intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo hộ nhãn hiệu tập thể theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

49
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn đi sâu phân tích những vấn đề lý luận và thực trạng về bảo hộ nhãn hiệu tập thể tại Việt Nam trong điều kiện phải thực hiện các cam kết quốc tế mới, xác định các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu tập thể tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo hộ nhãn hiệu tập thể theo pháp luật Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN VĂN TIỀM BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THỂ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI – 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN VĂN TIỀM BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THỂ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. LÊ MAI THANH HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được hướng dẫn khoa học bởi PGS.TS Lê Mai Thanh. Các ví dụ, số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Nội dung và các đánh giá chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Đoàn Văn Tiềm
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THỂ ................... 7 1.1. Nhãn hiệu tập thể và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể... 7 1.2. Bảo hộ nhãn hiệu tập thể và nội dung bảo hộ nhãn hiệu tập thể ....... 16 1.3. Cơ sở pháp luật và cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể. ................................................................................ 24 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THỂ TẠI VIỆT NAM ................................................................................... 32 2.1. Thực trạng pháp luật xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể ....................................................................................... 32 2.2. Thực trạng về nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể ................................................................................................ 41 2.3. Thực trạng thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể. ....................................................................................................... 47 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THỂ ............................................................................................ 54 3.1. Hoàn thiện pháp luật xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể ....................................................................................... 54 3.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể ................................................................................................ 57 3.3. Hoàn thiện pháp luật thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể ....................................................................................... 59 KẾT LUẬN .................................................................................................... 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 63
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CP TTP Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương NHTT Nhãn hiệu tập thể SHCN Sở hữu công nghiệp SHTT Sở hữu trí tuệ TAND Tòa án nhân dân Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của TRIPs quyền sở hữu trí tuệ Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (World Intellectual Property Organization)
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho thị trường ngày càng nhiều về số lượng, chủng loại, đa dạng về mẫu mã, hình thức. Từ đó đòi hỏi cần phải có nhãn hiệu để có thể tiếp cận người tiêu dùng. Nhãn hiệu giúp cho người tiêu dùng dễ dàng nhận biết, phân biệt được sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Nhãn hiệu giúp cho doanh nghiệp, cá nhân có thể quảng bá được sản phẩm. Tạo uy tín, niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm. Ngày nay, nhãn hiệu là một tài sản trí tuệ được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, đối với các khu vực, vùng, miền có