intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của phát triển tài chính và khu vực sản xuất đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

20
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa có ý nghĩa khoa học rất cao. Tính thực tiễn của nghiên cứu được thể hiện ở việc nếu nghiên cứu thành công sẽ đưa ra một phương pháp phân tích định lượng trong việc xác định sự phụ thuộc lẫn nhau giữa khu vực tài chính và khu vực sản xuất của nền kinh tế thực tác động đến tăng trưởng kinh tế. Giúp xác định một giá trị ngưỡng mà tại đó phát triển tài chính kéo theo sự gia tăng sản lượng của khu vực sản xuất sẽ có tác động hiệu quả nhất đối với tăng trưởng kinh tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của phát triển tài chính và khu vực sản xuất đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------ HUỲNH THỊ MỸ ANH TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ KHU VỰC SẢN XUẤT ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. DIỆP GIA LUẬT Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2015
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: “Tác động của phát triển tài chính và khu vực sản xuất đến tăng trưởng kinh tế - bằng chứng thực nghiệm tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” là công trình nghiên cứu do chính tác giả thực hiện và theo sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học: TS. Diệp Gia Luật. Nội dung nghiên cứu được đúc kết từ quá trình học tập và kết quả nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua. Các thông tin, dữ liệu nghiên cứu trong đề tài này là trung thực và chính xác. Các kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 12 năm 2015 Tác giả luận văn Huỳnh Thị Mỹ Anh
  3. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT BLUE: ước lượng tuyến tính không thiên lệch tốt nhất (Best Linear Unbias Estimation) CSTK: chính sách tài khóa CSTT: chính sách tiền tệ CLRM: hồi quy tuyến tính cổ điển FDI: đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP: tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products) GLS: phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát GMM: phương pháp ước lượng theo Moment tổng quát (Generalized Mothod of Moments) GNP: tổng sản lượng quốc gia (Gross National Products) GROWTH: tốc độ tăng trưởng kinh tế IMF: quỹ tiền tệ thế giới M2: cung tiền M3: cung tiền NHTW: ngân hàng trung ương OLS: phương pháp ước lượng bình phương bé nhất FEM: Fixed effect models REM: Random effect models WB: ngân hàng thế giới World Bank
  4. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Bảng tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm Bảng 3.1: Tóm tắt các biến trong mô hình Bảng 4.1: Thống kê mô tả giữa các biến trong mô hình Bảng 4.2: Kết quả phân tích tự tương quan Bảng 4.3: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai (VIF) Bảng 4.4: Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi mô hình Bảng 4.5: Kết quả kiểm tra tự tương quan mô hình Bảng 4.6 : Kiểm định tương quan chéo (cross-section independence) Bảng 4.7: Phát triển tài chính, phát triển khu vực sản xuất và tăng trưởng kinh tế khi biến đại diện cho phát triển tài chính trong phương trình (1) được thay thế với tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân so với GDP Bảng 4.8: Phát triển tài chính, phát triển khu vực sản xuất và tăng trưởng kinh tế: sử dụng R&D như là đại diện cho phát triển của khu vực sản xuất trong giai đoạn 1997- 2014 Bảng 4.9: Phát triển tài chính, khu vực sản xuất và tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1997 – 2014 Bảng 4.10: Phát triển tài chính, phát triển khu vực sản xuất và tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng biến đại diện phát triển tài chính khác trong giai đoạn 1997-2014 Bảng 4.11: Phát triển tài chính, phát triển khu vực sản xuất và tăng trưởng kinh tế sử dụng các quốc gia có thu nhập trung bình và thu nhập cao trong giai đoạn 1997-2014 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Sơ đồ 3.1: Quy trình nghiên cứu được tóm tắt
