intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

42
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề chung về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự; Thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự và thực tiễn áp dụng ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm dân sự ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN THỊ LÍ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI - 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN THỊ LÍ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. HOÀNG THỊ QUỲNH CHI HÀ NỘI - 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2016, quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, trong đó có nội dung thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật gồm có 3 chương 35 Điều (từ Điều 325 đến 359) trên cơ sở kế thừa các quy định của BLTTDS năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011), đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. BLTTDS không chỉ quy định chặt chẽ hơn về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự với mục tiêu đảm bảo việc giải quyết các vụ việc này một cách nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng luật mà còn quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về thủ tục giám đốc thẩm với mục đích xem xét lại các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện các quy định của BLTTDS 2015 cho thấy đã phát sinh những bất cập nhất định. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm tăng ngày càng nhanh về số lượng và mức độ phức tạp ở toàn ngành Tòa án nói chung và ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (TANDCC tại TPHCM) nói riêng. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là một cấp Tòa án mới được thành lập theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Việc nội dung đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự của đương sự, của cá nhân, cơ quan, tổ chức được chấp nhận cũng có nghĩa là số lượng bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị nhiều hơn. Các vụ việc dân sự được xem xét lại một cách khách quan hơn nhằm đảm bảo quyền lợi cho đương sự nhưng cũng có những vụ việc bị xử đi, xử lại nhiều lần dẫn đến tốn kém về cả thời gian, công sức và tiền bạc của cả Nhà nước và công dân. Tình trạng này còn làm cho người dân mất lòng tin vào ngành Tòa án nhân dân (TAND) nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung. Vì vậy, vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam để từ đó có những đề xuất 1
  4. thiết thực, cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám đốc thẩm và nâng cao hiệu quả công tác giám đốc thẩm của Tòa án. Bên cạnh đó, thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 nhằm “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”. Trên cơ sở đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý để TAND thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang hướng đến. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ. Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các quy định pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự; chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, và nguyên nhân của vấn đề này. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật, làm căn cứ cho các chủ thể có quyền thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quyền của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua khảo sát, thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài này như sau: - Đề tài Khoa học cấp bộ "Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao, những vướng mắc và kiến nghị" (2012), do Nguyễn Huy Du (TAND tối cao) chủ nhiệm. Đề tài có đề cập khái quát đến vấn đề kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự nhưng đề tài được thực hiện vào năm 2012, giới hạn trong phạm vi ở TAND tối cao. Trong khi hiện nay Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực pháp luật đã làm thay đổi cơ bản thẩm 2
  5. quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TAND. BLTTDS 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền, căn cứ kháng nghị. - Sách Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự (2012), Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, chủ biên Trần Anh Tuấn bàn về Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC). Trong sách này, tác giả đã đi sâu phân tích, so sánh các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của BLTTDS năm 2004 với các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011; đối chiếu với thực tiễn, giải thích một cách khoa học và đưa ra một số vấn đề bất cập cần tiếp tục hoàn thiện của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm. - Sách Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (2015), Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Chủ biên Nguyễn Thị Hoài Phương. Nhóm tác giả sách này đã phân tích, bình luận các điều luật cụ thể để làm nổi bật các quy định mới của BLTTDS 2015, trong đó có các điều luật về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. - Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội về: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam (2014), do Hà Thị Thúy Hà thực hiện. Luận văn đã đề cập chi tiết đến đặc điểm cơ bản, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm; sự hình thành và phát triển của quy định về giám đốc thẩm dân sự, nêu ra những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật trên phương diện lập pháp và thực tiễn, đặc biệt nêu lên thực trạng công tác giám đốc thẩm của ngành Toà án, đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, đề tài này thực hiện trước khi có BLTTDS 2015 và chưa đi sâu phân tích thực tiễn áp dụng các quy định về nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. - Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh bàn về Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự (2016) của Lê Sỹ Nguyên là nghiên cứu đề cập về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm như căn cứ kháng nghị, thẩm quyền kháng nghị, đối tượng kháng nghị, các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm. Luận văn chưa đề cập đến thực tiễn kháng nghị tại 3