nhiều doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hóa, dịch vụ. Nếu mỗi doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân này lại xây dựng một nhãn hiệu riêng biệt thì nó khó có thể vượt qua được rào cản về quy mô nhỏ và bị thị trường phân lập. Để khắc phục những hạn chế đó thì giải pháp xây dựng nhãn hiệu tập thể được cho là có tính khả thi cao, giải quyết được nhiều hạn chế, yếu kém khi xây dựng các nhãn hiệu riêng biệt. Khi đó, nhãn hiệu tập thể là cầu nối chỉ dẫn cho mọi người về những đặc tính cụ thể của sản phẩm. Nó không chỉ giúp xác định nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm mà còn giúp cho tổ chức, doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu tập thể có thể tiếp thị, quảng bá sản phẩm rộng rãi. Việc quảng bá rộng rãi các sản phẩm được đăng ký nhãn hiệu tập thể thường mang đặc trưng của một vùng nhất định. Trong trường hợp đó, việc tạo ra một nhãn hiệu tập thể không chỉ hỗ trợ tiếp thị sản phẩm ở thị trường trong nước mà còn có thể tiếp thị sản phẩm ra trường quốc tế. Bên cạnh đó, nó còn cung cấp cơ sở cho việc hợp tác giữa những nhà sản xuất trong nước. Việc sáng tạo ra nhãn hiệu tập thể, trên thực tế phải đi kèm với sự phát triển các tiêu chuẩn nhất định cùng với một chiến lược chung. Khi đó, nhãn 1
  7. hiệu tập thể mới có thể trở thành một công cụ hữu hiệu cho phát triển trong nước, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Trong khi sản xuất hiện nay đòi hỏi ngày càng gia tăng giá trị trí tuệ trong sản phẩm thông qua các hoạt động tích cực như thiết kế sản phẩm, kiểm soát chất lượng, tạo thói quen quản lý mới, tổ chức sản xuất và tiếp thị. Ở nước ta hiện nay, để nhãn hiệu tập thể có thể tồn tại và phát triển trong xu thế phát triển và hội nhập khi nước ta đã là thành viên của nhiều tổ chức thương mại trên thế giới. Đã có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết trong đó Hiệp định CP TTP (đã có hiệu lực), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)…. là những tiền đề tạo cơ hội hợp tác nhưng cũng là thách thức cho hàng hóa, dịch vụ ở nước ta. Trước bối cảnh đó, việc xác lập quyền đối với nhãn hiệụ tập thể phải có cơ chế, chính sách và quy định cụ thể, phù hợp với thực tiễn của đất nước cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ngoài ra, việc thực thi các chế tài bảo hộ nhãn hiệu tập thể là biện pháp hữu hiện để nâng cao giá trị nhãn hiệu tập thể. Muốn quảng bá các sản phẩm ra nước ngoài đem lại lợi ích kinh tế thì phải có các nhãn hiệu tập thể đủ mạnh để có thể cạnh tranh, đủ sức vươn ra thị trường nước ngoài. Vậy nên nghiên cứu bảo hộ nhãn hiệu tập thể là một trong những hướng cần chú trọng. Hiện nay, việc xác lập và bảo hộ nhãn hiệu tập thể như một tài sản trí tuệ cần phải cập nhật với những cam kết quốc tế cũng như quá trình hội nhập. Từ thực tế đó, tác giả chọn đề tài “Bảo hộ nhãn hiệu tập thể theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn đặt ra. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Bảo hộ nhãn hiệu tập thể không phải là vấn đề mới. Nó đã được đặt ra, nghiên cứu trong nhiều luận án, luận văn trong góc độ là một bộ phận của nhãn hiệu như: 2
  8. - Luận án tiến sĩ Luật học (2006) “Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam”, của tác giả Lê Mai Thanh; - Luận án tiến sĩ Luật học (2007) "Quyền sở hữu công nghiệp dưới góc độ thương mại - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", của tác giả Nguyễn Thanh Tâm; - Luận án tiến sĩ Luật học (2007) "Bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiện hàng hóa ở Việt Nam", của tác giả Nguyễn Văn Luật; - Luận văn 2016 “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” của tác giả Trần Chí Thành; - Luận văn 2016 “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam” của tác giả Nguyễn Lưu Hưng; - Luận văn 2014 “Pháp luật Việt Nam về tên miền liên quan đến nhãn hiệu” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Linh, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hay được nghiên cứu là một đề tài như: - Luận văn 2013 “ Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”, của tác giả Lê Thị Vân – Khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội. Các công trình nghiên cứu khoa học trên về cơ bản đã nêu và phân tích một cách khái quát về bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu trong đó có nhãn hiệu tập thể hay những hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tập thể. Các tác giả trên đã nêu lên được các khái niệm, hệ thống hóa các quy định của pháp luật liên quan đến NHTT, nêu lên thực trạng đăng ký NHTT tại thời điểm các tác giải nghiên cứu. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ thực tiễn các tác giả trên chưa đi sâu phân tích vai trò của NHTT trong bối cảnh cạnh tranh trên thị trường và NHTT đối 3
  9. với các mặt hàng nông sản, tiểu thủ công nghiệp. Bên cạnh đó, khi Việt Nam chính thức ký kết các hiệp định thương mại thế hệ mới như CP TTP hay mới đây nhất là hiệp định EV FTA, Việt Nam buộc phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định của pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nói riêng cũng như sở hữu trí tuệ nói chung để thực thi các cam kết quốc tế. Trong đó, việc sửa đổi, điều chỉnh các quy định về nhãn hiệu là nội dung mới đặt ra. Để có những luận cứ sát với thực tế đồng thời phù hợp với các điều ước quốc tế, luận văn sẽ đi sâu phân tích, đánh giá nhằm đề ra phương hướng cụ thể phù hợp đối với pháp luật về nhãn hiệu tập thể trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn đi sâu phân tích những vấn đề lý luận và thực trạng về bảo hộ nhãn hiệu tập thể tại Việt Nam trong điều kiện phải thực hiện các cam kết quốc tế mới, xác định các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu tập thể tại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nói trên, Luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận về bảo hộ nhãn hiệu tập thể - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật bảo hộ nhãn hiệu tập thể tại Việt Nam trên cơ sở pháp luật Việt Nam và các cam kết quốc tế liên quan - Đề xuất một giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu tập thể. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về bảo hộ NHTT trên cơ sở pháp luật SHTT Việt Nam và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. 4
  10. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu về bảo hộ NHTT không bao gồm các nhãn hiệu và chỉ dẫn thương mại khác. - Luận văn đánh giá thực trạng bảo hộ nhãn hiệu tập thể theo luật SHTT 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009; được sửa đổi bổ sung năm 2018; việc so sánh pháp luật SHTT trước đây chỉ nhằm minh chứng cho tính hiệu quả điều chỉnh pháp luật hiện hành. - Luận văn nghiên cứu bảo hộ nhãn hiệu tập thể trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà không mở rộng nghiên cứu bảo hộ nhãn hiệu Việt Nam tại nước ngoài. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về SHTT và quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo hộ thành quả đầu tư và bảo vệ thị trường cạnh tranh lành mạnh. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó tiêu biểu là các phương pháp: - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề lý luận về NHTT, quyền sở hữu công nghiệp đối với NHTT, bảo hộ nhãn hiệu và các nội dung bảo hộ nhãn hiệu NHTT. - Phương pháp so sánh được sử dụng khi tìm hiểu các quy định về NHTT, bảo hộ NHTT theo pháp luật Việt Nam và theo các quy định tại điều ước quốc tế hoặc của các nước khác. - Phương pháp phân tích, thống kê nhằm đánh giá thực trạng pháp luật bảo hộ NHTT tại Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn làm phong phú thêm cơ sở lý luận về nhãn hiệu tập thể, góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ NHTT thông qua việc xây dựng phương hướng đề xuất. 5
  11. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Nội dung luận văn đã phân tích, đánh giá những bất cập, hạn chế được rút ra từ thực tiễn áp dụng luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, luận văn nêu một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ NHTT hiện nay. Bên cạnh đó luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, nội dung của luận văn chia thành 03 Chương sau: Chương 1: Lý luận về bảo hộ nhãn hiệu tập thể Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hộ nhãn hiệu tập thể tại Việt Nam Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo hộ nhãn hiệu tập thể 6