  5. 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU 1.1 Lý do chọn đề tài Tăng trưởng kinh tế là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mỗi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới sự giàu có và thịnh vượng. Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng lên, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện; tạo điều kiện giải quyết công ăn việc việc, giảm tỷ lệ thất nghiệp; tạo điều kiện vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị; tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế bền vững là mục tiêu hàng đầu; là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ của mỗi quốc gia. Tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố kinh tế vĩ mô khác nhau nhưng phát triển tài chính và khu vực sản xuất được xem là yếu tố quyết định quan trọng đến tăng trưởng kinh tế. Vai trò đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của hệ thống tài chính đã được Schum- peter đề cập từ năm 1936. Mức độ phát triển của khu vực tài chính được xem như là tiêu chí phản ánh năng lực của nền kinh tế. Hệ thống tài chính có cơ cấu phù hợp và phát triển tốt có xu hướng tác động tích cực đến việc huy động và phân bổ tiết kiệm cho các hoạt động kinh tế hướng đến năng suất cao hơn đồng thời làm giảm bớt một số rủi ro tài chính và chi phí giao dịch. Các hệ thống tài chính có khả năng quản lý rủi ro một cách hiệu quả đóng góp vào sự gia tăng của tăng trưởng kinh tế (King and Levine, 1993b) hay như Levine (1997) lập luận rằng các nước có thể chế tài chính hiệu quả trong việc giảm bớt các rào cản thông tin sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn thông qua nhiều khoản đầu tư so với các nước có hệ thống tài chính kém hiệu quả. Bên cạnh đó, phát triển tài chính đi kèm với sự phát triển song song của khu vực sản xuất sẽ góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Nhận thức được tầm quan trọng và vai trò to lớn của phát triển tài chính đối với phát triển kinh tế. Thời gian qua, có khá nhiều nghiên cứu trên cả hai phương diện lý thuyết và thực nghiệm về mối quan hệ giữa phát triển tài chính, khu vực sản xuất và
  6. 2 tăng trưởng kinh tế. Việc xem xét mối quan hệ này sẽ giúp các nhà nghiên cứu đưa ra các kiến nghị chính sách kinh tế vĩ mô đối với tăng trưởng kinh tế. Có nhiều trường phái quan điểm khác nhau về tác động của phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế. Dựa trên cách nhìn tích cực: hệ thống tài chính tốt sẽ huy động tiết kiệm, tạo điều kiện phân bổ hiệu quả các nguồn lực (King and Levine, 1993; Wang et al., 2010); giảm chi phí công ty và tăng cường các hoạt động đổi mới (Aghion et al., 2005); đóng góp vào các khoản đầu tư có lợi nhuận cao thông qua chia sẻ rủi ro (Greenwood and Jovanovic, 1990; Bencivenga and Smith, 1991; Saint-Paul, 1992). Theo quan điểm tiêu cực: phát triển tài chính có thể dẫn đến rủi ro hệ thống cao (Allen and Carletti, 2006; Wagner, 2007; Gai et al., 2008; Gennaioli et al., 2012); tiết kiệm thấp dưới mức tối ưu (Jappelli and Pagano 1994); phân bổ tối đa lao động đối với ngành tài chính (Philippon, 2010; Bolton et al., 2011) và khả năng tăng trưởng kinh tế quá nóng (Zeira, 1999). Kết luận gần đây nhất của Lorenzo Ductor et al. (2015), đối với nền kinh tế phát triển bình thường, cân bằng giữa nền kinh tế thực và tăng trưởng tài chính là cần thiết; đẩy mạnh phát triển tài chính mà không được đi kèm với sự tăng trưởng trong nền kinh tế sản xuất thực sẽ làm giảm hiệu quả của việc phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế. Các kết luận khác nhau về mối quan hệ phát triển tài chính, khu vực sản xuất đối với tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào việc lựa chọn các chỉ số làm đại diện cho phát triển tài chính, sản lượng đầu ra của nền kinh tế thực, đặc trưng thể chế chính trị, pháp lý của mỗi quốc gia, không gian và thời gian. Nhằm góp phần hoàn thiện hơn các nghiên cứu hiện có, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Tác động của phát triển tài chính và khu vực sản xuất đến tăng trưởng kinh tế - bằng chứng thực nghiệm tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”.
