hỏi và thu thập bằng chứng thực nghiệm từ cả sinh viên tốt nghiệp và chưa tốt nghiệp về sự am hiểu của họ về các xu hướng. Nghiên cứu kết luận rằng các sinh viên thì ít có khuynh hướng về sự quá tự tin hoặc quá chủ quan. Họ không bị đánh lừa bởi những xu hướng kiểm soát và một xu hướng tương tự như cảm tính. Sairafi, Selleby and Stahl (2008) trong nghiên cứu của mình: “Tài chính hành vi – Một góc nhìn của sinh viên” kiểm định những đặc trưng của các sinh viên có quan tâm đến đầu tư, quá trình họ đưa ra quyết định và những sự lựa chọn bắt nguồn từ sự am hiểu về tài chính hành vi. nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận riêng và dữ liệu định tính. Dữ liệu được thu thập thông qua một bảng câu hỏi được đăng trên Internet. Trong nghiên cứu, hành vi bầy đàn được được xem như là yếu tố hành vi rõ ràng nhất. Nghiên cứu này nhận thấy rằng hành vi của những người tham gia được miêu tả như là “hành vi sinh viên”; một hành vi không hợp lý nào đó được giải thích bởi môi trường và quá trình học tập mà sinh viên kinh doanh tồn tại. Cipriani và Guarino (2008) nghiên cứu hành vi tài chính trên thị trường thực nghiệm với sự tham gia của các chuyên gia tài chính. Nghiên cứu kết hợp lợi thế của thí nghiệm có kiểm soát với việc quan sát hành vi của các chuyên gia, những người quan tâm đến các hoạt động giao dịch, định giá và phân tích tài sản tài chính từ ngày này qua ngày khác. Nó so sánh 2 cách xử lý, một là giá điều chỉnh theo dòng chu chuyển lệnh (Đây là một phương pháp tiếp cận mới và ngược với phương pháp thứ hai, tức là cho rằng tỷ giá chịu tác động chủ yếu bởi các cấu trúc vi mô của thị trường ngoại hối: lệnh giao dịch, tin tức và điều chỉnh danh mục. Tuy nhiên, các mô hình này
  18. 10 tỏ ra còn phức tạp hơn các mô hình thuộc phương pháp thứ hai và tính hiệu quả của mô hình này vẫn còn đang trong vòng kiểm định) vì vậy xu hướng bầy đàn sẽ không bao giờ xảy ra, cách thứ 2 là trong những sự kiện không chắc chắn làm cho xu hướng bầy đàn có thể xảy ra. Trong cách thứ 1, phù hợp với cả lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm trước đây với những đối tượng là sinh viên. Trong cách thứ 2, tỷ lệ của những quyết định có tính bầy đàn tăng lên, nhưng không nhiều như lý thuyết đã nói, hơn nữa, những xu hướng đi ngược trào lưu biến mất hoàn toàn. Waweru, Munyoki và Uliana (2008) khảo sát các tổ chức đầu tư trên thị trường chứng khoán Nairobi. Họ điều tra vai trò của tài chính hành vi và tâm lý nhà đầu tư trong việc đưa ra quyết định. Nghiên cứu hình thành một vài hành vi tài chính như: tính đại diện, sự quá tự tin, Neo, Gian lận cờ bạc, sự sẵn có, sợ thua lỗ, sợ hối hận, và Kế toán ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các tổ chức trên NSE. Maheran, Muhammed và Ismail (2008) điều tra mối quan hệ giữa quyết định của các nhà đầu tư và lý trí của họ trên thị trường tài chính Malaysia. Kết quả của nghiên cứu cho thấy điều kiện nền kinh tế và khung tham chiếu ảnh hưởng đến hành vi của nhà đầu tư. Họ kết luận, các nhà đầu tư ở Malaysia thì có lý trí một phần nào đó trong quá trình ra quyết định. Cianci (2008) tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm với 78 sinh viên đã tốt nghiệp thay thế cho những nhà đầu tư thật sự và kết quả được đưa ra là: những đánh giá về mức hấp dẫn và hợp lý của các nhà đầu tư thì cao hơn khi những thông tin mang tính tích cực được cung cấp một cách liên tục. Nghiên cứu này phân chia các nhà đầu tư thành hiện tại và tương lai. Người ta kiểm định họ đánh giá như thế nào về thông tin tích cực và tiêu cực được trình bày một cách tuần tự hay đồng thời, nhằm mục đích xác định những kết quả này có thể được tổng quát hóa để áp dụng đầu tư dựa vào thông tin hay không và tình trạng của nhà đầu tư có ảnh hưởng vì những đánh giá này hay không. Grou và Tobak (2008) nghiên cứu những mô hình hành vi được thể hiện bởi các nhà đầu tư trong trường hợp rủi ro, mà tại đó cung cấp nhiều lựa chọn. 2 tác động được
