intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Tri Tâm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

27
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tiến hành phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn lực đất đai để phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố Hà Nội

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHẠM THÚY HÒA NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2013
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHẠM THÚY HÒA NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 60 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG TUẤN BIỂU Hµ NéI -2013
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 10 1.1 Những vấn đề chung về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề 10 1.2 Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội 29 Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI 48 2.1 Quan điểm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội 48 2.2 Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Thủ đô Hà Nội 59 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 PHỤ LỤC 82
  4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ VIẾT TẮT 1. Cụm Công nghiệp làng nghề CCNLN 2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH 3. Cụm công nghiệp CCN 4. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp CN-TTCN 5. Chủ nghĩa xã hội CNXH 6. Giải phóng mặt bằng GPMB 7. Hội đồng nhân dân HĐND 8. Kinh tế - xã hội KT-XH 9. Làng nghề truyền thống LNTT 10. Trọng điểm Bắc Bộ TĐBB 11. Ủy ban nhân dân UBND 12. Xóa đói giảm nghèo XĐGN
  5. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn lực quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia nói chung và mỗi ngành kinh tế nói riêng. Đất đai là cũng là tài nguyên có hạn về số lượng nên cần được quản lý, khai thác và sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả. Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính có diện tích 3.344,6 km2, với điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng, có nền văn hoá lâu đời, đặc biệt là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền thống nhất cả nước với bề dày phát triển hàng trăm năm đã sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế, nghệ thuật, mỹ thuật cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Với 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm khoảng 67% số làng nghề hiện có của cả nước, Hà Nội tự hào là Thành phố có nhiều nghề thủ công nhất thế giới. Trong những năm qua, ngành CN - TTCN của Thành phố Hà Nội ngày càng đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định. Các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội, hiệp hội ngành nghề đã quan tâm đến sự phát triển của nghề, làng nghề với sự năng động sáng tạo của nhân dân, nên nhiều nghề, làng nghề được khôi phục, củng cố và phát triển. Quá trình hình thành và phát triển của nghề, làng nghề truyền thống gắn liền với quá trình phát triển CN - TTCN ở nông thôn đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Thành phố; đời sống của người lao động được nâng cao, giảm sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữ vững trật tự an ninh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hạn chế di dân tự do và bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
  6. 4 Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng sự phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, lợi thế, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Phát triển nghề, làng nghề vẫn mang tính tự phát và gặp phải không ít những khó khăn như: thiếu mặt bằng để sản xuất tập trung, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh thấp, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa tạo nhiều thương hiệu hàng hoá, sức tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, một số sản phẩm truyền thống bị mai một, suy giảm. Cơ sở hạ tầng nhất là đường giao thông, thông tin liên lạc chưa đồng bộ, môi trường làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng, chưa có biện pháp khắc phục triệt để. Nói cách khác, sự phát triển các làng nghề của thành phố Hà Nội chưa thực sự bền vững. Nguyên nhân của tình trạng đó một phần do các nguồn lực, trong đó có nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Thực tế tại các làng nghề cho thấy, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính; sử dụng đất còn lãng phí, hiệu quả thấp,... nên nguồn lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển làng nghề. Trong khi đó, Thành phố Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính năm 2008 có quỹ đất tự nhiên tăng lên rất lớn, đây là nguồn lực hết sức to lớn và quan trọng mà Thành phố Hà Nội phải tận dụng khai thác cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển các làng nghề của Thành phố nói riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế - chuyên ngành kinh tế chính trị và sự nghiên cứu này có tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn.