  7. 3 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát: nghiên cứu nhằm tìm ra mối quan hệ giữa phát triển tài chính và khu vực sản xuất đối với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở Châu Á - Thái Bình Dương. Mục tiêu cụ thể: - Xác định khung lý thuyết cho nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển khu vực tài chính và khu vực sản xuất đối với tăng trưởng kinh tế; - Xác định các yếu tố quan trọng đại diện cho phát triển tài chính và khu vực sản xuất trong việc giải thích tăng trưởng kinh tế; - Kiểm định mối quan hệ giữa phát triển khu vực tài chính và khu vực sản xuất đối với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở Châu Á - Thái Bình Dương; - Từ đó đưa ra kiến nghị chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. 1.3 Cơ sở lý thuyết Nền tảng lý thuyết được vận dụng trong bài nghiên cứu này là lý thuyết tăng trưởng kinh tế Harrod - Domar: nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn đưa vào sản xuất tăng lên. Mô hình Harrod - Domar tập trung vào vai trò cốt lõi của tiết kiệm. Hạn chế trong mô hình Harrod - Domar đó là bỏ qua vai trò của tiến bộ công nghệ. Tiến bộ công nghệ nói chung vẫn đóng một vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Để khắc phục hạn chế trong mô hình của Harrod - Domar, năm 1956, nhà kinh tế học Robert Solow giới thiệu mô hình tăng trưởng kinh tế mới. Với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Mô hình Solow là một công cụ hữu hiệu để phân tích mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư, tăng trưởng dân số, sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Hạn chế của Solow đã nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố tiến bộ công nghệ đến tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người nhưng lại
  8. 4 cho rằng tiến bộ công nghệ là yếu tố ngoại sinh mà không giải thích được dẫn đến nếu không có cú sốc công nghệ từ bên ngoài vào thì tất cả các nền kinh tế đều không tăng trưởng khi đạt tới điểm dừng. Bên cạnh lý thuyết về tăng trưởng kinh tế còn có các công trình nghiên cứu thực nghiệm của nhiều tác giả về tác động của các nhân tố đến tăng trưởng kinh tế: tiêu biểu nhất là các yếu tố thuộc khu vực tài chính và khu vực kinh tế, có thể kể đến: nghiên cứu của King and Levine (1993a): bằng chứng hồi quy cho thấy một liên kết mạnh mẽ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng dài hạn: hệ thống tài chính tốt sẽ kích thích nhanh hơn tăng năng suất và tăng trưởng sản lượng bình quân đầu người bằng cách chuyển các nguồn lực của xã hội để nâng cao năng suất. Nghiên cứu của Hassan et al. (2011) chứng minh mối liên hệ lâu dài giữa phát triển tài chính mạnh mẽ và tăng trưởng kinh tế các nước đang phát triển nhưng kết quả trái ngược nhau đối với các nước có thu nhập cao. Nghiên cứu của Zouheir Abida et al. (2015): đã tìm thấy một mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở các nước Bắc Phi. Nghiên cứu của Ductor, L. and Grechyna, D (2015): tác động của phát triển tài chính đối với tăng trưởng trở nên tiêu cực, nếu có sự tăng trưởng nhanh chóng trong tín dụng tư nhân không kèm theo tăng trưởng trong sản lượng thực tế. Dựa trên nền tảng lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm khá vững chắc, tác giả hoàn toàn có thể áp dụng làm cơ sở lý thuyết cho đề tài nghiên cứu. 1.4 Đối tượng và phạm vi thu thập dữ liệu Đối tượng nghiên cứu: mối quan hệ giữa phát triển tài chính và khu vực sản xuất đối với tăng trưởng kinh tế. Phạm vi thu thập dữ liệu: nghiên cứu tập trung 25 quốc gia được phân loại dựa trên tiêu chuẩn phân loại thu nhập của ngân hàng thế giới và phân loại trên cơ sở vị trí địa lý tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong giai đoạn 1997 - 2014. 1.5 Phương pháp nghiên cứu
  9. 5 Bài nghiên cứu được dựa trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý thuyết và các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trong những năm gần đây để làm nền tảng lý thuyết. Sử dụng các phương pháp thống kê, thống kê mô tả, tổng hợp, phân tích, kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm để xem xét, đánh giá sự khác biệt hay tương đồng giữa các quốc gia nghiên cứu đồng thời xem xét những tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc. Sử dụng mô hình dữ liệu bảng với ba phương pháp: ước lượng bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS), ước lượng GMM và ước lượng Driscoll-Kraay. Thực hiện các kiểm định: đa cộng tuyến, kiểm định phương sai thay đổi dựa trên dữ liệu bảng, kiểm định tự tương quan, kiểm định tương quan chéo để kiểm chứng tính phù hợp của các phương pháp ước lượng. Phần mềm thống kê STATA 12 được sử dụng để xử lý dữ liệu bảng trong bài nghiên cứu. 1.6 Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Bài nghiên cứu đóng góp quan trọng vào các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và một lần nữa kiểm định lại tính chuẩn xác của các nghiên cứu lý thuyết trước đây. Nghiên cứu vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa có ý nghĩa khoa học rất cao. Tính thực tiễn của nghiên cứu được thể hiện ở việc nếu nghiên cứu thành công sẽ đưa ra một phương pháp phân tích định lượng trong việc xác định sự phụ thuộc lẫn nhau giữa khu vực tài chính và khu vực sản xuất của nền kinh tế thực tác động đến tăng trưởng kinh tế. Giúp xác định một giá trị ngưỡng mà tại đó phát triển tài chính kéo theo sự gia tăng sản lượng của khu vực sản xuất sẽ có tác động hiệu quả nhất đối với tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, nghiên cứu còn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách vĩ mô trong việc tìm đáp án cho bài toán tăng trưởng kinh tế ở từng quốc gia.