  12. Chương 1 LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THỂ 1.1. Nhãn hiệu tập thể và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu tập thể Cho đến nay, chưa có một điều ước quốc tế hoặc pháp luật quốc gia đưa ra định nghĩa thống nhất về NHTT. Theo WIPO thì “Nhãn hiệu tập thể thường được định nghĩa là các dấu hiệu phân biệt nguồn gốc địa lý, nguyên liệu, phương thức sản xuất hoặc các đặc điểm chung khác của hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác nhau sử dụng nhãn hiệu tập thể. Chủ sở hữu có thể là một hiệp hội trong đó các doanh nghiệp là thành viên hoặc bất kỳ thực thể nào khác bao gồm cả một tổ chức công cộng hoặc hợp tác xã” [35]. Theo Hiệp hội nhãn hiệu quốc tế (INTA): “Một nhãn hiệu tập thể là một dấu hiệu cụ thể từ luật nhãn hiệu mà nguyên tắc tương tự của pháp luật như nhãn hiệu áp dụng. Trong vấn đề này, nó có thể bao gồm bất kỳ từ, tên, biểu tượng hoặc thiết bị, khẩu hiệu, thiết kế gói hoặc kết hợp những thứ này phục vụ để xác định và phân biệt cụ thể sản phẩm từ những người khác trên thị trường hoặc trong thương mại. Một âm thanh, màu sắc kết hợp, mùi hoặc hình ba chiều cũng có thể là nhãn hiệu trong một số trường hợp ” [ 26, tr.33]. Công ước Paris có các quy định về NHTT nêu tại Điều 7bis. “Điều này buộc một nước thành viên chấp nhận việc nộp đơn và bảo hộ NHTT của “các hiệp hội”, theo các điều kiện cụ thể do nước đó quy định. Đây là hiệp hội các nhà sản xuất, chế tạo, phân phối, bán hàng hoặc các thương gia khác về hàng hóa được chế tạo hoặc sản xuất tại một nước, khu vực địa phương cụ thể hoặc hàng hóa có các đặc tính chung khác. NHTT của các quốc gia hoặc các cơ quan nhà nước khác không chịu sự điều chỉnh của các quy định này. Để được áp dụng Điều 7bis, hoạt động của các hiệp hội sở hữu các 7
  13. NHTT phải không trái với pháp luật của nước sở tại. Hiệp hội không phải chứng minh rằng họ tuân thủ pháp luật của nước sở tại, nhưng việc đăng ký và bảo hộ NHTT của họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó bị cho là trái với các quy định của pháp luật”. - Khái niệm về NHTT của Mỹ [22, tr.13]. Mục 45 của Đạo luật Lanham của Hoa Kỳ về nhãn hiệu hàng hóa tại phần-15 U.S.C. 1127 nêu rõ: “nhãn hiệu tập thể được sử dụng bởi các thành viên của hợp tác xã, hiệp hội hoặc nhóm tập thể khác hoặc tổ chức và có ý định sử dụng trong thương mại và phân biệt với các thành viên không phải tập thể”. - Khái niệm NHTT của Anh [22, tr.13] Tại Điều 49 Luật nhãn hiệu của Anh có quy định về NHTT như sau: “NHTT là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của thành viên của hiệp hội là chủ sở hữu của nhãn hiệu đó với những người thuộc các doanh nghiệp khác”. - Khái niệm NHTT của Trung Quốc [22, tr.14] Luật nhãn hiệu Trung Quốc có quy định về NHTT tại Điều 3 như sau: “NHTT là nhãn hiệu được đăng ký dưới tên của một nhóm người, một hiệp hội hoặc bất kỳ một tổ chức nào khác sử dụng trong công việc kinh doanh bởi các thành viên của tổ chức đó”. - Khái niệm nhãn hiệu tập thể tại Việt Nam Đi từ sự hình thành khái niệm nhãn hiệu ở nước ta, trước khi Luật sở hữu trí tuệ ra đời, BLDS điều chỉnh về quyền SHTT trong đso có nhãn hiệu nhưng không định nghĩa về NHTT mà chỉ ghi nhận tại văn bản hướng dẫn. Luật sở hữu trí tuệ (SHTT) 2005 được ban hành đã đưa ra khái niệm của nhãn hiệu trong phần giải thích từ ngữ như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” (Khoản 16, điều 4 ). 8
