intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

44
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày tổng quan về ngân hàng điện tử - sự cần thiết phải phát triển ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam; sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại Việt Nam; giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HUỲNH THỊ NHƯ TRÂN PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NĂM 2007
  2. 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ - SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM. 1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ 1.1.1. Sự phát triển của ngân hàng điện tử trên thế giới. Ngày nay, Thương mại điện tử đang là một xu thế phát triển tất yếu trên thế giới. Thương mại điện tử đang phát triển nhanh và làm biến đổi sâu sắc các phương thức kinh doanh, thay đổi hình thức, nội dung hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của loài người. Để thúc đẩy quá trình hội nhập, thu hút khách hàng cũng như giành giật cơ hội trong kinh doanh, hầu hết các ngân hàng trên thế giới đang không ngừng tăng cường và đưa ra các dịch vụ tiện lợi, nhanh gọn và được hỗ trợ mạnh mẽ của các công nghệ hiện đại như máy giao dịch tự động (ATM), máy thanh toán tại các điểm bán hàng (POS), mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua mạng điện thoại, máy tính cá nhân… Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông, của khoa học kỹ thuật, của công nghệ mới như Internet, mạng điện thoại di động, Web…, mô hình ngân hàng với hệ thống quầy làm việc, những tòa nhà cao ốc, giờ làm việc hành chính 7, 8 giờ sáng đến 4, 5 giờ chiều (“brick and mortar” Banking) đang dần được cải tiến và thay thế bằng mô hình ngân hàng mới – ngân hàng điện tử (“ click and mortar” Banking). Khẳng định bằng những thành công trong những năm qua, ngân hàng điện tử đã có những bước phát triển vượt bậc và trở thành mô hình tất yếu cho hệ thống ngân hàng trong thế kỷ 21. Tại các nước đi đầu như Mỹ, các nước Châu Âu, Australia và tiếp sau đó là các quốc gia và vùng lãnh thổ như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan… các ngân hàng ngoài việc đẩy mạnh phát triển hệ thống thanh toán điện tử còn mở rộng phát triển các kênh giao dịch điện tử (E – Banking) như các loại thẻ giao dịch qua máy rút tiền tự động ATM, các loại thẻ tín dụng Smart Card, Visa, Master card… và các dịch vụ ngân hàng trực tuyến như: Internet Banking, Mobile banking, Telephone Banking, Home Banking. Theo thống kê của Stegman, năm 2001 ở Mỹ có
  3. 2 trên 14 triệu khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Ở Anh, theo khảo sát của BACS (Bankers Automated Clearing Services), số người sử dụng dịch vụ này đã tăng từ 3,5 triệu lên 7,8 triệu trong vòng hai năm. Số người thanh toán hóa đơn và chuyển tiền qua internet hoặc qua điện thoại cũng tăng mạnh. Trong năm 2002 đã có 7,2 triệu người thanh toán các loại chi phí và chuyển khoản theo đường này tăng 44% so năm 2001 và đã có tổng cộng 72 triệu lượt thanh toán trực tuyến, trong đó số người sử dụng thẻ tín dụng chiếm hơn một nửa. Ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Singapore và Hồng Kông đã phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử từ rất sớm. Tại Hồng Kông, dịch vụ ngân hàng điện tử có từ năm 1990, còn các ngân hàng ở Singapore cung cấp dịch vụ ngân hàng qua Internet từ năm 1997. Dịch vụ Internet Banking ở Thái Lan hoạt động từ năm 2001. Trung Quốc mới tham gia hoạt động ngân hàng trực tuyến từ năm 2000 nhưng đã có rất nhiều cải cách về chính sách cũng như chiến lược để phát triển lĩnh vực này. Theo một khảo sát mới đây của IDC, đến hết năm 2002, có 16,8 triệu khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến ở tám nước và vùng lãnh thổ là Trung Quốc, Australia, Hồng Kông, Ấn Độ, Malaysia, Singapore, Đài Loan. Tại Mỹ, những ngân hàng lớn tham gia kinh doanh trực tuyến ngày càng nhiều, theo báo cáo của FDIC, số ngân hàng có tài sản dưới 100 triệu USD có cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử chỉ chiếm khoảng 5%, trong khi đó số ngân hàng có tài sản lớn hơn 10 tỷ USD có dịch vụ ngân hàng điện tử chiếm tới 84% (Bảng 1.1) Bảng 1.1: Số lượng ngân hàng có mặt trên mạng Internet Tổng tài sản (triệu USD) Số ngân hàng Có mặt trên mạng (%) Ít hơn 100 5,912 5 Từ 100 đến 500 3,403 16 Từ 500 đến 1000 418 34 Từ 1000 đến 3000 312 42 Từ 3000 tới 10.000 132 52 Trên 10.000 94 84 (Nguồn: [FDIC01])