  10. 6 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1 Giới thiệu Các tài liệu nghiên cứu trước đây về tác động của phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế đã xem xét một tập hợp các biến kiểm soát liên quan đến chính sách của chính phủ và sự ổn định kinh tế của quốc gia như là: các chỉ số tài chính, thương mại quốc tế, tỷ lệ lạm phát v.v. (Levine et al., 2000), cùng với các biện pháp phát triển tài chính khác. Gần đây, Arcand et al. (2012) tìm thấy một mối quan hệ phi tuyến giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết chứng minh sự ảnh hưởng phi tuyến tính của tài chính đối với tăng trưởng đã được khái quát trong hai nội dung sau: Một là, phát triển tài chính có thể làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhưng cũng làm tăng bất ổn kinh tế. Tích lũy rủi ro hệ thống là hệ quả của sự đổi mới tài chính và tự do hóa tài chính (Allen and Gale, 2004; Allen and Carletti, 2006; Wagner, 2007; Gennaioli et al., 2012). Rủi ro hệ thống cao ngụ ý sẽ tiềm ẩn nhiều cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, do đó ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. Hai là, phát triển tài chính có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua phân bổ sai nguồn lực. Lĩnh vực tài chính đang phát triển nhanh sẽ tạo ra chi phí thuê mướn cao và thu hút các nguồn lực mà tốt nhất nên được sử dụng trong các lĩnh vực khác (Santomero and Seater, 2000; Philippon, 2010; Bolton et al., 2011). Nếu các lĩnh vực tài chính thu hút quá nhiều người lao động có tay nghề cao thì các ngành khác sẽ trì trệ trong sự thiếu hụt nguồn nhân lực kéo theo sự tăng trưởng và phát triển chậm. Từ đó tác động tiêu cực đến sản lượng và sản lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Từ kết quả của nhiều nghiên cứu, các tác giả đã rút ra kết luận rằng: phát triển tài chính có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế nếu nó không đi kèm với sự phát triển trong nền kinh tế thực. Chúng ta nên xem xét các giả thuyết rằng tác động của phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào sự phát triển của các dịch
  11. 7 vụ tài chính liên quan đến sự tăng trưởng của các ngành nền kinh tế thực. Tác động của phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế có thể bị suy yếu hoặc thậm chí có thể là tiêu cực nếu có sự phát triển không cân bằng trong các lĩnh vực tài chính và khu vực sản xuất. Vì vậy, nội dung bài nghiên cứu gồm các vấn đề quan trọng sau: tăng trưởng kinh tế, khung lý thuyết phát triển tài chính và khu vực sản xuất, mối quan hệ giữa phát triển tài chính và khu vực sản xuất đến tăng trưởng kinh tế. 2.1.1 Tăng trưởng kinh tế Theo Kulkarni, Kishore G. (2008) trong “Principles of Macro: Monetary Economics” định nghĩa: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Trong “Kinh tế học của sự phát triển” thuộc chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright có nêu: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng kết quả đầu ra của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là năm) so với kỳ gốc (năm gốc); liên quan đến sự gia tăng thu nhập quốc dân thực hiện trên đầu người, sự gia tăng đó được thể hiện ở cả quy mô và tốc độ của nền kinh tế. Tóm lại, tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. 2.1.1.1 Đo lường tăng trưởng kinh tế Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