  6. TANDCC tại TP.HCM, chưa đưa ra được giải pháp để giải quyết các khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm tại Tòa án này. - Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, về Quyền yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự (2017) của Nguyễn Thị Lụa. Trong luận văn đã đề cập khái quát về chủ thể có quyền yêu cầu, việc thực hiện yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự, trên cơ sở phân tích các quy định có liên quan tại BLTTDS 2015 và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật. - Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện hành chính Quốc Gia, về Đảm bảo quyền đề nghị kháng nghị dân sự giám đốc thẩm từ thực tiễn TANDCC tại TPHCM (2020) của Lê Thị Thùy. Luận văn chủ yếu đề cập đến các quy định của pháp luật về đảm bảo quyền đề nghị kháng nghị của đương sự, thực trạng đảm bảo quyền này tại TANDCC tại TPHCM và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật, giải pháp cho TANDCC tại TPHCM trong việc đảm bảo quyền đề nghị kháng nghị của đương sự. Tình hình nghiên cứu trên cho thấy các công trình nghiên cứu về chế định giám đốc thẩm khá nhiều nhưng hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự, thực tiễn áp dụng tại TANDCC tại TPHCM. Do vậy, tác giả nhận thấy cần nghiên cứu một cách toàn diện từ lý luận đến thực tiễn để hoàn thiện các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự; đưa ra những định hướng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và giải pháp khắc phục những khó khăn trong việc kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. Thứ hai, phân tích các căn cứ phát sinh, người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. Thứ ba, đánh giá thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự tại TANDCC tại TP.HCM. Thứ tư, phân tích thực tiễn áp dụng kháng nghị giám đốc thẩm dân sự tại TANDCC tại TP.HCM. 4
  7. Thứ năm, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đề xuất giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm dân sự tại TANDCC tại TP.HCM 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam. Như vậy, kháng nghị giám đốc thẩm hình sự và kháng nghị giám đốc thẩm hành chính không thuộc đối tượng mà luận văn nghiên cứu. Luận văn sẽ tập trung đánh giá đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự, những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của nó khi áp dụng vào thực tiễn. Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định đó ở TANDCC tại TPHCM để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm dân sự tại Tòa. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong việc kháng nghị giám đốc thẩm thuộc lĩnh vực dân sự; thực tiễn áp dụng các quy định đó tại một cấp Tòa án là TANDCC tại TPHCM. Trong đó, các đơn đề nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đưa vào nghiên cứu thuộc 23 tỉnh thành phía Nam thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của TANDCC tại TPHCM. Cụ thể: (1) Về đối tượng bị kháng nghị giám đốc thẩm: Gồm các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật có đơn đề nghị kháng nghị. (2) Về chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực thi quy định về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự ở TANDCC tại TPHCM. Vì thế, chủ thể kháng nghị sẽ là Chánh án TANDCC tại TPHCM (Không nghiên cứu trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhận dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm). (3) Về thời gian khảo sát: Các đơn, bản án, số liệu thống kê được sử dụng trong luận văn tính từ ngày 01 tháng 6 năm 2015 đến ngày 30 tháng 9 năm 2020. (4) Về quy định pháp luật: Nguồn tư liệu chủ yếu dùng trong nghiên cứu về lý luận kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam là BLTTDS 2015 (từ Điều 325 đến Điều 359). Ngoài ra, việc nghiên cứu các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự trong các BLTTDS qua các thời kì cũng là cơ sở để tham khảo, so sánh, làm rõ các quy định hiện hành. 5
  8. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của luận văn dựa trên quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích quy phạm pháp luật, phương pháp so sánh được sử dụng trong Chương 1, chương 2 để phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, phân tích các tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc áp dụng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm của TANDCC tại TPHCM. Phương pháp nghiên cứu thống kê, tổng hợp và vụ việc điển hình được sử dụng ở Chương 2, 3 để đánh giá, tổng hợp các số liệu thu thập được, trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét, đánh giá hoạt động thực tiễn và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Việc nghiên cứu đề tài, có những đóng góp mới cho khoa học luật Tố tụng dân sự ở những điểm sau: - Phân tích những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự; - Đánh giá thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự và thực tiễn áp dụng tại TANDCC tại TPHCM trong những năm gần đây; - Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm. - Nêu ra các giải pháp thiết thực nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho TANDCC tại TPHCM. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu 3 chương: Chương 1:Những vấn đề chung về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự. Chương 2: Thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự và thực tiễn áp dụng ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 6