  7. 5 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển làng nghề nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, vì vậy đã có rất nhiều cơ quan nhà nước, các chuyên gia quan tâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức. Dưới dạng sách nghiên cứu, hội thảo, bài viết tham luận tại các hội thảo chuyên đề có các công trình: Công trình "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Phan, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Minh Đạo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, đã phân tích làm rõ thực trạng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất hệ thống cơ chế chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất sản xuất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Công trình "Phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình phát triển các khu công nghiệp: Thực trang và giải pháp" của Tiến sỹ Đỗ Đức Quân, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2008, đã làm rõ những vấn đề cơ bản về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đề xuất giải pháp phát triển các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề bên cạnh việc phát triển các khu công nghiệp tập trung. Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2012 chuyên đề về khai thác, quản lý và sử dụng nguồn lực đất đai đã tập hợp hơn 10 bài viết nghiên cứu chuyên đề của nhiều tác giả nổi tiếng như Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Hùng Võ, Giáo sư, Tiến sỹ Vương Đình Huệ,... tập trung phân tích, đánh giá hiện trạng và đề
  8. 6 xuất những giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm khai thác, sử dụng, quản lý có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước và một số địa phương điển hình, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Dưới dạng luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình: Luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Minh Yến, năm 2003 "Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Luận án Tiến sỹ Kinh tế của Bạch Thị Lan Anh, năm 2011 "Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ". Các đề tài luận án này đã tập trung nghiên cứu đánh giá hiện trạng phát triển làng nghề, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển bền vững làng nghề, làng nghề truyền thống ở phạm vi cả nước và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong đó nguồn lực đất đai được xem xét như một yếu tố nguồn lực để phát triển bền vững các làng nghề. Luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Tùng, năm 2010, “Khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai để phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội” tập trung đánh giá kết quả khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đối tượng nghiên cứu là quan hệ tài chính về đất đai giữa một bên là chính quyền Thành phố - đại diện chủ sở hữu về đất đai - với một bên là các đối tượng sử dụng đất bao gồm: Các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài được Thành phố giao đất, cho thuê đất; được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; các loại thuế liên quan đến đất; biểu hiện ra bên ngoài của mối quan hệ này là việc Nhà nước được hưởng lợi bằng tiền, bằng sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và Thủ đô. Nhìn chung các công trình nghiên cứu về làng nghề về nguồn lực đất đai đều đã tiếp cận về cơ sở lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên phạm vi tương đối rộng ở cấp độ
  9. 7 vùng hoặc liên vùng, một số nghiên cứu phạm vi hẹp hơn, giới hạn trên địa bàn Thành phố Hà Nội nhưng thời gian nghiên cứu trước khi Thành phố điều chỉnh địa giới hành chính năm 2008 nên không còn nhiều tính cập nhật, thời sự. Những công trình này đối tượng nghiên cứu là phát triển làng nghề, nguồn lực đất đai chỉ được xem xét như một giải pháp để phát triển làng nghề. Một số công trình nghiên cứu về nguồn lực đất đai hầu hết chỉ tập trung nghiên cứu về nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội hoặc quản lý nhà nước về đất đai. Tóm lại, sau khi tìm kiếm và nghiên cứu các công trình của nhiều tác giả liên quan đến phát triển làng nghề trên địa bàn từ sau khi có Nghị quyết số 15NQ-QH/2008 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành chính hành phố Hà Nội chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề. Do vậy, học viên lựa chọn đề tài: "Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố Hà Nội" để nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị là hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích Phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn lực đất đai để phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới. * Nhiệm vụ Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề. Phân tích, thực trạng về huy động, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội.