  12. 8 Quy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP) hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per Capita Income, PCI). Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính). Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng. Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số. Đây được coi là cách đo lường tương đối năng lực của nền kinh tế. Thước đo này đã được thừa nhận rộng rãi và có thể được tính với những mức độ chính xác khác nhau cho hầu hết các nền kinh tế. 2.1.1.2 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế (đi tiên phong của Harrod - Domar; Solow, 1956; Romer, 1986; Lucas, 1988), các yếu tố quyết định chính của tăng trưởng kinh tế: GDP bình quân đầu người ban đầu, vốn con người, tích lũy vốn vật chất, công nghệ v.v. hay việc chính phủ sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để can thiệp vào hoạt động tài chính: đẩy mạnh tín dụng, tăng lượng cung tiền v.v. nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để làm rõ luận điểm tăng trưởng kinh tế và kiểm soát các nhân tố đầu vào tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ giữa phát triển tài chính, khu vực sản xuất và tăng trưởng kinh tế, tác giả tổng hợp các học thuyết tăng trưởng kinh tế trước đây. Lập luận của các nghiên cứu chủ yếu dựa trên nền tảng lý thuyết sau đây: Mô hình tăng trưởng Harrod - Domar
  13. 9 Theo Harrod - Domar: nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên, chủ yếu tập trung đến vai trò của tích lũy vốn trong quá trình tăng trưởng. Mô hình Harrod - Domar được sử dụng rộng rãi tại các nước đang phát triển nhằm xác định mối quan hệ giữa tăng trưởng và các yêu cầu vốn. Trong mô hình này, sản lượng được giả định là hàm tuyến tính theo vốn: 𝟏 𝑲 Y = × K hay Y = 𝒗 𝒗 R.Harrod cho rằng nghiên cứu một nền kinh tế tăng trưởng thì cần xem xét mối tương quan giữa ba nhân tố: sức lao động, quy mô tư bản hiện có và sản lượng của khu vực sản xuất. Việc xác định khối lượng tư bản cần thiết đủ để làm cho hai yếu tố còn lại phát sinh tác dụng là điều quan trọng nhất. Tác giả nêu ra phương trình tăng trưởng kinh tế động như sau: G x C= Sản xuất C = (C2-C1)/ Giá trị Trong đó: G: mức tăng tổng đầu ra trong thời kỳ xem xét; C: tư bản tăng lên trong thời kỳ đó so với mức tăng của sản phẩm cùng kỳ; C1: tư bản lúc đầu kỳ nghiên cứu; C2: tư bản vào cuối kỳ. Sự thay đổi sản lượng so với sự thay đổi dự trữ vốn: ∆𝑲 ∆Y = 𝒗 Trong lý thuyết tăng trưởng của Harrod - Domar chủ yếu nghiên cứu và đề xuất quan điểm về mối quan hệ tăng trưởng và các nhu cầu về vốn cơ bản. Tư tưởng cơ bản của học thuyết cho rằng mức tăng trưởng của bất kỳ đơn vị kinh tế nào hay toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phụ thuộc chặt chẽ vào tổng số tư bản đầu tư cho đơn vị kinh tế đó. Trong điều kiện kinh tế thị trường, về cơ bản thu nhập được chia làm thành hai phần: phần dành cho tiêu dùng trực tiếp và phần dành cho tái đầu tư gián tiếp hoặc trực
  14. 10 tiếp. Với giả định toàn bộ tiết kiệm được dành cho đầu tư thì tổng đầu tư bằng tổng tiết kiệm. Như vậy, mối quan hệ tăng trưởng và đầu tư được biểu hiện thành mối quan hệ giữa mức tăng trưởng và mức tiết kiệm. Nói cách khác tốc độ gia tăng sản xuất tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm trên tổng sản phẩm kinh tế quốc dân từ đó tác động đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ưu điểm cơ bản của mô hình Harrod - Domar tập trung vào vai trò cốt lõi của tích lũy vốn và đầu tư là quan trọng để tăng trưởng kinh tế theo thời gian. Hạn chế: lý thuyết Harrod - Domar chỉ xem xét ở các nước đang phát triển, những nước với vòng lẩn quẩn (thu nhập thấp, tiết kiệm thấp, đầu tư thấp, tích lũy thấp, năng suất lao động thấp). Mặt khác ở các nước đang phát triển thị trường tài chính và thị trường hàng hóa hoạt động yếu ớt vì vậy toàn bộ tiết kiệm sẽ không được đưa ra đầu tư hết. Đầu tư được tài trợ bằng tiết kiệm phải thật sự được đền đáp bằng thu nhập cao hơn trong tương lai và không phải toàn bộ đầu tư đều đạt được kết quả đó. Tăng trưởng bền vững phụ thuộc vào việc tạo ra đầu tư mới và việc đảm bảo rằng việc đầu tư có năng suất theo thời gian. Việc phân bổ nguồn lực giữa các ngành và các doanh nghiệp khác nhau là yếu tố quan trọng xác định sản lượng và tăng trưởng. Và một hạn chế nữa trong mô hình Harrod - Domar đó là bỏ qua vai trò của tiến bộ công nghệ. Tiến bộ công nghệ nói chung vẫn đóng một vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn và phát triển thông qua việc góp phần tăng năng suất của tất cả các yếu tố sản xuất. Tóm lại, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì cần gia tăng sự tích lũy về vốn, nguồn nhân lực và chú trọng vào sản lượng sản xuất của khu vực sản xuất của nền kinh tế. Mô hình tăng trưởng Solow (1956) Năm 1956, nhà kinh tế học Robert Solow giới thiệu mô hình tăng trưởng kinh tế mới, nhằm khắc phục những hạn chế của mô hình Harrod - Domar. Mô hình Solow