  9. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm dân sự ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 7
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự 1.1.1. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm dân sự Khái niệm kháng nghị Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là kết quả của quá trình tố tụng, đánh dấu sự kết thúc của quá trình điều tra, truy tố và xét xử có ý nghĩa trên nhiều phương diện, do vậy phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Một vụ án dân sự bắt đầu khi đương sự có đơn khởi kiện gửi đến Tòa án. Tòa án sẽ thụ lý, đưa vụ án ra xét xử và ra bản án, quyết định. Bản án, quyết định ấy sẽ có hiệu lực pháp luật ngay nếu đương sự không có kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị (xét xử ở Tòa án cấp sơ thẩm). Còn nếu bản án, quyết định đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì tiếp tục được xem xét ở Tòa án cấp phúc thẩm. Bản án, Quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm hoặc Bản án, Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm) đã có hiệu lực pháp luật nhưng được phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thì người có thẩm quyền kháng nghị sẽ kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo Từ điển tiếng Việt, “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến phản đối bằng văn bản chính thức". Còn theo Từ điển mở Wiktionary thì “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị”. Như vậy, theo hai cách hiểu trên, kháng nghị là việc phản đối bằng văn bản đối với một vấn đề đã được được định đoạt. Đối chiếu vào pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam thì đó là sự phản đối lại bản án, quyết định của Tòa án. Theo Từ điển Luật học: “Kháng nghị là việc người có thẩm quyền, bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án có thẩm quyền làm ngừng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án, quyết định để xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật”. 8
  11. Khái niệm này chỉ ra rằng chủ thể của kháng nghị chỉ gồm những người được pháp luật giao cho thẩm quyền kháng nghị mới được kháng nghị và hình thức kháng nghị phải bằng văn bản. Mục đích của kháng nghị là để thể hiện sự phản đối của chủ thể có thẩm quyền kháng nghị đối với phán quyết của Tòa án thông qua việc ra bản án, quyết định mà chủ thể kháng nghị cho rằng chưa khách quan, toàn diện và đúng pháp luật để Tòa án có thể xem xét lại bản án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của đương sự và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, xét về mặt thực tiễn, khái niệm này có điểm chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, kháng nghị là phân tích chỉ ra những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng nếu trong phần nội dung của quyết định kháng nghị không quyết định về việc tạm hoãn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó cho đến khi xét xử giám đốc thẩm thì về nguyên tắc bản án, quyết định đó vẫn có thể bị thi hành án. Trong thực tế giải quyết vụ án, có trường hợp mặc dù đã có quyết định kháng nghị nhưng không nêu việc tạm hoãn thi hành án dẫn đến việc Cơ quan thi hành án vẫn tiếp tục thi hành bản án, quyết định đó. Ngoài ra, pháp luật tố tụng dân sự đã quy định các hình thức để phản đối những bản án, quyết định của Tòa án nếu chủ thể phản đối cho rằng việc xét xử của Tòa án là không khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm, quyền kháng cáo thuộc về các bên đương sự. Khác với kháng cáo, chủ thể kháng nghị chỉ thuộc về người, cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước giao cho thẩm quyền kháng nghị. Trong đó, đối với kháng nghị phúc thẩm theo thủ tục phúc thẩm dân sự thì pháp luật tố tụng dân sự quy định chủ thể thực hiện là Viện kiểm sát, đối với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì chủ thể kháng nghị là người đứng đầu của cơ quan Tòa án và Viện kiểm sát. Khái niệm giám đốc thẩm dân sự Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự được tiến hành trên cơ sở kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền khi phát hiện bản án, quyết định 9