  4. 3 Kể từ giai đoạn có mặt trên mạng tới khi cung cấp đầy đủ dịch vụ trực tuyến là cả một quá trình. Vào thời điểm năm 2000, trong số Top 100 ngân hàng của Mỹ thì có 36% không có mặt trên mạng, 41% chỉ cung cấp thông tin và còn lại 23% là cung cấp đầy đủ dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Trong năm 2000 đã có khoảng 1.100 ngân hàng lớn nhỏ tại Mỹ cung cấp đầy đủ mọi dịch vụ ngân hàng qua mạng, con số này tăng lên 1.200 vào cuối năm 2003 và sẽ đạt tới 3.000 vào cuối năm 2005. Trong những năm vừa qua, ngân hàng điện tử đã phát triển lớn mạnh và nhanh chóng. Theo nghiên cứu của Jupiter Media, tổng số các giao dịch qua mạng của toàn bộ các ngân hàng tại Mỹ đã tăng 77,6% chỉ trong vòng một năm từ tháng 07/2000 tới tháng 07/2001, trong khi đó, cùng thời gian, lưu lượng giao thông trao đổi thông tin qua hệ thống World Wide Web chỉ tăng 19,8% trong cùng kỳ. Một cơ quan nghiên cứu trên mạng: Datamonitor đã báo cáo cho giai đoạn 2002 cho đến hết năm 2003: số lượng tài khoản ngân hàng điện tử tại Châu Âu tăng trung bình 34%/năm và tăng từ 14,3 triệu tài khoản năm 2002 lên xấp xỉ 43,2 triệu tài khoản vào cuối năm 2005, và số lượng người sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử sẽ tăng lên nhanh chóng. Giao dịch qua ngân hàng điện tử hoạt động hiện nay chiếm từ 5 – 10% tổng khối lượng giao dịch của các ngân hàng bán lẻ ở Mỹ và Châu Âu. Tại Pháp, số lượng tài khoản ngân hàng điện tử đã tăng 75%/năm và dự đoán sẽ đạt con số 30.000 vào năm 2006. Đồ thị 1.1: Số lượng khách hàng của dịch vụ ngân hàng trực tuyến của các nước Châu Âu năm 2000 – 2004
  5. 4 1.1.2. Khái niệm dịch vụ ngân hàng điện tử. - Dịch vụ ngân hàng điện tử được giải thích như là khả năng của một khách hàng có thể truy cập từ xa vào một ngân hàng nhằm: thu thập thông tin, thực hiện các giao dịch thanh toán, tài chính dựa trên các tài khoản lưu ký tại ngân hàng đó, đăng ký sử dụng các dịch vụ mới1. - Dịch vụ ngân hàng điện tử là một hệ thống phần mềm vi tính cho phép khách hàng tìm hiểu hay mua dịch vụ ngân hàng thông qua việc nối mạng máy vi tính của mình với ngân hàng2. - Các khái niệm trên đều định nghĩa ngân hàng điện tử thông qua các dịch vụ cung cấp hoặc qua kênh phân phối điện tử. Định nghĩa này có thể đúng ở từng thời điểm nhưng không thể khái quát hết được cả quá trình lịch sử phát triển cũng như tương lai phát triển của ngân hàng điện tử, một định nghĩa tổng quát nhất về ngân hàng điện tử có thể được diễn đạt như sau: NHĐT bao gồm tất cả các dạng của giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng (cá nhân và tổ chức) dựa trên quá trình xử lý và chuyển giao dữ liệu số hoá nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 1.1.3. Các giai đoạn phát triển của Ngân hàng điện tử Kể từ ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ ngân hàng qua mạng đầu tiên tại Mỹ vào năm 1989 – ngân hàng WellFargo. Từ đó đến nay có rất nhiều tìm tòi, thử nghiệm, thành công cũng như thất bại trên con đường xây dựng một hệ thống ngân hàng điện tử hoàn hảo, phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Tổng kết những mô hình đó, nhìn chung hệ thống ngân hàng điện tử được phát triển qua những giai đoạn sau đây: 1. Trương Đức Bảo, Ngân hàng điện tử và các phương tiện giao dịch điện tử, Tạp chí Tin học Ngân hàng số 4 (58), 7/2003. 2. How the Internet redefines banking, Tạp chí the Australian Banker, tuyển tập 133, số 3, 6/1999.
  6. 5 - Brochure – ware: Là hình thái đơn giản nhất của ngân hàng điện tử. Hầu hết các ngân hàng khi mới bắt đầu xây dựng ngân hàng điện tử là thực hiện theo mô hình này. Việc đầu tiên chính là xây dựng một website chứa những thông tin về ngân hàng, về sản phẩm lên trên mạng nhằm quảng cáo, giới thiệu, chỉ dẫn, liên lạc…, thực chất ở đây chỉ là một kênh quảng cáo mới ngoài những kênh thông tin truyền thống khác như báo chí, truyền hình… mọi giao dịch của ngân hàng vẫn thực hiện qua hệ thống phân phối truyền thống, đó là các chi nhánh ngân hàng. - E – commerce: Trong hình thái thương mại điện tử , ngân hàng sử dụng Internet như một kênh phân phối mới cho những dịch vụ truyền thống như xem thông tin tài khoản, nhận thông tin giao dịch chứng khoán… Internet ở dây chỉ đóng vai trò như một dịch vụ cộng thêm vào để tạo sự thuận lợi thêm cho khách hàng. Hầu hết các ngân hàng vừa và nhỏ đang ở hình thái này. - E – business: Trong hình thái này, các xử lý cơ bản cả ở phía khách hàng (front- end) và phía người quản lý (back-end) đều được tích hợp với Internet và các kênh phân phối khác. Giai đoạn này được phân biệt bởi sự gia tăng về sản phẩm và chức năng của ngân hàng với sự phân biệt sản phẩm theo nhu cầu và quan hệ của khách hàng đối với ngân hàng. Hơn thế nữa, sự phối hợp, chia sẻ dữ liệu giữa hội sở ngân hàng và các kênh phân phối như chi nhánh, mạng Internet, mạng không dây… giúp cho việc xử lý yêu cầu và phục vụ khách hàng được nhanh chóng và chính xác hơn. Internet và khoa học công nghệ đã tăng sự liên kết, chia sẻ thông tin giữa ngân hàng, đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý… Một vài ngân hàng tiên tiến trên thế giới đã xây dựng được mô hình này và hướng tới xây dựng được một ngân hàng điện tử hoàn chỉnh. - E – bank (E – enterprise): chính là mô hình lý tưởng của một ngân hàng trực tuyến trong nền kinh tế điện tử, một sự thay đổi hoàn toàn trong mô hình kinh doanh và phong cách quản lý. Những ngân hàng này sẽ tận dụng sức mạnh thực sự của mạng toàn cầu nhằm cung cấp toàn bộ các giải pháp tài chính cho khách hàng với chất lượng tốt nhất. Từ những bước ban đầu là cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hiện hữu thông qua nhiều kênh riêng biệt, ngân hàng có thể sử dụng nhiều kênh liên lạc này nhằm cung cấp nhiều giải pháp khác nhau cho từng đối tượng khách hàng chuyên biệt.