  15. 11 được mở rộng phạm vi nghiên cứu tăng trưởng kinh tế tại tất cả các nước trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển. Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn nhưng không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Hai phương trình cơ bản của mô hình Solow: Phương trình thứ nhất: y = f(k) cho rằng sản lượng trên lao động (hay thu nhập trên đầu người) phụ thuộc vào giá trị vốn trên lao động. Phương trình thứ hai: ∆k = sy – (n + d)k cho rằng thay đổi vốn trên lao động phụ thuộc vào tiết kiệm, tỉ lệ tăng trưởng dân số và khấu hao. Cũng giống như mô hình Harrod - Domar, sự tích lũy vốn đóng vai trò quan trọng trong mô hình Solow. Ngoài ra, mô hình Solow còn giới thiệu vai trò của tỉ lệ tăng trưởng dân số và cho phép có sự thay thế giữa vốn và lao động trong quá trình tăng trưởng. Mô hình Solow dự đoán rằng những nền kinh tế tiết kiệm nhiều sẽ có mức sống cao hơn so với những nước ít tiết kiệm. Tiết kiệm cao hơn dẫn đến sự gia tăng tạm thời của tỉ lệ tăng trưởng kinh tế khi đạt trạng thái dừng. Tuy nhiên sự gia tăng tỉ lệ tiết kiệm không dẫn đến sự gia tăng lâu dài của tỉ lệ tăng trưởng sản lượng dài hạn. Mô hình Solow là một công cụ hữu hiệu để phân tích mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư, tăng trưởng dân số, sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Solow kết luận rằng: một khi nền kinh tế đạt được mức thu nhập tiềm năng dài hạn, tăng trưởng kinh tế chỉ đơn thuần tương xứng với tăng trưởng dân số chứ không có cơ hội cho sự gia tăng bền vững trong thu nhập bình quân. Để đưa vào mô hình khả năng nền kinh tế có thể sản xuất nhiều sản lượng hơn với cùng giá trị vốn và lao động như cũ, Solow đã điều chỉnh hàm sản xuất ban đầu bằng cách thêm vào một biến mới T, biểu thị cho tiến bộ công nghệ:
  16. 12 Y = F(K, T × L) Ưu điểm: đóng góp hết sức quan trọng của mô hình là nhận thức về vai trò và sự ảnh hưởng của yếu tố thay đổi công nghệ trong quá trình tăng trưởng. Mô hình cho thấy việc tiếp thu công nghệ mới thông qua phát minh trong nước hay nhập khẩu công nghệ mới từ nước ngoài có thể kích thích tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Hạn chế: Solow đã nhấn mạnh đến vai trò quyết định của yếu tố tiến bộ công nghệ đến tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu người nhưng lại cho rằng tiến bộ công nghệ là yếu tố ngoại sinh và không giải thích được dẫn đến nếu không có cú sốc công nghệ từ bên ngoài vào thì tất cả các nền kinh tế đều không có tăng trưởng khi đạt tới điểm dừng. Tóm lại, sự tích lũy vốn và tiết kiệm để đầu tư trong dài hạn làm gia tăng sản lượng sản xuất của nền kinh tế đồng thời yếu tố đổi mới công nghệ chính là động lực để tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. 2.1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Các nhân tố kinh tế Dựa trên các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế như sau:  Nhân tố thuộc tổng cầu Tổng cầu là giá trị tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các thành phần kinh tế (dân cư, doanh nghiệp, chính phủ và nước ngoài) muốn mua ở mỗi mức giá chung trong một khoảng thời gian nhất định và trong những điều kiện nhất định. Phương trình tổng cầu của nền kinh tế: GDP = C + I + G + NX C: chi tiêu cuối cùng của hộ gia đình; I: đầu tư của tư nhân; G: chi tiêu thường xuyên của chính phủ; NX: xuất khẩu ròng.