  19. 11 biết đến đó là ảo tưởng về kiểm soát và sự mơ hồ. Thông qua 8 nghiên cứu thực nghiệm với 196 người tham gia, được thực hiện ở trường Đại học Catholic – Brazil, cho thấy các nhà đầu tư có xu hướng biểu hiện những hiện tượng này trong quá trình quyết định rủi ro tài chính. Những quyết định của sinh viên cho thấy họ có một ảo tưởng về sự kiểm soát, nghĩa là họ nghĩ họ có thể kiểm soát những sự kiện ngẫu nhiên tốt hơn. Tuy nhiên, họ lại không sẵn sàng trả một mức giá nhỏ để tận dụng lợi thế của kiểm soát này. Để kiểm định sự mơ hồ, các sinh viên phải lựa chọn giữa “biết” và “không biết” trong 4 nghiên cứu thực nghiệm theo kết cấu khác nhau. Kết quả cho thấy tỷ lệ đầu tư thì cao hơn trong những cổ phiếu được biết đến. Mặc dù, các sinh viên thể hiện sự mơ hồ, nhưng không nhiều người sẵn sàng trả một mức giá để làm giảm hoặc loại bỏ sự mơ hồ đó. Oehler (2008) trong nghiên cứu của mình phân tích thành phần của 102 quỹ đầu tư mà tài sản của họ đạt trên 100 triệu EURO mỗi năm, bằng cách thu thập số liệu từ những bản báo cáo trong giai đoạn 2000 – 2003 và đưa ra những bằng chứng thực nghiệm về việc lựa chọn danh mục đầu tư nội địa trong giai đoạn này. Ba lý do được đưa ra: chi phí giao dịch thấp hơn, khả năng bảo vệ tốt hơn và thuận lợi trong thông tin bất cân xứng. họ nhận ra rằng những quỹ tương hỗ mà được bán cho các nhà đầu tư tư nhân có xu hướng thiên về nội địa, nhưng những quỹ này đầu tư rất mạnh vào thị trường chứng khoán ở các nước châu Âu, những quỹ càng lớn thì xu hướng thiên về đầu tư nội địa càng lớn so với các quỹ nhỏ và trung bình. Họ cố gắng tìm ra “xu hướng địa phương” có được dẫn dắt bởi các nhà đầu tư tư nhân hay những nhà quản lý quỹ hay không và kết quả là xu hướng này được dẫn dắt bởi các nhà đầu tư nhiều hơn là nhà quản lý quỹ tương hỗ. họ cũng đề cập rằng xu hướng nội địa thì thấp hơn đáng kể so với dữ liệu những năm 1990. Phan Thanh Hùng (3/2012) trong luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu lý thuyết Tài chính hành vi trên thị trường chứng khoán Việt Nam với 150 người tham gia. Kết quả của nghiên cứu cho thấy các nhà đầu tư trong thời kỳ “bong bóng”, thì tin tưởng vào lời khuyên của các chuyên gia tài chính. Điều này có thể là do dự đoán về lợi nhuận
  20. 12 quá lạc quan của các chuyên gia. Các nhà đầu tư đều có xu hướng bầy đàn, và chính xu hướng này làm cho thị trường tăng trưởng nóng. Vũ Đình Kết (3/2011) với nghiên cứu “Ứng dụng lý thuyết Tài chính hành vi để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán Việt Nam” thông qua mô hình định lượng. Các kết quả quan trọng được đưa ra đó là: (i) chứng cứ bầy đàn thể hiện rất mạnh trên tỉ suất sinh lợi ngày, và yếu hơn trên tỉ suất sinh lợi tuần và tháng, (ii) hành vi bầy đàn trong trường hợp thị trường đi lên mạnh hơn trong trường hợp thị trường đi xuống và (iii) sự tự tin/rất tự tin thể hiện ở hầu hết các nhà đầu tư, chỉ có 4% nhà đầu tư tham gia là thể hiện sự không tự tin. Lê Thị Ngọc Lan (6/2009) với luận văn “Nghiên cứu lý thuyết hành vi trên thị trường chứng khoán Việt Nam” thông qua 2 mô hình định tính và định lượng, cho rằng: Hành vi bầy đàn được xem là một yếu tố đóng góp chủ yếu, đặc biệt đối với các nhà đầu tư có tổ chức, trong khi đối với nhà đầu tư cá nhân thì quá tự tin và dự đoán của các nhà phân tích mới là yếu tố quan trọng nhất. 2.3. Những xu hướng hành vi Các nhà đầu tư có thể bị nghiêng về nhiều xu hướng hành vi khác nhau, điều này làm cho họ có mắc những lỗi trong nhận thức. Con người có thể dự đoán, có những lựa chọn không tối ưu khi phải đối mặt với những khó khăn và quyết định không chắc chắn. Những xu hướng hành vi, được xác định như là những sai lầm có tính hệ thống, trong quyết định (Chen, 2007). Các nhà nghiên cứu đưa ra một danh sách dài các xu hướng đặc biệt, được lấy từ trên 50 nghiên cứu với hành vi của các nhà đầu tư trong thời gian gần đây. Một vài tác giả cho rằng những xu hướng này như là heuristics (quy tắc ngón tay cái), trong khi những người khác gọi chúng là niềm tin, quyết định hoặc sự ưa thích; vẫn có một số nhà khoa học phân loại các xu hướng theo kinh nghiệm hoặc cảm xúc. Trong khi “cách phân loại các xu hướng này thì rất hữu ích, thì một lý thuyết cơ bản giải thích tại sao
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2