  7. 6 1.1.4 Hệ thống thanh toán điện tử. Thanh toán điện tử được hiểu như là việc ứng dụng những công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ internet vào những phương tiện thanh toán truyền thống hoặc xây dựng những hệ thống mới nhằm phục vụ cho những nhu cầu thanh toán (giao dịch truyền thống trước đây và giao dịch qua mạng sau này). Thanh toán điện tử ra đời đã chứng tỏ được ưu thế của mình khi tiết kiệm được thời gian, chi phí, giảm thiểu rủi ro và công việc hành chính so với những phương tiện truyền thống. Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử vừa dễ dàng sử dụng vừa đạt được chuẩn chung nhất cho mọi yêu cầu đã gặp phải rất nhiều khó khăn, thậm chí thất bại. Xét về tổng thể, hệ thống thanh toán điện tử gồm hai thành phần chính, đó là thanh toán doanh nghiệp với cá nhân B2C (Business to Consumer) và thanh toán giữa các doanh nghiệp B2B (Business to Business). 1.1.4.1. Thanh toán B2C – Doanh nghiệp và cá nhân Sự phát triển của TMĐT không thể nào không gắn với sự phát triển của hệ thống thanh toán điện tử và sẽ không có sự thịnh vượng của TMĐT nếu như không có một cơ sở hạ tầng thanh toán nhanh chóng, an toàn và có chuẩn chung thống nhất. Tuy nhiên, trong thời gian đầu, hệ thống thanh toán dựa trên mạng internet đã phải vượt qua nhiều thất bại rồi suy thoái. Rất nhiều hệ thống đã được đưa vào thử nghiệm rồi thất bại. Ví dụ như tiền kỹ thuật số (digital cash), được coi là khởi nguồn của tiền điện tử sau này (e-cash), được sử dụng đầu tiên tại Amsterdam sau đó được triển khai tại thung lũng Silicon vào tháng 08/1997, sau khi đạt được một số ứng dụng tương đối, cuối cùng phải thanh lý vào tháng 09/1998. Một ví dụ khác: Người dẫn đầu thị trường điện tử - Cybercash đã phải thay đổi chiến lược kinh doanh và những nhà lãnh đạo chủ chốt nhiều lần, và đã từng bị loại khỏi danh sách niêm yết trên sàn giao dịch NASDAQ vào đầu năm 2001. Hay một công ty đầu tư mạo hiểm của Pháp: Cyber-com đã thuyết phục được phần lớn những ngân hàng Pháp với quan điểm kết hợp công nghệ Internet và thẻ thông minh, tuy nhiên, đã bị phá sản vào đầu năm 2001. Hệ thống thanh toán nhỏ (Micro-payment) được triển khai vào những thập niên 90 thích hợp cho việc thanh toán của hàng hoá vô hình và có giá trị thấp như thông tin,
  8. 7 giải trí trực tuyến, băng đĩa nhạc, vé xem phim… cũng đạt được một vài thành công nhưng vẫn chưa đạt được thị phần như mong muốn. Một cố gắng khác nhằm xây dựng một hệ thống chuẩn chung và ứng dụng rộng cũng đã đạt được một vài thành công. JEPI (Joint Electric Payment Initiative) được hậu thuẫn lớn bởi CommerceNet và World Wide Web đã bị bỏ rơi bởi sự thiếu quan tâm của những doanh nghiệp kinh doanh trên mạng. Hệ thống SET (Secure Electronic Transaction) được tài trợ bởi hai tổ chức khổng lồ là Visa và MasterCard, cũng như hai ông trùm công nghệ là IBM và Microsoft, là một hệ thống mã hoá phức tạp, sử dụng công nghệ PKI (Public Key Infrastructure), đã gặp phải những vấn đề khi không được sự chấp thuận của các thương gia, người tiêu dùng cuối cùng và các ngân hàng, do sự phức tạp và ít được sự chấp thuận của khách hàng. Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhằm thay thế hệ thống thanh toán thẻ và hệ thống mạng thanh toán của chúng hiện tại vẫn đang là công cụ chính cho thanh toán B2C, được sử dụng trên 95% các giao dịch. Tuy nhiên, rất nhiều cá nhân và tổ chức nhận ra rằng thanh toán dựa trên thẻ không phải là phương thuốc trị bách bệnh cho tất cả các giao dịch TMĐT. Chi phí hơi cao đối với các nhà bán lẻ và không được ủng hộ bởi các ngân hàng do sự gia tăng rủi ro của tranh chấp và lừa dối khi thẻ không được kiểm tra trực tiếp. Các nhà phát hành thẻ hàng đầu đang xúc tiến triển khai thẻ thông minh, kết hợp giữa những tiện ích của thẻ và của mạng ngân hàng điện tử (một con chip thông minh được gắn trên thẻ) đang hứa hẹn một tiềm năng sẽ phù hợp cho mọi loại giao dịch. Đánh giá lại mọi sự thất bại, nguyên nhân chính là sự xa vời với hành vi và tính cách của người tiêu dùng. Những giải pháp mới thường rơi vào vòng luẩn quẩn. Những thương nhân thường không sử dụng những hệ thống mới nếu chỉ có một số lượng ít khách hàng sử dụng nó, và ngược lại khách hàng cũng không sử dụng hệ thống thanh toán nếu chỉ rất ít thương gia chấp nhận nó. Mặc dù đã trải qua những kinh nghiệm không mấy tốt đẹp khi xây dựng những thế hệ đầu của việc thanh toán B2C, sự phát triển của hệ thống thanh toán dựa trên mạng điện tử không những không giảm và đã được mở rộng và đạt được mục đích. Thanh toán B2C đã thu hút nhiều thành viên mới, họ là những nhà kinh doanh qua