  17. 13 Từ phương trình tổng cầu, khi có sự biến động của các yếu tố thì sẽ ảnh hưởng đến tổng cầu từ đó tác động đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.  Nhân tố thuộc tổng cung Tổng cung là giá trị tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà các doanh nghiệp sẵn sàng cung ứng cho nền kinh tế tương ứng với mỗi mức giá chung trong một khoảng thời gian nhất định và trong những điều kiện nhất định. Như vậy tổng cung liên quan đến sản lượng tiềm năng, sự gia tăng sản lượng tiềm năng tác động đến sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các yếu tố quyết định đến mức sản lượng tiềm năng chính là đầu vào của khu vực sản xuất. - Vốn: là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra và được tích lũy lại như tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khoáng sản v.v. vốn được thể hiện dưới hình thức hiện vật và tiền tệ đó là các yếu tố đầu vào của sản xuất, có vai trò rất quan trọng để tăng trưởng kinh tế. - Nguồn nhân lực: là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững nhưng con người phải có sức khỏe, trí tuệ, tài năng, kỹ xão, ý chí, nhiệt tình lao động và được tổ chức hợp lý. Các yếu tố vốn: máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liệu, công nghệ sản xuất chỉ phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, sức khỏe và kỉ luật tốt. - Khoa học công nghệ: là động lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Khoa học công nghệ tiên tiến cho phép chúng ta tạo ra nguồn tích lũy lớn, năng suất lao động xã hội cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ, góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất từ đó tạo ra nguồn tích lũy lớn cho nền kinh tế quốc dân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra còn yếu tố tài nguyên thiên nhiên và môi trường cũng là nguồn lực quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
  18. 14 Các nhân tố phi kinh tế Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu đã đưa thêm vào mô hình tăng trưởng thực nghiệm các yếu tố: dân tộc, tôn giáo, thể chế chính trị - kinh tế - xã hội, địa lý, đặc điểm văn hóa. Những yếu tố không tham gia trực tiếp vào quá trình kinh tế như yếu tố đầu vào để sản xuất và cũng không trực tiếp biểu hiện ra như một kết quả đầu ra cụ thể nên được gọi là yếu tố phi sản xuất. Những yếu tố này điều phối hành vi ứng xử và phản ứng của cá nhân, cộng đồng, tác động đến quá trình kinh tế - xã hội và có sự khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia. 2.1.2 Phát triển tài chính 2.1.2.1 Khái quát chung Trong bài viết: “Measurement of Financial Development: A Fresh Approach: của Adnan, Noureen (2011)” có đề cập đến khái niệm “phát triển tài chính”. Theo tác giả, phát triển tài chính được định nghĩa là các chính sách, các yếu tố và các tổ chức đưa đến các trung gian tài chính và thị trường hiệu quả. Bản chất của tài chính là các quan hệ tài chính trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức tổng giá trị, thông qua đó tạo lập các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Phát triển tài chính là cần thiết cho tăng trưởng, là yếu tố quan trọng hàng đầu của các quốc gia để tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển các thể chế tài chính như ngân hàng, thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí là cần thiết để hỗ trợ đầu tư vốn cố định, tăng khả năng doanh nghiệp tiếp cận vốn lưu động như chi tiêu lương và đầu vào sản xuất, tạo cơ chế dàn trải rủi ro và đảm bảo rằng nền kinh tế có đủ thanh khoản hoàn thành những giao dịch cần thiết. Những thể chế này tập hợp vốn từ người tiết kiệm và chuyển sang cho bên vay. Theo Levine (2008), chức năng của hệ thống tài chính là giảm thiểu những chi phí giao dịch và chi phí thông tin làm cản trở các hoạt động kinh tế.