  10. 8 Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng Thành phố Hà Nội trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Thủ đô và được tiếp cận dưới hai góc độ: - Đất đai là tư liệu sản xuất, là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho sản xuất tại các làng nghề; - Đất đai là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo nguồn vốn cho phát triển làng nghề. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài Về không gian nghiên cứu chủ yếu là các làng nghề tại huyện ngoại thành của Thành phố Hà Nội. Về thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước có liên quan; đồng thời sử dụng những lý thuyết kinh tế chính trị học về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận văn. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp logíc lịch sử, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
  11. 9 6. Ý nghĩa của đề tài - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu để các cơ quan quản lý nhà nước, các làng nghề tham khảo phục vụ cho công tác quy hoạch, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển nghề và làng nghề Thành phố Hà Nội. - Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị ở các trường cao đẳng, đại học. 7. Kết cấu của đề tài. Ngoài mở đầu, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  12. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Những vấn đề chung về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề 1.1.1. Làng nghề và vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Hà Nội * Làng nghề: Theo quan điểm của Chính phủ và một số bộ, ngành liên quan khái niệm về nghề và các loại hình làng nghề như sau: Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp, thôn, bản làng, buôn, phun sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để được công nhận làng nghề phải đạt được các tiêu chí: Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước. * Làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền thống. Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất 1 nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN. Đối với những làng chưa đạt tối thiểu 30% tổng số hộ và 2 năm sản xuất kinh doanh làng nghề ổn định nhưng có ít nhất 1 nghề truyền thống được công nhận theo quy định của Thông tư số 116/2006/TT-BNN thì cũng được công nhận làng nghề truyền thống. Để được công nhận làng nghề truyền thống, các làng nghề phải đạt được những tiêu chuẩn: (1) Về thời gian: Là làng có nghề được hình thành trên 50 năm tính đến ngày làng được đề nghị xét danh hiệu làng nghề truyền thống; (2) Về kinh tế: Có giá trị sản xuất từ ngành nghề nông thôn của làng
  13. 11 chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của làng; (3) Về sử dụng lao động: Có tối thiểu 30% số hộ trên địa bàn tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn; (4) Bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn lao động theo các quy định hiện hành; (5) Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Thành phố và địa phương; (6) Sản phẩm làm ra phải mang bản sắc văn hoá dân tộc, phải gắn với tên tuổi của làng; (7) Đối với những làng nghề chưa đáp ứng tiêu chuẩn của môi trường theo quy định tại điểm 4 vẫn được xem xét công nhận danh hiệu làng nghề truyền thống khi đã có các đề án, dự án nghiên cứu đánh giá tác động môi trường và đề ra các biện pháp xử lý khắc phục ô nhiễm môi trường. * Làng nghề mới: Là làng nghề được hình thành cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều kiện nhất định để hình thành và phát triển. * Nghề truyền thống: Là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra sản phẩm độc đáo có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền. Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 3 tiêu chí: (1) Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ 50 năm tính đến thời điểm công nhận; (2) Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; (3) Nghề gắn với tên tuổi của 1 hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi làng nghề. * Làng có nghề: Là làng được hình thành cùng với sự phát triển của nền kinh tế chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều kiện thuận lợi để phát triển. Trong đó làng có số hộ, số lao động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ít nhất từ 10% trở lên. Với tiêu chí như trên, đến nay Thành phố Hà Nội đã công nhận 277 làng đạt tiêu chuẩn làng nghề chiếm 20,52% tổng số làng có nghề của Thành phố, trong đó có 244 làng nghề truyền thống. Huyện Thanh Oai có 51 làng,