  9. 8 mạng, được đầu tư bởi những quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc những nhà cung cấp công nghệ nổi tiếng ví dụ như Microsoft hay Yahoo. 1.1.4.2. Thanh toán B2B – Doanh nghiệp với doanh nghiệp. Sự năng động của nền tài chính điện tử (e-finance) là sự thay đổi nhận thức từ phản hồi sang chủ động của công nghệ ngân hàng. Nhiều công nghệ mới đã ra đời khi cố gắng ứng dụng công nghệ Internet vào hạ tầng thanh toán hiện hữu. Hai hệ thống được ứng dụng và có hiệu quả nhất là Identrus và SWIFTNET. - Hệ thống SWIFTNET (www.swift.com) Hệ thống SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunications) bao gồm hơn 7.000 tổ chức tài chính của trên 190 nước, là xương sống của hệ thống thanh toán giữa các tổ chức trên thế giới hiện nay. Vào tháng 12/2000, những nhà quản trị mạng SWIFT quyết định xây dựng mạng SWIFT dựa trên hệ thống mạng IP (Internet Base Network): SWIFTNET, nhằm đưa mạng SWIFT trở thành xương sống của hạ tầng thanh toán mạng trực tuyến toàn cầu. Ở Châu Âu, SWIFT đã liên kết với hệ thống ngân hàng trung ương xây dựng hệ thống thanh toán thời gian thực, phục vụ như một mạng trao đổi thông tin cho các giao dịch số lượng lớn trên toàn Châu Âu. Vai trò của SWIFTNET ngày càng được mở rộng và trở thành trung tâm trao đổi thông tin phục vụ cho thanh toán bù trừ và thanh toán chứng từ (Global Straight Through Processing) và thanh toán quốc tế (CLS Bank) trên phạm vi toàn thế giới. Mạng SWIFTNET sẽ kết hợp chuẩn IP với khả năng bảo mật tốt, hiệu suất cao, giao diện ứng dụng chính của SWIFT hiện nay SWIFT – FIN đã kết hợp với SWIFTNET vào năm 2004 và đã cung cấp thêm các dịch vụ như cung cấp thông tin, hạ tầng bảo mật, thanh toán… và nhiều dịch vụ khác. Vào tháng 9/2000, Identrus đã công bố một kết hợp chiến lược kết hợp cùng SWIFTNET, chuẩn IP sẽ giúp cho những thành viên của SWIFT và người sử dụng có được những giao diện đơn giản hơn và hiệu quả. Tham vọng của SWIFTNET là trở thành sự lựa chọn hàng đầu cho hạ tầng thanh toán thế hệ mới dựa trên công nghệ Internet.
  10. 9 Mặc dù hệ thống thanh toán, chuyển tiền được sử dụng cho giao dịch của các tổ chức tài chính đã được xây dựng trên hệ thống điện tử từ những năm 70, tuy nhiên công nghệ Internet đã thổi một luồng sinh khí mới vào hệ thống cũ, chuyển thành một hạ tầng thanh toán mở, thiết lập liên kết trực tiếp giữa khách hàng, người bán, các nhà trung gian và những nhà cung cấp công nghệ. Mạng Internet đã xoá bỏ những khoảng cách vật lý, xây dựng những tiêu chuẩn mới và với công nghệ bảo mật, chứng chỉ số và thẻ thông minh, hạ tầng thanh toán hiện nay đủ khả năng cung cấp một mô hình thanh toán linh hoạt, an toàn và xây dựng trên một mạng toàn cầu. - BOLERO (www.bolero.net) Bolero International Ltd được thành lập vào tháng 08/1998 như một công ty cổ phần của SWIFT và Throught Transport Group (TT Group), phục vụ cho công việc hậu cần và vận chuyển (với khoảng 10.000 thành viên là khách hàng). Vào mùa thu 2000, Bolero, được đầu tư thêm 50 triệu USD từ tập đoàn đầu tư mạo hiểm Ppax Partner. Bolero xây dựng một nền tảng cho việc chuyển giao chứng từ điện tử trong thương mại và dữ liệu một cách an toàn qua mạng Internet. Hệ thống đã được đưa vào sử dụng tháng 10/1999, sử dụng công nghệ truyền tin của SWIFT và được đặt tên lại là Bolero.net. Bolero hoạt động như một bên thứ ba độc lập nhằm bảo đảm việc chuyển giao và nhận thông tin một cách bảo mật theo suốt dây chuyền thương mại từ xử lý và quản lý đơn hàng cho tới trao đổi chứng từ và thanh toán. Bolero.net cung cấp một cấu trúc chuẩn chung cho tất cả các bên tham gia vào thương mại quốc tế (nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, đại lý hãng tàu, nhà vận chuyển, hải quan và ngân hàng quốc tế), lợi thế của Bolero chính là sự kết hợp giữa công nghệ Internet và khung pháp lý. Sau nhiều năm tư vấn Bolero.net đã xuất bản một cuốn Quy tắc chung dành cho mọi khách hàng, tạo sự nhất quán và chính xác cho mọi dịch vụ mà Bolero cung cấp. Khách hàng, ví dụ như Sanwa và Ottot Versand đã ước đoán rằng, xử lý chứng từ qua mạng Bolero sẽ giúp giảm thời gian xử lý chứng từ từ 15 ngày xuống còn khoảng 2 ngày và giảm chi phí xuống từ 30% đến 50%. Hiện nay, Bolero đang hoạt động dựa trên mạng SWIFT, và dự định sẽ là người đầu tiên tham gia mạng SWIFTNET. Để phát huy vai trò của công nghệ Internet,
  11. 10 Bolero đã và đang phát triển BoleroXML, một tập hợp các tiêu chuẩn kỹ thuật để mô tả cấu trúc và nội dung của bản điện tử thay thế cho các chứng từ thanh toán thương mại hiện hữu như hoá đơn, vận đơn, hối phiếu… Hơn 30 công ty trong đó có Sun Microsystems AMS, Mercator, Neon, China System, Midas Kapiti và Surecomp… đã trở thành đối tác của Bolero.net và trong tương lai, chứng từ điện tử có lẽ sẽ đóng vai trò chính trong hệ thống thương mại hiện nay. 1.2. CÁC SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ 1.2.1 Các sản phẩm. Sự phát triển như vũ bảo của công nghệ thông tin trong những năm gần đây đã ảnh hưởng khá rõ nét đến sự phát triển của công nghệ ngân hàng. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới dịch vụ ngân hàng điện tử đã phát triển khá phổ biến, đa dạng về loại hình sản phẩm và dịch vụ. Tập trung lại bao gồm các loại sau: - Call centre Do quản lý dữ liệu tập trung nên khách hàng có tài khoản tại bất kỳ chi nhánh nào vẫn gọi về một số điện thoại cố định của trung tâm này để được cung cấp mọi thông tin chung và cá nhân. Khác với phone banking chỉ cung cấp các loại thông tin lập trình sẵn, Call centre có thể linh hoạt cung cấp thông tin hoặc trả lời các thắc mắc của khách hàng. Nhược điểm của Call centre là phải có người trực 24/24 giờ. - Phone banking Đây là loại sản phẩm cung cấp thông tin ngân hàng qua điện thoại hoàn toàn tự động. Do tự động nên các loại thông tin được ấn định trước, bao gồm thông tin về tỷ giá hối đoái, lãi suất, giá chứng khoán, thông tin cá nhân cho khách hàng như số dư tài khoản, liệt kê năm giao dịch cuối cùng trên tài khoản, các thông báo mới nhất… Hệ thống cũng tự động gửi fax khi khách hàng yêu cầu cho các loại thông tin nói trên. Hiện nay, qua Phone banking, thông tin được cập nhật, khác với trước đây, khách hàng chỉ có thông tin của cuối ngày hôm trước. - Mobile banking Là hình thức thanh toán trực tuyến qua mạng điện thoại di động, song hành với phương thức thanh toán qua mạng Internet ra đời khi mạng lưới Internet phát triển đủ mạnh vào khoảng thập niên 90. Phương thức này được ra đời nhằm giải quyết nhu cầu
  12. 11 thanh toán các giao dịch có giá trị nhỏ (Micro payment) hoặc những dịch vụ tự động không có người phục vụ. Muốn tham gia dịch vụ, khách hàng đăng ký để trở thành thành viên chính thức trong đó quan trọng là cung cấp những thông tin cơ bản như: số điện thoại di động, tài khoản cá nhân dùng trong thanh toán. Sau đó, khách hàng được nhà cung ứng dịch vụ thanh toán qua mạng này cung cấp một mã số định danh (ID). Mã số này không phải số điện thoại và nó sẽ được chuyển thành mã vạch để dán lên điện thoại di động, giúp cho việc cung cấp thông tin khách hàng khi thanh toán nhanh chóng, chính xác và đơn giản hơn các thiết bị đầu cuối của điểm bán hàng hay cung ứng dịch vụ. Cùng với mã số định danh khách hàng còn được cấp một mã số cá nhân (PIN) để khách hàng xác nhận giao dịch thanh toán khi nhà cung cấp dịch vụ thanh toán yêu cầu. Sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết thì khách hàng sẽ là thành viên chính thức và đủ điều kiện để thanh toán thông qua điện thoại di động. - Home banking Với ngân hàng tại nhà, khách hàng giao dịch với ngân hàng qua mạng nhưng là mạng nội bộ (Intranet) do ngân hàng xây dựng riêng. Các giao dịch được tiến hành tại nhà thông qua hệ thống máy tính nối với hệ thống máy tính của Ngân hàng. Thông qua dịch vụ Home banking, khách hàng có thể thực hiện các giao dịch về chuyển tiền, liệt kê giao dịch, tỷ giá, lãi suất, báo nợ, báo có… Để sử dụng dịch vụ Home banking, khách hàng chỉ cần có máy tính (tại nhà hoặc trụ sở) kết nối với hệ thống máy tính của Ngân hàng thông qua modem – đường điện thoại quay số, khách hàng phải đăng ký số điện thoại và chỉ những số điện thoại này mới được kết nối với hệ thống Home banking của Ngân hàng. - Internet banking Dịch vụ Internet banking giúp khách hàng chuyển tiền trên mạng thông qua các tài khoản cũng như kiểm soát hoạt động của các tài khoản này. Để tham gia, khách hàng truy cập vào website của Ngân hàng và thực hiện giao dịch tài chính, truy vấn thông tin cần thiết. Thông tin rất phong phú, đến từng chi tiết giao dịch của khách hàng cũng như thông tin khác về ngân hàng. Khách hàng cũng có thể truy cập vào các Website khác để mua hàng và thực hiện thanh toán với Ngân hàng. Tuy nhiên, khi kết
  13. 12 nối internet thì ngân hàng phải có hệ thống bảo mật đủ mạnh để đối phó với rủi ro trên phạm vi toàn cầu. Đây là trở ngại lớn vì đầu tư hệ thống bảo mật rất tốn kém. 1.2.2 Phương tiện giao dịch thanh toán điện tử - Tiền điện tử - Digital Cash Tiền điện tử là một phương tiện thanh toán trên Internet. Người muốn sử dụng tiền điện tử gửi yêu cầu tới Ngân hàng. Ngân hàng phát hành tiền điện tử sẽ phát hành một bức điện được ký phát bởi mã cá nhân (private key) của ngân hàng và được mã hoá bởi khoá công khai (public key) của khách hàng. Nội dung bức điện bao gồm thông tin xác định người phát hành, địa chỉ Internet, số lượng tiền, số seri, ngày hết hạn (nhằm tránh việc phát hành hoặc sử dụng hai lần). Ngân hàng sẽ phát hành tiền với từng khách hàng cụ thể. Khách hàng cất giữ tiền điện tử trên máy tính cá nhân. Khi thực hiện một giao dịch mua bán, khách hàng gửi tới nhà cung cấp một thông điệp điện tử được mã hoá bởi khoá công khai của nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ. Nhà cung cấp dùng khoá riêng của mình để giải mã thông điệp đồng thời kiểm tra tính xác thực của thông điệp thanh toán này với Ngân hàng phát hành cũng bằng mã khoá công khai của Ngân hàng phát hành và kiểm tra số seri tiền điện tử. - Séc điện tử - Digital Cheques Cũng sử dụng kỹ thuật tương tự như trên để chuyển phát séc và hối phiếu điện tử trên mạng Internet. Séc điện tử có nội dung giống như séc thường, chỉ khác biệt duy nhất