  12. của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Thủ tục này do Tòa án có thẩm quyền thực hiện nhằm kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam thì “Giám đốc thẩm là xử lại một bản án của Tòa án cấp dưới". Khái niệm này chưa làm rõ được nội hàm của thủ tục giám đốc thẩm. Bởi lẽ, trong trường hợp bản án của Tòa án cấp dưới (những bản án, quyết định sơ thẩm) chưa có hiệu lực pháp luật nhưng có kháng cáo của các bên đương sự, hoặc kháng nghị của người có thẩm quyền được đem ra xét xử thì đây là thủ tục xét xử phúc thẩm chứ không được phải là thủ tục giám đốc thẩm. Trong khoa học pháp lý, có nhiều quan điểm khác nhau về giám đốc thẩm: Trong Bình luận khoa học tố tụng dân sự, tác giả Nguyễn Đức Mai cho rằng: “Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt có nhiệm vụ xét lại nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm bảo đảm việc xử lý vụ án được chính xác”. Quan điểm này khẳng định giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử vì vậy nó không phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật tố tụng như ở cấp xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm… mà chỉ là thủ tục đặc biệt nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Trong lĩnh vực dân sự, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật ghi nhận: “Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án”. Quan điểm này nhấn mạnh đến mục đích của giám đốc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tác giả Hà Thị Thúy Hà cho rằng: “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt của tố tụng dân sự, theo đó Hội đồng giám đốc thẩm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền nhằm xác định những sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Quan điểm này khẳng định giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng đặc biệt của tố tụng dân sự để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. 10
  13. Như vậy, có thể thấy thủ tục giám đốc thẩm được chia làm hai giai đoạn cơ bản là giai đoạn kháng nghị giám đốc thẩm và giai đoạn xét xử giám đốc thẩm. Giai đoạn kháng nghị giám đốc bắt đầu khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án và kết thúc khi người có thẩm quyền kháng nghị ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Giai đoạn này phải tuân theo những quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Giai đoạn xét xử giám đốc thẩm bắt đầu khi có kháng nghị giám đốc thẩm của người có thẩm quyền và kết thúc khi HĐXX ban hành quyết định giám đốc thẩm. Giai đoạn này phải tuân theo những quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm, thủ tục phiên toà giám đốc thẩm, phạm vi giám đốc thẩm và thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm… Từ những cơ sở lý luận về kháng nghị và giám đốc thẩm nêu trên, khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm dân sự được đề xuất như sau: Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là hoạt động tố tụng do người có thẩm quyền thực hiện, phản đối bằng văn bản gửi cho Tòa án có thẩm quyền khi phát hiện bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật vi phạm pháp luật nghiêm trọng để Tòa án xem xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật một cách khách quan, chính xác và đúng pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự Để có cách nhìn nhận khách quan, đúng bản chất của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự thì phải làm rõ các đặc điểm của nó. Qua nghiên cứu, luận văn khái quát bốn đặc điểm chủ yếu của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự như sau: Thứ nhất, về mặt hình thức, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự phải được thể hiện bằng văn bản phản đối là quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trước đây thì Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử đó là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Còn BLTTDS hiện hành lại quy định chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm. Việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được tiến hành theo một thủ tục đặc biệt mà không được xem là cấp xét xử thứ ba. Cơ sở để Tòa án mở phiên tòa giám đốc thẩm là khi có quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền. 11
  14. Thứ hai, về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, BLTTDS 2015 quy định rõ: “Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TANDCC; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC; Chánh án TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ”. Như vậy, theo quy định của pháp luật, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC là những chủ thể có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Cũng theo quy định của BLTTDS 2015: “Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phân công người có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ sơ vụ án, báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, quyết định”. Như vậy, người có thẩm quyền kháng nghị sẽ phân công Thẩm phán, Kiểm sát viên xem xét đơn đề nghị, Thông báo phát hiện vi phạm kháng nghị. Nếu nhận thấy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm không đúng với bản chất vụ việc hoặc không đúng pháp luật, thi hành sẽ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì người có thẩm quyền kháng nghị xem xét ra quyết định kháng nghị, tạo tiền đề cho Tòa án mở phiên tòa giám đốc thẩm để xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. Trường hợp nhận thấy bản án, quyết định bị đề nghị đã đúng quy định của pháp luật thì Thẩm phán, Kiểm sát viên sẽ ra thông báo cho người có đơn đề nghị kháng nghị. Có thể thấy, Nhà nước giao cho cá nhân (Chánh án Tòa án hoặc Viện triển Viện kiểm sát) thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm mà không giao cho cơ quan, tổ chức nhằm kiểm soát chặt chẽ công tác kháng nghị cũng như chất lượng kháng nghị. Thứ ba, đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần phải được thi hành để đảm bảo được quyền lợi của đương sự và đảm bảo cho việc thực thi công lý. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì bản án, quyết 12