  19. 15 Một hệ thống tài chính phát triển bền vững và hiệu quả sẽ có khả năng đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế bằng việc chuyển các nguồn lực đến độ hữu ích của chúng và thúc đẩy sự phân bổ các nguồn lực này hiệu quả hơn. Đồng thời sự phát triển của hệ thống tài chính bằng việc gia tăng tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ đầu tư, đẩy mạnh sự tích lũy vốn vật chất từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia. 2.1.2.2 Đo lường phát triển tài chính Theo King và Levine (1993), bốn thước đo phát triển tài chính cho 80 quốc gia trong giai đoạn 1960 - 1989 đó là: - LLY: tỉ lệ giữa nợ thanh khoản với GDP. Nợ thanh khoản (Liquid liabilities) là thước đo khái quát của cung tiền (M3) bao gồm: tiền mặt, tài khoản ngân hàng và tài khoản ở các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Khi số liệu M3 không có sẵn thì tác giả sử dụng thước đo M2 hẹp hơn trong đó không tính đến tài khoản tiền gởi ngoại tệ có kỳ hạn, cổ phần trong các quỹ đầu tư và thương phiếu (nợ doanh nghiệp ngắn hạn). - Ngân hàng: tỷ lệ giữa tiền gửi tài sản nội địa trên tiền gửi tài sản nội địa cộng tài sản nội địa của ngân hàng trung ương. Mục đích để đo lường tầm quan trọng tương đối của ngân hàng so với cơ quan tiền tệ. - Tư nhân: tỉ lệ các khoản vay cho khu vực tư nhân phi tài chính với tổng tín dụng nội địa, đo lường phạm vi tín dụng được chuyển đến khu vực tư nhân. - PRIVY: cũng là một thước đo về sự tham gia của khu vực tư nhân. PRIVY là tỉ lệ các khoản vay cho khu vực tư nhân phi tài chính trên GDP. Trong nghiên cứu mức độ phát triển tài chính ở Trung Quốc, Wang et al. (2012) đã đưa ra thước đo như sau: - Credit: tỷ lệ tổng dư nợ cho vay trong hệ thống tài chính (các tổ chức ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng) so với GDP. - Deposit: tỷ lệ tổng tiền gửi trong hệ thống tài chính so với GDP. - Saving: tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình gửi vào hệ thống tài chính so với GDP.
  20. 16 - Loan over appro: tỷ lệ đầu tư tài sản cố định được tài trợ bởi các khoản vay trong nước liên quan đến tài trợ bởi ngân sách nhà nước. - Corporate: tỷ lệ tiền gửi doanh nghiệp. Tổng số dư tiền của khách hàng doanh nghiệp trong hệ thống tài chính. Trong “Tài chính toàn cầu và vai trò của tài chính đối với phát triển kinh tế” của Trần Thị Quế Giang (2013) có nêu về đo lường mức độ phát triển tài chính: - Tỷ lệ của tín dụng cho khu vực tư nhân so với GDP và so với tổng tín dụng. - Độ sâu tài chính [M2(M3)/GDP]: cho biết quy mô của khu vực trung gian tài chính so với nền kinh tế. - Số lượng vốn hóa của thị trường tài chính - biên lãi suất (interest margin). - Vai trò tương đối của các ngân hàng thương mại so với ngân hàng trung ương. - Chỉ số tự do hóa khu vực tài chính, ngân hàng (Freedom in Banking and Finance index). Các thước đo mức độ phát triển tài chính rất đa dạng, tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia và điều kiện nghiên cứu mà các nhà nghiên cứu lựa chọn thước đo thích hợp. 2.1.3 Khu vực sản xuất Theo Bussines English định nghĩa: khu vực sản xuất thực là một phần của nền kinh tế của một quốc gia liên quan đến việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ khác với nền kinh tế liên quan đến việc mua và bán trên thị trường tài chính: ngân hàng, thị trường chứng khoán… Vai trò của nền kinh tế sản xuất hàng hóa - Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất vì thế, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất. Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng tăng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2