  14. Theo quy định của Luật SHTT, nhãn hiệu là một dấu hiệu. Để đăng ký được với danh nghĩa là nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, hình vẽ, chữ số, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp giữa các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc một số màu sắc nhất định. Nhưng không phải bất kỳ dấu hiệu nào cũng có thể được sử dụng làm nhãn hiệu mà dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Chức năng phân biệt là một yếu tố quan trọng khi xác định một dấu hiệu làm nhãn hiệu của một chủ thể. Theo quy định của Luật SHTT năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2018 tại Điều 4, khoản 17 : “NHTT là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó” [3, tr.2] Mặc dù mỗi quốc gia đều có quy định của mình về NHTT cho phù hợp với điều kiện riêng của từng nước và phù hợp với quy định của quốc tế. Nhưng điểm chung trong quy định về NHTT của các nước là các nước đều đưa ra quy định chủ sở hữu NHTT phải là một tổ chức hoặc một nhóm người và chức năng phân biệt là yếu tố quan trọng khi xem xét một dấu hiệu được đăng ký làm NHTT. Ở Việt Nam theo quy định của luật SHTT thì “nhãn hiệu” đã có chức năng dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức và cá nhân khác nhau. Đối với NHTT thì đặc điểm khác với nhãn hiệu thông thường là để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên trong “tổ chức” với các sản phẩm hàng hóa không thuộc tổ chức đó. Bên cạnh quy định trên, đối với NHTT còn có một quy chế sử dụng nhãn hiệu được nộp cùng với hồ sơ đăng ký bảo hộ. Khái niệm nhãn hiệu tập thể hiện hành đã nêu được đặc điểm sở hữu của NHTT là tổ chức, nhưng chưa thể hiện rõ tính chất đặc trưng về đặc điểm 9
  15. của NHTT như: Nguồn gốc địa lý, nguyên liệu, phương thức sản xuất … để thấy được sự khác biệt ngoài tiêu chí chủ sở hữu là một tổ chức. Do đó có thể đưa ra một khái niệm: Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt các sản phẩm hoặc dịch vụ tương tự được cung cấp bởi các nhóm cá nhân, tổ chức khác nhau. 1.1.2. Đặc điểm của nhãn hiệu tập thể Nhãn hiệu tập thể là dấu hiệu có tính phân biệt. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu gắn với người tiêu dùng; thông qua đó họ có thể phân biệt hàng hóa dịch vụ cùng loại của chủ thể khác nhau. Ban đầu, các loại nhãn hiệu không nhìn thấy bằng mắt thường thì không được coi là nhãn hiệu và không được bảo hộ. Thỏa thuận quốc tế đầu tiên, Công ước Paris năm 1883 về sở hữu công nghiệp có yêu cầu các quốc gia thành viên phải đảm bảo việc bảo hộ nhãn hiệu, tuy nhiên lại không đưa ra định nghĩa thế nào là nhãn hiệu mà dành quyền đó cho các quốc gia thành viên. Hiệp định các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs) trong khuôn khổ WTO quy định “bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hoá. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hoá … Các Thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được” (Điều 15 Hiệp định TRIPs). Tuy nhiên, Việt Nam là thành viên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là Hiệp định CPTPP theo quy định tại mục C điều 18.18 CP TPP thì: “ Không Bên nào được yêu cầu, như một điều kiện để được đăng ký, là dấu hiệu phải nhìn thấy được, cũng như không Bên 10
  16. nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh. Thêm vào đó, mỗi Bên phải nỗ lực hết sức để đăng ký nhãn hiệu mùi. Một Bên có thể yêu cầu phải có bản mô tả ngắn gọn và chính xác, hoặc bản thể hiện dưới dạng đồ họa, hoặc cả hai nếu phù hợp, của nhãn hiệu” [27, tr.18-11]. Và theo cam kết thực thi CP TTP thì trong thời hạn 3 năm kể từ khi CP TTP có hiệu lực Việt Nam phải điều chỉnh các quy định để bảo hộ nhãn hiệu âm thanh [27, tr.18-63] Như vậy, đến năm 2021 chúng ta phải hoàn thiện khung pháp lý để thực hiện bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, trong đó có nhãn hiệu tập thể sử dụng âm thanh làm nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ. - Chủ sở hữu NHTT phải là một tổ chức. Đó là một đặc điểm khác với nhãn hiệu thông thường, chủ sở hữu có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Theo quy định tại Thông tư số: 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/2/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ, Hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp. Các tổ chức sau đây được coi là tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp theo quy định tại khoản 3, điều 87, Luật sở hữu trí tuệ [7; tr.45]: (i) Liên minh hợp tác xã; các hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã, nếu trong Điều lệ ghi rõ thành viên có hoạt động sản xuất, kinh doanh độc lập; (ii) Nhóm công ty theo quy định của Luật Doanh nghiệp; (iii) Hội theo quy định của pháp luật về hội, nếu trong Điều lệ ghi rõ thành viên của hội có hoạt động sản xuất, kinh doanh độc lập; - Việc sử dụng NHTT của các thành viên của tổ chức phải tuân thủ quy chế sử dụng. Quy chế này được nộp cùng với đơn đăng ký bảo hộ và phải được Cục sở hữu trí tuệ phê duyệt. 11