là séc này được ký điện tử (tức là việc mã hoá thông điệp bằng mật mã cá nhân của người ký phát séc). Khi ngân hàng của người thụ hưởng thực hiện nghiệp vụ nhờ thu séc, họ sẽ đánh dấu lên thông điệp điện tử và việc thông điệp này được mã hoá bởi mã hoá công khai của Ngân hàng phát hành séc sẽ là cơ sở cho việc thanh toán séc điện tử này. - Thẻ thông minh – Ví điện tử - Stored Value smart Card. Là một loại thẻ nhựa gắn với một bộ vi xử lý (micro – processor chip). Người sử thẻ nạp tiền vào thẻ và sử dụng trong việc mua hàng. Số tiền được ghi trong thẻ sẽ được trừ lùi cho tới zero. Lúc đó chủ sở hữu có thể nạp lại tiền hoặc vứt bỏ thẻ. Ví điện tử được sử dụng trong rất nhiều các loại giao dịch như ATM, internet banking, home
  14. 13 banking, telephone banking hoặc mua hàng trên Internet với một đầu đọc thẻ thông minh kết nối vào máy tính cá nhân. 1.3. TÍNH TẤT YẾU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1.3.1 Vai trò của Ngân hàng điện tử trong xu thế hội nhập. Hệ thống Ngân hàng điện tử ra đời gắn liền với nhu cầu của thị trường mới, lưu thông tiền tệ và lưu thông thông hàng hoá không tách rời nhau. Chính vì thế, Ngân hàng điện tử có một vai trò vô cùng to lớn đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam trong xu thế hội nhập ngày nay. Với các nguồn dữ liệu được truy cập kịp thời, chính xác qua hệ thống mạng thông tin, Ngân hàng Trung Ương khai thác khả năng phân tích, lựa chọn các giải pháp tối ưu để sử dụng các công cụ điều tiết, kiểm soát từ nguồn gốc cung ứng tiền tệ để đạt được mục đích điều hoà giữ vững ổn định tiền tệ đối nội và đối ngoại theo mong muốn, có đủ điều kiện để đánh giá tình hình thực hiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán và diễn biến tốc độ phát triển kinh tế. Như vậy, vai trò của Ngân hàng TW sẽ nâng cao hơn, phát huy hết chức năng của mình nếu như việc ứng dụng ngân hàng điện tử ngày càng được đẩy mạnh trong hệ thống ngân hàng. Mạng thông tin giúp cho hoạt động thanh tra, giám sát Ngân hàng chặt chẽ, kịp thời chấn chỉnh những vi phạm, giữ vững an toàn hệ thống. Việc quản lý hệ thống kho quỹ, in ấn tiền, tổ chức điều hành văn phòng, quản lý hồ sơ cán bộ, đào tạo huấn luyện nghiệp vụ, hội họp từ xa trong nước và quốc tế… đều có thể ứng dụng qua mạng thông tin sẽ rất thuận tiện, giảm được đáng kể chi phí đi lại, chi phí tổ chức, tiết kiệm thời gian… Việc thực hiện các giao dịch qua mạng làm thay đổi lớn đến công nghệ ngân hàng tạo ra năng suất cao với chi phí giảm thiểu. Chính điều đó sẽ làm cho luồng tiền từ mọi phía chảy vào Ngân hàng sẽ rất lớn, nó được điều hoà sử dụng với hệ số hữu ích cao, làm thay đổi cơ cấu tiền lưu thông, chuyển từ nền kinh tế tiền mặt qua nền kinh tế chuyển khoản.
  15. 14 Từ đó, Ngân hàng có thể kiểm soát các khoản thu chi qua hệ thống Ngân hàng điện tử của mình, cũng từ đó có thể hạn chế được các vụ rửa tiền, chuyển tiền bất hợp pháp, tham nhũng… Đầu tư tín dụng cũng có sự thay đổi lớn. Các dự án đầu tư cũng có thể được đưa lên trên mạng để chào mời các Ngân hàng thương mại. Máy tính điện tử phân tích các dữ liệu truy cập, đưa ra các phương án để lựa chọn tối ưu. Ngân hàng thương mại thấy rõ những điều cần tư vấn để bổ khuyết vào dự án đảm bảo khả năng thực thi. Ngoài ra, mạng thông tin cung cấp cho các tổ chức tín dụng nắm được diễn biến của các thị trường: tiền tệ, chứng khoán, hối đoái. Những diễn biến về lãi suất, giá cổ phiếu, tỷ giá hối đoái. Các luồng vốn khả dụng được chào mời trên thị trường liên ngân hàng phản ánh qua mạng sẽ giúp cho Ngân hàng có các chính sách đúng đắn và hoạch định các phương án hoạt động phù hợp. Có thể nói, Ngân hàng điện tử có vai trò vô cùng to lớn trong hệ thống ngân hàng, nó đang tác động đến các ngân hàng, xúc tiến việc sáp nhập, hợp nhất, hình thành các Ngân hàng lớn, nâng cao nguồn vốn tự có đủ sức trang bị công nghệ thông tin hiện đại để đương đầu với cuộc cạnh tranh khốc liệt giành lợi thế về mình. Mặt khác, nó cũng đẩy mạnh việc liên kết, hợp tác giữa các Ngân hàng ngày càng chặt chẽ, phát triển đa dạng, mạnh mẽ, rộng khắp trong nước và thế giới… để thiết lập các đề án phát triển nghiệp vụ kinh doanh sản phẩm và dịch vụ mới, sử dụng mạng lưới thanh toán điện tử, thông tin rủi ro, tư vấn pháp luật, kiểm toán phòng ngừa, lập quỹ bảo toàn tiền gửi, xây dụng các chương trình đồng tài trợ, lập chương trình phối hợp đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ nhân viên, kể cả các hình thức hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ và văn hoá xã hội… 1.3.2 Tính tất yếu của việc phát triển Ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Thứ nhất, sự cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng ngày càng gia tăng. Đặc biệt, những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá, tự do phát triển mạnh mẽ làm cho sự phát triển của các ngân hàng tuỳ thuộc vào lợi thế của mình để giành giật thị trường từ các đối thủ.