  15. định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không đúng với bản chất sự việc hoặc nếu có thi hành thì gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy, cần phải có kháng nghị giám đốc thẩm để xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đây cũng là điểm khác biệt căn bản so với kháng nghị phúc thẩm. Bởi lẽ, đối tượng mà kháng nghị phúc thẩm hướng đến là bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và không có việc thi hành án đối với bản án, quyết định đó. Còn với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, khi người có thẩm quyền kháng nghị phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án thì cần thiết phải kháng nghị bản án, quyết định đó và đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét xử lại vụ án nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ được thi hành nếu người có thẩm quyền kháng nghị không có yêu cầu hoãn thi hành án. Thứ tư, căn cứ điều kiện để người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm là trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Trường hợp nào cần kháng nghị hoặc không cần kháng nghị thì phải dựa trên các căn cứ pháp lý rõ ràng. Trong trường hợp người có thẩm quyền kháng nghị cho rằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, thì người có thẩm quyền kháng nghị sẽ ban hành văn bản không kháng nghị giám đốc thẩm (Thông báo về việc giải quyết Đơn đề nghị giám đốc thẩm, kiến nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm). Trường hợp phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì người có thẩm quyền sẽ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tạo tiền đề cho Tòa án cấp trên mở phiên tòa giám đốc thẩm để xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. Tuy nhiên, không phải tất cả các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án được phát hiện đều là căn cứ để xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo quy định tại Điều 283 BLTTDS năm 2015, bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một những căn cứ sau: Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan 13
  16. của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Có thể thấy, để đảm bảo sự ổn định của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, chỉ trong trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án thì bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mới bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điều kiện kháng nghị giám đốc thẩm là phải có đơn đề nghị của đương sự, trừ trường hợp Bản án, Quyết định của Tòa án xâm phạm lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng hoặc lợi ích của người khác không phải là đương sự trong vụ án. Như vậy, bốn đặc điểm nêu trên thể hiện được bản chất của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nhằm phân biệt nó với các đối tượng gần gũi khác như kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. 1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm dân sự Đối với thủ tục kháng nghị, người có thẩm quyền phải xem xét kỹ lưỡng các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để cân nhắc việc ra quyết định kháng nghị hay không kháng nghị. Nếu việc ra quyết định kháng nghị sai lầm sẽ gây khó khăn cho Tòa án, ảnh hưởng đến hoạt động của Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án và hoạt động xét xử của Tòa án. Việc ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đúng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, lợi ích của Nhà nước, tránh những hậu quả không khắc phục được. Trên cơ sở kháng nghị giám đốc thẩm, Tòa án có thẩm quyền mở phiên tòa giám đốc thẩm để khắc phục những sai lầm trong các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự có ý nghĩa về cả thực tiễn và pháp lý. Ý nghĩa thực tiễn Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự mang một ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các bên khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp hợp pháp của nhân dân được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung Nhà nước pháp quyền, thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Tòa án trong hoạt động của mình đảm bảo việc xét xử đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm 14
  17. trọng trong việc giải quyết vụ án; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, xét xử;… Vì vậy, thông qua kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật sai lầm tạo cơ sở pháp lý để vụ án được phục hồi, xét xử lại hoặc là cơ sở cho việc khắc phục những vi phạm quyền, lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự trở thành một cơ chế giúp Tòa án nhận biết được những vi phạm pháp luật của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Từ đó, Tòa án sẽ mở ra phiên tòa giám đốc thẩm để xem xét lại bản án, quyết định bị kháng nghị, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, xây dựng uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, giữ gìn niềm tin trong nhân dân vào hệ thống luật pháp của Nhà nước. Ngoài ra, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm còn có ý nghĩa trong việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để tránh những hậu quả không thể khắc phục được do thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện sai lầm khi ra bản án, quyết định đó. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án thì người có thẩm quyền kháng nghị có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền hoãn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để có thời gian xem xét hồ sơ vụ án. Ý nghĩa pháp lý Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm công bằng xã hội. Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm giúp cho Tòa án cấp trên nhận biết những sai lầm của Tòa án cấp dưới trong việc giải quyết vụ án. Trên cơ sở đó Tòa án cấp trên sẽ xem xét lại bản án, quyết định đã bị kháng nghị nhằm phát hiện và khắc phục hoặc yêu cầu khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Mặt khác, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự còn góp phần phát hiện những lỗ hổng của văn bản pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng luật. Thông qua đó, Tòa án tổng kết và định hướng công tác xét xử, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể nhận biết và có những hướng dẫn cụ thể đối với những trường hợp đã phát sinh trong thực tiễn xét xử và cả những trường hợp mới phát sinh mà pháp luật chưa dự liệu được. 15
  18. Bên cạnh đó, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự còn là phương tiện hướng dẫn hoạt động xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Bởi lẽ, thông qua thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác xét xử của Tòa án, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho Tòa án cấp dưới để việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hệ thống Tòa án. Như vậy, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự có ý nghĩa trong nhiều hoạt động của ngành Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan hỗ trợ tư pháp, đồng thời có tác động đến nhiều mặt của đời sống, xã hội. Việc kháng nghị giám đốc thẩm dân sự không những giúp cho hệ thống pháp luật được phối hợp chặt chẽ, chính xác, dần đi tới hoàn chỉnh mà còn góp phần cân bằng các mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển đa chiều. 1.2. Mô hình lý luận và giá trị pháp lý về kháng giám đốc thẩm dân sự qua các thời kỳ ở Việt Nam 1.2.1. Từ năm 1945 đến năm 1989 Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công, nước ta giành được độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Nhưng khi đó, hệ thống pháp luật áp dụng cho toàn dân chưa được xây dựng. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xây dựng và ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 về việc “Vẫn giữ nguyên như cũ các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất áp dụng cho toàn cõi nước Việt Nam”. Tuy nhiên, để giải quyết khối lượng công việc phức tạp và cấp bách nảy sinh trong xã hội, ngày 24/01/1946, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 13/Sl về việc Quy định cách thức tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán, trong đó quy định về “Tòa án thực hiện hai cấp xét xử” Một bước tiến quan trọng trong lịch sử lập pháp của nước ta là ngày 09/11/1946, tại kì họp thứ 2, Quốc hội khóa I đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng bộ máy Nhà nước và hệ thống pháp luật. Hiến pháp năm 1946 xác định Cơ quan Tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chỉ có hệ thống các Tòa án. Đến ngày 22/5/1950, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 85/SL có quy định về thủ tục thủ tiêu án. Điều 17 của Sắc lệnh quy định: “Tòa 16
  19. án chỉ thủ tiêu một phần hay toàn thể thủ tục nếu xét một hay nhiều hình thức ghi trong luật tố tụng hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền lợi của đương sự”. Ngày 12/02/1958, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 321/VHH-CT yêu cầu các Toà án phải nghiên cứu các đơn thư khiếu nại về các bản án đã xử chung thẩm. Ngày 13/01/1959, Bộ Tư pháp đã phối hợp với TANDTC ra Thông tư số 02/TT quy định về thẩm quyền và thủ tục xét lại những vụ án hình sự đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, từ năm 1945 đến đầu năm 1959, pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể về thủ tục giám đốc thẩm các vụ án dân sự. Vì thế, pháp luật cũng không có quy định về thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. Khái niệm về giám đốc việc xét xử được đề cập lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1959. Tại Điều 103 Hiến pháp quy định: “TANDTC giám đốc việc xét xử của các TAND địa phương, Tòa án quân sự và Tòa án đặc biệt”. Trên cơ sở những định hướng mang tính nguyên tắc của Hiến pháp, Điều 10 Luật Tổ chức TAND năm 1960 quy định rõ hơn về việc xét lại các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: “Đối với những bản án và quyết định của TANDTC đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án TANDTC đưa ra Uỷ ban thẩm phán TANDTC xét định. Đối với những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án mình hoặc của toà án cấp dưới, nếu phát hiện có sai lầm thì Toà án nhân dân địa phương có quyền nêu lên để TANDTC xét định”. Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa có quy định cơ chế, hình thức để Chánh án TANDTC đưa ra Uỷ ban thẩm phán TANDTC xét định những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có sai lầm. Khái niệm kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét lại bản án, quyết định đó do có sai lầm về pháp luật được đề cập lần đầu tiên tại Luật Tổ chức VKSND năm 1960. Tại Điều 18, luật Tổ chức VKSND năm 1960 quy định: “Khi VKSNDTC thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp là sai lầm thì có quyền kháng nghị; Khi VKSND địa phương 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2