  17. - Nhãn hiệu tập thể là chỉ dẫn thương mại có liên quan gần gũi với chỉ dẫn địa lý và thường sử dụng cho nhóm sản phẩm mang đặc tính địa phương. NHTT có chứa địa danh hoặc dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam phải có văn bản cho phép sử dụng địa danh hoặc dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý của đặc sản địa phương để đăng ký nhãn hiệu tập thể. Cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng địa danh hoặc dấy hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý của đặc sản địa phương là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh [7, tr.47]). Vậy, một tổ chức có thể đăng ký NHTT cho các sản phẩm có nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương là một nhãn hiệu tập thể thay vì đăng ký chỉ dẫn địa lý. Điều này có thể lý giải như sau, thủ tục đăng ký chỉ dẫn địa lý phải đáp ứng được yêu cầu đối với bản mô tả tính chất/ chất lượng/danh tiếng của sản phẩm phải có đó là: liệt kê các tính chất/chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đo điều kiện địa lý quyết định và phải “được xác định bằng các chỉ tiêu cảm quan, định tính, định lượng về vật lý, hóa học, sinh học, có khả năng kiểm tra được bằng phương tiện kỹ thuật hoặc bằng chuyên gia theo một phương pháp thử xác định” [7, tr.66]. Ngoài ra, còn phải đáp ứng các điều kiện khác. Để đáp ứng được các yêu cầu trên đối với đăng ký chỉ dẫn địa lý là khó khăn hơn rất nhiều so với việc đăng ký bảo hộ các sản phẩm đặc sản địa phương trên là một nhãn hiệu tập thể. Chính vì vậy, nhiều địa phương đã lựa chọn đăng ký bảo hộ NHTT cho các đặc sản, sản phẩm danh tiếng của địa phương mình. Nhãn hiệu tập thể thể thực hiện các chức năng tương tự như nhãn hiệu. Tuy nhiên, bởi vì nó được sử dụng bởi các thành viên thuộc tổ chức nên NHTT có một số chức năng cụ thể. Chức năng cơ bản của nhãn hiệu tập thể là chỉ ra nguồn gốc xuất phát từ các sản phẩm hoặc dịch vụ và xác định các 12
  18. thành viên của tổ chức được ủy quyền hợp pháp để sử dụng dấu hiệu cụ thể làm nhãn hiệu . Do các nhãn hiệu tập thể được sử dụng để biểu thị sự liên kết của các thành viên sử dụng nhãn hiệu đó nên họ công khai với công chúng về một số đặc điểm chung của hàng hóa hoặc dịch vụ của họ. Đặc điểm này có thể là nguồn gốc địa lý, chế độ chế tạo, vật liệu được sử dụng hoặc tư cách thành viên đơn giản cho một tổ chức [26, tr.36]. Giống như nhãn hiệu bình thường, các nhãn hiệu tập thể cung cấp thông tin về các đặc tính của sản phẩm, chẳng hạn như giá cả, chất lượng, nguồn gốc và bất kỳ thông số kỹ thuật nào khác phân biệt sản phẩm này với sản phẩm khác. Những nhãn hiệu như vậy tạo ra danh tiếng cho sản phẩm, tạo thuận lợi cho người tiêu dùng trong quá trình ra quyết định trong khi lựa chọn giữa các hàng hóa khác nhau. Dấu ấn tập thể của nhãn hiệu cũng thúc đẩy doanh số bán sản phẩm, thu hút thị hiếu của khách hàng và hỗ trợ các nghệ nhân trong việc giành hoặc duy trì thị phần [26, tr.32]. 1.1.3. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể Nhãn hiệu tập thể là một loại nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ bởi vậy quyền sở hữu công nghiệp đối với NHTT chính là quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói chung. Theo quy định tại khoản 4, Điều 4 Luật SHTT 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009 và năm 2019 quy định: “Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạng tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại,chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”. Quyền sở hữu công nghiệp có vai trò sống còn trong việc duy trì sự tồn tại của nhãn hiệu nói chung và NHTT nói riêng. Nếu quyền sở hữu công nghiệp đối với NHTT không được bảo hộ thoả đáng, hiệu quả thì việc các 13