  16. 15 Mặt khác, hệ thống Ngân hàng đa quốc gia đang mở rộng hoạt động đến các thị trường mới một cách mạnh mẽ, làm tăng tốc độ hội nhập vào thị trường tài chính, ngân hàng quốc tế. Đồng thời sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt cả về mức độ, phạm vi và cả về sản phẩm, dịch vụ cung ứng trên thị trường. Thứ hai, sự biến đổi mạnh mẽ của môi trường hoạt động kinh doanh. Môi trường kinh doanh Ngân hàng bao gồm nhiều yếu tố cơ bản như: môi trường địa lý, dân số, kinh tế, văn hoá – xã hội, kỹ thuật công nghệ, chính trị, pháp luật… mà những nhân tố này thì luôn luôn biến động theo sự thay đổi của xã hội. Chính sự thay đổi của môi trường kinh doanh đã tạo ra những cơ hội và thách thức đối với hoạt động của hệ thống Ngân hàng nước ta nói chung và việc đẩy mạnh dịch vụ ngân hàng điện tử nói riêng. Thứ ba, đó là nhu cầu và đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao trong sử dụng dịch vụ Ngân hàng. Ngày nay, họ luôn bận rộn vì ít thời gian, nhu cầu cuộc sống đa dạng và phức tạp, họ rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường và giá cả, nhu cầu tài chính trong cuộc sống cao hơn rất nhiều, nên họ cần có quan hệ và dịch vụ thanh toán, họ có đủ trình độ để tiếp nhận công nghệ cao và sử dụng các dịch vụ hiện đại, an toàn và tiện lợi. Có thể nói rằng nhu cầu khách hàng của Ngân hàng hiện nay hết sức đa dạng, phức tạp và yêu cầu, đòi hỏi của họ ngày càng cao trong việc lựa chọn, sử dụng sản phẩm dịch vụ và Ngân hàng. Khách hàng đòi hỏi từ phía ngân hàng những sản phẩm dịch vụ chất lượng cao với nhiều tiện ích. Đó là “áp lực” buộc hoạt động ngân hàng phải thích ứng. Sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử sẽ đáp ứng yêu cầu phục vụ nhanh, chính xác, an toàn và tiện lợi cho “Thượng đế”, đẩy mạnh các hoạt động của ngân hàng. Trong hội nhập quốc tế về ngân hàng, quốc gia nào có hệ thống ngân hàng đủ mạnh, thì sẽ giành được nhiều ưu thế trong cạnh tranh và giảm thiểu những rủi ro quốc tế trong quá trình hoạt động. Mặt khác, một hệ thống ngân hàng đủ mạnh sẽ đảm bảo cho quốc gia tận dụng được lợi thế và khắc phục được những hạn chế của quá trình toàn cầu hoá. Sức mạnh chi phối quá trình toàn cầu hoá là sự chu chuyển nhanh các luồng vốn quốc tế ngắn và
  17. 16 dài hạn trên phạm vi toàn cầu với sự trợ giúp của thương mại điện tử toàn cầu và cụ thể là phát triển ngân hàng điện tử. Một khối lượng luồng vốn quốc tế sẽ đổ vào quốc gia có môi trường đầu tư và các điều kiện khác liên quan hấp dẫn. Ngược lại, dòng vốn đó có thể lại “ào ào rút chạy”, nếu như môi trường kinh doanh ở quốc gia đó kém với một hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử là một trong những điều kiện giúp cho hệ thống ngân hàng nước ta trở nên mạnh hơn trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế về ngân hàng. Từ sự phân tích trên, có thể thấy muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi các ngân hàng Việt Nam phải vươn lên mạnh mẽ để giải quyết nhiều vấn đề trong hoạt động của ngân hàng. Một trong những vấn đề có tính quyết định trong xu thế cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày nay là phải phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. 1.4. DỊCH VỤ BẢO MẬT, CHỮ KÝ ĐIỆN TỬ VÀ CHỨNG CHỈ SỐ, CÔNG NGHỆ BẢO MẬT 1.4.1. Công nghệ bảo mật. SET (Secure Electronic Transaction): là một giao thức bảo mật do Microsoft phát triển, SET có tính riêng tư, được chứng thực và rất khó thâm nhập nên tạo được độ an toàn cao, tuy nhiên, SET ít được sử dụng do tính phức tạp và sự đòi hỏi phải có các bộ đọc card đặc biệt cho người sử dụng. SSL (Secure Socket Layer): là công nghệ bảo mật do hãng Nescape phát triển, tích hợp sẵn trong bộ trình duyệt của khách hàng, đó là một cơ chế mã hóa (encryption) và thiết lập một đường truyền bảo mật từ máy của Ngân hàng đến khách hàng (https). SSL đơn giản và được ứng dụng rộng rãi. Ngoài ra còn nhiều công nghệ khác cũng đạt được những thành công nhất định. 1.4.2. Chữ ký điện tử và cấp phát chứng nhận điện tử (CA): Chữ ký điện tử: là một thuật toán mã hóa với một khóa riêng biệt (Private Key) dùng để mã hóa dữ liệu. Khi một văn bản hay một thông điệp cần gửi đi, trình duyệt Internet (Browser), sử dụng thuật toán của chữ ký điện tử, mã hóa văn bản và đính kèm