  14. 12 Thường Tín có 44 làng, Phú Xuyên 39 làng, Chương Mỹ 33 làng, Ứng Hoà 20 làng, Ba Vì 14 làng, Quốc Oai 15 làng, Hoài Đức 12 làng, quận Hà Đông 6 làng, Phúc Thọ 5 làng, Gia Lâm 5 làng, thị xã Sơn Tây 2 làng, Sóc Sơn 2 làng, Từ Liêm 2 làng, Thanh Trì 2 làng, quận Long Biên 1 làng và Mê Linh 1 làng. Phân theo ngành nghề gồm: Ngành mây tre đan có 83 làng, chiếm tới 30% số làng nghề; ngành nghề chế biến nông sản thực phẩm 44 làng, chiếm 15,88%; nghề thêu ren 28 làng; nghề dệt may 25 làng; nghề chế biến lâm sản 23 làng; nghề nón mũ lá 20 làng; nghề cơ kim khí 13 làng; nghề sơn mài - khảm trai 11 làng; nghề da giầy, khâu bóng 8 làng; nghề chạm điêu khắc 6 làng; nghề gốm sứ 3 làng; nghề đan tơ lưới 4 làng; nghề sinh vật cảnh 2 làng; nghề dát vàng bạc quý 1 làng và nghề khác 6 làng. Nghề có nhiều làng nghề nhất là: ngành nghề mây tre giang đan có 83 làng, trong đó huyện Chương Mỹ 29 làng, Phú Xuyên 11 làng, Quốc Oai 11 làng, Ứng Hoà 11 làng, Thanh Oai 8 làng... Ít nhất là ngành dát vàng, bạc quý (Gia Lâm) với 01 làng, rắn Lệ Mật (Long Biên) 01 làng... [29, tr.2]. Quy mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Cơ cấu lao động ở nông thôn ngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm công nghiệp và dịch vụ. Các huyện có nhiều hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là: Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ. Một số huyện có số hộ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp thấp hơn như Từ Liêm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Đông Anh, Mê Linh, thị xã Sơn Tây từ 500 - 700 hộ. * Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội Thứ nhất, tạo việc làm cho người lao động. Các cơ sở sản xuất làng nghề từ các hộ gia đình đến các thành phần kinh tế trong làng nghề đã thu hút một số lượng lớn lao động trong sản xuất phi nông nghiệp, hạn chế số lao động di dời nông thôn ra thành thị tìm việc
  15. 13 làm. Ngành nghề đã thu hút từ 30 đến 70% số hộ và từ 50 đến 90% số lao động tham gia sản xuất nghề với trên 300.000 lao động thường xuyên. Ngoài ra còn thu hút hàng nghìn lao động nơi khác đến làm thuê như nghề gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm), làng dệt kim La Phù (Hoài Đức), đan cỏ tế xã Phú Túc, khảm trai xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên), Vân Hà, Liên Hà (Đông Anh), Liên Trung (Đan Phượng)... Sự phát triển làng nghề kéo theo dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu, chuyên chở, kinh doanh hàng hoá, phục vụ ăn uống cho các làng nghề tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Cơ cấu lao động trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đã chiếm từ 75 đến 85% trong tổng số lao động, lao động thuần nông chỉ còn từ 15 đến 25%. Ngoài ra các làng nghề góp phần giải quyết việc làm cho các lao động dôi dư trong quá trình đô thị hoá, từ đó đã góp phần phân công lại lực lượng lao động ở nông thôn. Thứ hai, góp phần tăng thu nhập, hạn chế tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự ở nông thôn. Nghề, làng nghề đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và khả năng tích luỹ của các hộ khu vực ngoại thành Thành phố. Qua khảo sát ở các làng nghề cho thấy, thu nhập bình quân của các hộ sản xuất nghề là 24 triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần so với thu nhập bình quân của cả làng và gấp 4 lần so với thu nhập của các hộ thuần nông. Đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở các làng nghề thấp hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo của các hộ thuần nông. Số hộ nghèo có mức thu nhập dưới 320.000 đồng/người/tháng đã giảm từ 46.272 hộ, năm 2006 xuống 42.164 hộ năm 2010 [37, tr. 42]. Thứ ba, hạn chế di dân tự do từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố. Quá trình phát triển kinh tế ở Thủ đô nhất là việc đô thị hoá gây sức ép về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân ngoại thành đi tìm việc