  19. hàng hóa, dịch vụ gắn NHTT sẽ bị làm giả, nhái nhãn mác gây ra thiệt hại đối với chủ sỡ hữu của nhãn hiệu đó. Với tư cách là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. NHTT là một loại tài sản đặc biệt. Đó là tài sản vô hình do đó quyền chiếm hữu đối với loại tài sản này của chủ sở hữu gần như không thực hiện được. Giá trị của nhãn hiệu được định giá bởi thị trường dựa trên sự nổi tiếng và nằm ở khả năng khai thác thương mại của NHTT. NHTT là một loại nhãn hiệu thuộc sở hữu của chủ thể là các thành viên của một tổ chức nhất định nên quyền năng về định đoạt nhãn hiệu vẫn được ghi nhận và có khả năng thực hiện trên thực tế. Hơn nữa, NHTT là một loại tài sản vô hình và khả năng chiếm giữ NHTT của chủ thể sở hữu là không khả thi vì vậy khả năng chủ thể tự xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu thông qua thực tế chiếm giữ và quản lý NHTT là không thể. Trái lại, quyền sở hữu công nghiệp đối với NHTT chỉ phát sinh và được bảo vệ bởi nhà nước thông qua thủ tục ghi nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về sở hữu công nghiệp. Do đó, có thể hiểu một cách chi tiết hơn về quyền SHCN đối với NHTT như sau: Quyền SHCN đối với NHTT là quyền sở hữu của các thành viên của tổ chức đối với NHTT và quyền được áp dụng các biện pháp hợp pháp ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm quyền trong quá trình sử dụng NHTT. 1.1.4. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể Quyền SHCN đối với NHTT gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hóa, kinh doanh dịch vụ. Điều 1 Công ước Paris về bảo hộ SHCN đã quy định “SHCN phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không những chỉ áp dụng cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các ngành sản xuất công nghiệp và sản phẩm tự nhiên như rượu, ngũ cốc, thuốc lá, hoa quả, gia súc, khoáng sản, nước khoáng, bia, hoa và bột” [14, tr.11]. Vì vậy, một trong 14
  20. những điều kiện để được bảo hộ đối với NHTT là phải chứa đựng các chỉ dẫn thương mại. Chỉ dẫn thương mại được coi như cầu nối giữa nhà sản xuất, cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng. Nếu chủ thể nắm giữ được các chỉ dẫn này sẽ có những lợi thế cạnh trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Ngày nay, mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt thì việc quan tâm, đầu tư và trở thành chủ sở hữu đối với nhãn hiệu nói chung và NHTT nói riêng là một việc làm đầu tiên có ý nghĩa lớn trong sản xuất hàng hàng hóa, kinh doanh dịch vụ, tiếp cận người tiêu dùng. Quyền SHCN đối với NHTT phát sinh trên cơ sở pháp luật Đối với Việt Nam, quyền SHCN đối với NHTT phát sinh căn cứ vào văn bằng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp (một số quốc gia như Hoa Kỳ, quyền xác lập thông qua việc sử dụng nhãn hiệu). Tại Việt Nam, quyền SHCN đối với NHTTchỉ được pháp luật bảo hộ khi được cơ quan nhà nước cấp văn bằng bảo hộ chính thức. Thông quan việc đăng ký văn bằng bảo hộ chủ sở hữu NHTT đã công khai tình trạng của loại tài sản vô hình này đối với các chủ thể khác không phải là thành viên của tổ chức đó, là một hình thức để thông báo tài sản vô hình này đã thuộc về chủ sở hữu NHTT. Văn bằng bảo hộ là căn cứ chứng minh bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp khi NHTT bị người khác chiếm đoạt. Đăng ký bảo hộ đối với NHTT là thủ tục bắt buộc. Trường hợp chủ thể không đăng ký quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ của mình thì không được bảo hộ nếu bị người khác chiếm đoạt hoặc đăng ký trước. Quyền SHCN đối với NHTT bị giới hạn về thời gian Quyền SHCN đối với nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu tập thể nói riêng được bảo hộ trong một khoảng thời gian xác định. Khoảng thời gian này được giới hạn trong nội dung văn bằng bảo hộ được cấp. Tại quy định của khoản 6 Điều 93 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, và năm 2019 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2