  18. 17 vào văn bản gốc tạo thành chữ ký điện tử cho văn bản đó. Thuật toán này là duy nhất và đảm bảo an toàn với khóa 128 bit và có thể lên đến 1.024 bit. Khi người nhận nhận được văn bản kèm chữ ký điện tử, người này dùng khóa công cộng (một thuật toán mã hóa chung) tạo ra văn bản mã hóa (Digest) và gửi yêu cầu chứng nhận tới tổ chức chứng nhận (bên thứ 3 như Entrust, Verigin…), tổ chức chứng nhận (CA) dễ dàng dùng bản sao của khóa riêng (private key) giải mã chữ ký điện tử thành văn bản mã hóa (digest), trình duyệt Internet (browser) sẽ so sánh hai tập tin này (một do khóa công tạo ra và một do tổ chức chứng nhận tạo ra), khi hai tập tin này trùng khớp hoàn toàn tức là chữ ký điện tử được xác nhận. Chứng nhận điện tử: Là một tổ chức (bên thứ 3) cung cấp những thuật toán và quản lý chữ ký điện tử (Ví dụ như Verisign, e-Trust), chuyên cung cấp, xử lý và chứng nhận chữ ký điện tử trong các giao dịch trên mạng. Trước đây, chữ ký điện tử chỉ có giá trị quy ước giữa các tổ chức cá nhân tham gia giao dịch trên mạng. Tất cả những quá trình tạo chữ ký điện tử, chứng nhận chữ ký điện tử được thực hiện tự động giữa Web server và trình duyệt Web. 1.4.3. Bảo hiểm cho giao dịch điện tử. Hoạt động của các ngân hàng Mỹ chịu sự quản lý của ba tổ chức thuộc chính phủ là Văn phòng quản lý tiền tệ (Office of the comptroller of Currency, Treasury), Cty bảo lãnh tiền gửi liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation FDIC), và hệ thống quỹ dự trữ liên bang (Federal Reserve System). Những tổ chức này có trách nhiệm quản lý, điều hành hoạt động của các ngân hàng, kiểm soát tiền tệ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Sau khi kiểm tra, đánh giá, FDIC sẽ tiến hành xếp hạng ngân hàng và cung cấp chứng nhận bảo lãnh, cụ thể, trên những trang Web có biểu tượng FDIC, tức là được chứng nhận về danh tiếng và được bảo đảm. Những ngân hàng nổi tiếng khi cung cấp những dịch vụ cộng thêm như quỹ đầu tư, thường nêu rõ trên chú thích, ví dụ như trang Web này không được bảo đảm bởi FDIC, và có rủi ro cao. Trong ba quý đầu năm 2006, FDIC đã tăng thêm 1,4 tỷ USD, đưa số dư của quỹ lên đến 50 tỷ USD tính tới 30/10/2006. Đây là con số đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái khi FDIC sáp nhập Quỹ bảo hiểm ngân hàng (Bank Insurance Fund) với Quỹ bảo
  19. 18 hiểm tiết kiệm (Savings Association Insurance Fund) với tổng giá trị quỹ là 866 triệu USD và đã thanh toán tới 134 triệu USD cho các rủi ro mà khách hàng và các tổ chức tín dụng gặp phải. 1.4.4 Phát triển hạ tầng công nghệ, phần cứng phục vụ cho bảo mật. Năm 2005, thị trường CNTT toàn cầu tăng trưởng là 8,4% tính theo giá trị đồng USD (Ghi chú: Gartner Dataquest, 2005). Tổng giá trị toàn thị trường CNTT toàn cầu (không kể viễn thông đã vượt qua ngưỡng 1.000 tỷ USD). Trong đó, mảng dịch vụ CNTT có giá trị thị trường là 624 tỷ USD năm 2005. Chi tiêu cho phần cứng vẫn tăng trưởng mạnh hơn cho chi tiêu cho phần mềm, dịch vụ. Công nghệ bảo mật trong nhiều năm qua đã có những bước phát triển vượt bậc. Ngoài hệ thống máy chủ hiện đại với tốc độ xử lý theo cấp số nhân. Những công nghệ bảo mật hiện đại liên tiếp ra đời với sự tham gia của nhiều tập đoàn lớn như thẻ thông minh, hệ thống nhận dạng sinh trắc học, hệ thống backup dữ liệu, hệ thống tường lửa, các chương trình phòng chống virus được cập nhật thường xuyên. Có thể kể tên nhiều thương hiệu tên tuổi trong lĩnh vực CNTT cung cấp dịch vụ bảo mật như Microsoft, Verisign, HP, Fujitsu, IBM, Compaq, Visa, Master, Symantec, Oracle… Do tính chất nhạy cảm của lĩnh vực tài chính, ngân hàng, mặc dù còn một vài lỗ hổng nhưng nhanh chóng được khắc phục, những công nghệ, hạ tầng phần cứng hiện đại và cập nhật thường xuyên đã tạo nên lòng tin vững chắc của khách hàng đối với dịch vụ NHĐT.
  20. 19 Kết luận chương 1: Chương 1 đã nêu một cách khái quát những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử, sự hình thành và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trên thế giới như thế nào. Thật vậy, ngân hàng điện tử, hiểu theo nghĩa đơn giản và trực quan nhất đó là sự kết hợp hoạt động ngân hàng với Internet – Là kết quả tất yếu của quá trình phát triển công nghệ thông tin, điện tử và tin học, được ứng dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các ngân hàng trên thế giới đã và đang phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ của ngân hàng điện tử. Đối với nước ta, đây là lĩnh vực hoạt động mới, hầu hết các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp quy của Ngân hàng Nhà nước và một số Bộ, ngành chưa đáp ứng để ứng dụng hoạt động dịch vụ của ngân hàng điện tử, ngoại trừ một số phần trong nghiệp vụ tín dụng ngân hàng phát triển riêng biệt và một số dịch vụ nhất định như: xây dựng và phát triển trang Web cho ngân hàng mình; home banking; ngân hàng qua mạng điện thoại di động (Mobile banking). Để hiểu rõ hơn các dịch vụ ngân hàng điện tử, sang chương 2 sẽ giới thiệu cụ thể về sự phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2