  16. 14 làm ở trung tâm Thành phố. Quá trình đó đã gây áp lực đối với các điều kiện dịch vụ, cơ sở hạ tầng xã hội ở Thành phố, gây khó khăn quản lý trật tự xã hội. Vì vậy, sự phát triển nghề, làng nghề hạn chế đáng kể hiện tượng di dân tự do từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố. Với 1.350 làng có nghề ở ngoại thành, người nông dân có thu nhập ổn định gắn bó với làng quê, đồng thời thu hút lao động các địa phương khác đến làm việc, góp phần xoá đói giảm nghèo. Thứ ba, phát huy nội lực địa phương, phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Nghề, làng nghề phát triển tạo điều kiện khai thác thế mạnh của địa phương về nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, tiền vốn) để tập trung cho sản xuất kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã, công ty TNHH... Trong quá trình phát triển sẽ tạo ra đội ngũ lao động có tay nghề cao, lớp nghệ nhân mới có trình độ để tiếp thu, ứng dụng những tiến bộ về công nghệ tiên tiến sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, giá thành hạ, khả năng cạnh tranh thị trường lớn, đáp ứng dần với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Nghề, làng nghề phát triển kéo theo sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở làng nghề như: đường giao thông được cải tạo, nâng cấp; thiết chế văn hoá ở cơ sở được quan tâm xây dựng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt về vật chất, tinh thần của nhân dân, đồng thời bảo tồn phát huy giá trị văn hoá ở các làng nghề của địa phương. Lịch sử phát triển các làng nghề truyền thống của Thành phố gắn với lịch sử phát triển văn hoá của dân tộc. Mỗi làng nghề sản xuất ra những sản phẩm chứa đựng nét độc đáo của văn hoá dân tộc, là di sản quý giá của cha ông tạo ra, truyền lại cho con cháu, làm vẻ vang cho Thủ đô và đất nước như: Lụa Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng, sơn mài Duyên Thái, thêu Quất Động, đan cỏ tế Phú Túc, mây tre đan Phú Vinh, đúc đồng Ngũ Xã... Vì vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống chính là sự kế thừa và phát huy đội
  17. 15 ngũ nghệ nhân và những bí quyết quý giá của nghề đã góp phần không nhỏ vào việc duy trì bảo tồn di sản văn hoá. Bảo tồn và phát triển ngành nghề thủ công là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, tăng giá trị văn hoá truyền thống của Việt Nam đối với bạn bè thế giới. Thứ tư, góp phần tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu và phát triển dịch vụ du lịch. Nhu cầu tiêu dùng trong nước hàng thủ công mỹ nghệ ngày một tăng về khối lượng và chủng loại các sản phẩm hàng hoá để trang trí nội thất và nơi làm việc. Hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề được người nước ngoài ưa thích đã góp phần làm phong phú thị trường xuất khẩu của Hà Nội. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên 104 triệu USD năm 2010. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng bình quân hàng năm từ 1,6% đến 2,8%/năm [29, tr.5]. Hà Nội có tiềm năng về phát triển du lịch lớn lại có nhiều làng nghề truyền thống. Vì vậy, việc gắn kết các tour du lịch đến với các làng nghề để khách du lịch tham quan, với những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ tăng thêm chất lượng của tour du lịch, qua đó quảng bá các sản phẩm làng nghề, đồng thời góp phần thúc đẩy ngành dịch vụ, du lịch phát triển. Thứ năm, thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nghề, làng nghề đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế của Thành phố phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố. Đến năm 2010 tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP của Thành phố đã chiếm tới 93,8%; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 6,2%. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Sự phát triển các làng nghề đã mở rộng quy mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động đã làm
  18. 16 chuyển dịch cơ cấu lao động sang làm công nghiệp và dịch vụ và giảm dần lao động nông nghiệp. Chính làng nghề phát triển đã hình thành các trung tâm buôn bán, trao đổi hàng hoá, dần dần trở thành các trung tâm dân cư, các thị trấn, thị tứ và từng bước đô thị hoá. Với vai trò như trên nên việc khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh. 1.1.2. Vai trò của nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội * Lý luận chung về địa tô. Địa tô là phần sản phẩm thặng dư do những người sản xuất trong nông nghiệp tạo ra và nộp cho người chủ sở hữu ruộng đất. Địa tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Đã từng tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, địa tô là do lao động của nô lệ và những người chiếm hữu ruộng đất nhỏ tự do tạo ra. Trong chế độ phong kiến, địa tô là phần sản phẩm thặng dư do nông nô tạo ra và bị chúa phong kiến chiếm đoạt, có khi còn bao gồm cả một phần sản phẩm tất yếu. Trong chủ nghĩa tư bản, do còn chế độ tư hữu về ruộng đất trong nông nghiệp nên vẫn tồn tại địa tô. Về thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là phần giá trị thặng dư thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân và do nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp trả cho địa chủ. Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa vẫn là do lao động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê. Trong chủ nghĩa tư bản, có các loại địa tô: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền. Địa tô chênh lệch là sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung nông phẩm đươc quyết định bởi điều kiện không thuận lợi nhất với giá cả sản xuất
  19. 17 cá biệt ở những nơi có điều kiện sản xuất thuận lợi, do đó năng suất lao động được nâng cao. Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân, nhà tư bản thu được trên những thửa ruộng đất có điều kiện thuận lợi và trả cho địa chủ. Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng dư trong nông nghiệp không phải do ruộng đất đẻ ra. Ruộng đất tốt hay xấu chỉ là điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân nông nghiệp, là cơ sở tự nhiên không thể thiếu do địa tô chênh lệch hình thành. Nguồn gốc của địa tô chênh lệch và địa tô nói chung là do lao động của công nhân nông nghiệp tạo gia Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô, địa tô chênh lệch được chia làm hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Đây là cách Mác chia và ông coi địa tô chênh lệch I gắn liền với độ mầu mỡ tự nhiên và vị trí địa lí thận lợi, còn địa tô chênh lệch II gắn liền với thâm canh, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên cùng một đơn vị diện tích. Địa tô tuyệt đối là toàn bộ số chênh lệch giữa giá trị và giá cả sản xuất hay chỉ bằng một phần (lớn hoặc nhỏ) của số chênh lệch. Như vậy giá cả nông sản có thể cao hơn giá cả sản xuất của chúng. Nhưng vẫn thấp hơn giá trị của chúng và không phải giá cả đắt lên là nguyên nhân sinh ra địa tô, mà chính địa tô là nguyên nhân làm cho giá cả nông sản tăng lên. sự thiệt hại đối với xã hội là nguồn gốc làm giàu cho giai cấp địa chủ. Khi độc quyền tư hữu ruộng đất bị thủ tiêu thì địa tô tuyệt đối bị xoá bỏ. Giá cả nông sản sẽ hạ xuống có lợi cho xã hội. Trong chủ nghĩa tư bản, không phải chỉ đất đai sử dụng vào sản suất nông nghiệp với phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất xây dựng, đất hầm mỏ còn phải đem lại địa tô cho người sở hữu chúng. Bất kì ở đâu có sức tự nhiên bị độc chiếm và tạo ra một lợi nhuận siêu ngạch cho nhà tư bản sử dụng
  20. 18 những sức tự nhiên. Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô đất nông nghiệp nhưng nó cũng có đặc trưng riêng. Đó là, trong việc hình thành địa tô đất xây dựng, vị trí của đất đai là yếu tố quyết định, còn độ màu mỡ và hình thái của đất đai không ảnh hưởng lớn; địa tô đất xây dựng tăng lên nhanh chóng do sự gia tăng dân số, do nhu cầu nhà ở tăng lên và do những tư bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên. Địa tô luôn ngắn với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các điều kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả độc quyền của nông sản. tuy nhiên, có những loại đất có thể trồng những loại cây cho sản phẩm quý hiếm có giá trị cao hay có những khoáng sản đặc biệt có giá trị, thì địa tô ở những đất đó rất cao, có thể xem đó là địa tô độc quyền. Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai. Các địa tô như địa tô về đất xây dựng, địa tô hầm mỏ và địa tô bãi cá, đất rừng thiên nhiên,... tuy là địa tô thu được trên những diện tích đất phi nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở địa tô đất nông nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch. Mác nói "Bất kỳ ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng những sức tự nhiên ấy, chẳng kể là thác nước, là hầm mỏ giàu khoáng sản, là những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt, thì số lợi nhuận siêu ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô". Trong chủ nghĩa xã hội, khi ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không còn là tư hữu của địa chủ hay nhà tư bản, thì những cơ sở kinh tế để hình thành địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền cũng bị xoá bỏ, nhưng vẫn tồn lại địa tô chênh lệch, song nó thuộc sở hữu của nhà nước và khác về bản chất với địa tô chênh lệch dưới chủ nghĩa tư bản.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2