intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

42
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ THỊ BẠCH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ THỊ BẠCH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VĂN BIÊN HÀ NỘI, 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Hà Thị Bạch
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM ......... 7 1.1. Lý luận về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ................................................................................................................. 7 1.2. Lý luận pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ................................................................................................ 21 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM ............................................................................... 29 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ...................................................................... 29 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ............................................................................. 40 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................ 50 3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ..................................................... 50 3.2. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ..................................................... 55 KẾT LUẬN ................................................................................................ 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 70
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Thời gian qua để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư năm 2014 (sửa đổi, bổ sung vào năm 2016) [16]; trong đó, quy định cụ thể danh mục các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, bao gồm 21 ngành nghề thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, trong đó có 04 ngành nghề đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Để tăng cường thu hút đầu tư kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, công bằng cho các nhà đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 151/2018/NĐ-CP ngày 07/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, trong đó có lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Theo Luật Đầu tư, trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tại mỗi ngành nghề này, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm có quy định về điều kiện kinh doanh. Điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm được đặt ra với mục tiêu kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng ảnh hưởng lớn tới lợi ích công cộng, trật tự an toàn xã hội, qua đó góp phần giúp nhà nước điều tiết, định hướng phát triển kinh tế khắc phục những hạn chế của thị trường. Năm 2019, để tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thì nhiệm vụ cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh càng được chú trọng. Tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh 1
  6. doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, Chính phủ tiếp tục yêu cầu các Bộ, ngành rà soát, trình Chính phủ bãi bỏ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh không rõ ràng, không cụ thể, không khả thi. Theo đó, để đáp ứng yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong tình hình mới thì ngay từ khi xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cần phải có các nguyên tắc, các thức xác định điều kiện kinh doanh để quy định cho phù hợp. Đồng thời, đối với việc đơn giản hóa điều kiện kinh doanh cũng cần có phương pháp, cách thức hợp lý, cũng như thay đổi phương thức quản lý để bãi bỏ, cắt giảm những điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, ảnh hưởng đến người dân và doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay” là cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua rà soát cũng có một số báo cáo, công trình nghiên cứu về vấn đề điều kiện đầu tư kinh doanh, ví dụ như: - Vũ Thị Hiền (2014), “Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của Đại học Luật Hà Nội; - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2014), “Báo cáo rà soát điều kiện kinh doanh và quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam”, Báo cáo; - CIEM (2017), “Báo cáo kinh doanh có điều kiện”, Báo cáo; - Quách Ngọc Tuấn (2018), “Đánh giá thực trạng các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh và giải pháp hoàn thiện ”, Đề tài. - Nguyễn Thu Dung (2018), “Điều kiện kinh doanh - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp cơ sở của Viện Nhà nước và Pháp luật. - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2019), “Báo cáo dòng chảy pháp luật kinh doanh”, Báo cáo. 2
  7. Vào thời điểm sau khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2014 được ban hành, các nghiên cứu về điều kiện kinh doanh một lần nữa lại được giới khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu với nhiều công trình đa dạng. Tiêu biểu như “Báo cáo rà soát điều kiện kinh doanh” của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2013-2014 nhằm phục vụ cho việc sửa đổi hai đạo luật nói trên. Đây là kết quả điều tra khảo sát tương đối đầy đủ và toàn diện về các điều kiện kinh doanh hiện hành và từ kết quả nghiên cứu này, một tinh thần kiên quyết làm minh bạch hóa và đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh đã được Nhà nước tiếp thu trong quá trình sửa đổi, bổ sung hai luật nêu trên. Ngoài ra, nghiên cứu về điều kiện kinh doanh còn được thể hiện thông qua các công trình luận văn, luận án. Nhìn chung, các nghiên cứu về điều kiện đầu tư kinh doanh hầu hết đều là những nghiên cứu mang tính rà soát chung, tổng thể các ngành nghề kinh doanh có điều kiện ở Việt Nam hiện nay mà chưa có nghiên cứu nào cụ thể về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, để chỉ ra những mặt được, mặt hạn chế, tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu nội hàm khái niệm về điều kiện kinh doanh, kinh doanh bảo hiểm và làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về điều kiện kinh 3
  8. doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và thực tiễn tình hình thực hiện pháp luật này ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm từ năm 2000 (từ khi Quốc hội ban hành Luật Kinh doanh bảo hiểm) đến năm 2019 và bối cảnh thực hiện pháp luật là ở Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Phân tích và tổng hợp là phương pháp nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng, sau đó tổng hợp lại từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về đối tượng. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết được sử dụng để nghiên cứu phần lý luận của đề tài. - Phương pháp so sánh và đối chiếu: So sánh và đối chiếu là phương pháp nghiên cứu lấy một việc, một sự vật có tính tương đồng để tìm ra điểm giống hoặc khác nhau, qua đó đánh giá mặt được, mặt chưa được của nội dung phân tích. Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu quy định pháp lý với tình hình thực tế thực hiện. - Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: Phân loại và hệ thống hóa là phương pháp nghiên cứu sắp xếp các tài liệu 4
  9. khoa học theo từng mặt, từng đơn vị, từng vấn đề có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển, sau đó sắp xếp thành một hệ thống. Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết được sử dụng để nghiên cứu thực trạng của đề tài. - Phương pháp giả thuyết: Là phương pháp đưa ra các dự đoán về quy luật của đối tượng sau đó đi chứng minh dự đoán đó là đúng. Phương pháp này được sử dụng để đưa ra các đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn đã hệ thống hóa, làm rõ hơn những vấn đề lý luận pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Bằng việc làm rõ thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, luận văn chỉ ra những kết quả đạt được, những điểm còn hạn chế làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động học tập và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo. Những đề xuất, kiến nghị mà luận văn nêu ra có giá trị tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. 5
  10. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay. 6
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM 1.1. Lý luận về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm 1.1.1. Khái quát về điều kiện kinh doanh Điều kiện kinh doanh là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng mà hầu hết pháp luật các quốc gia trên thế giới đều quy định. Nội dung điều kiện kinh doanh có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Về mặt thuật ngữ, dường như không có sự thống nhất về “điều kiện kinh doanh”. Theo từ điển Tiếng Việt, “điều kiện” được hiểu là cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra. Hoặc cũng có thể hiểu “điều kiện” còn là điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một công việc nào đó. Còn “kinh doanh” là các hoạt động đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ do các chủ thể kinh doanh tiến hành một cách độc lập, thường là mục đích tạo ra lợi nhuận. Một số ý kiến khác của các nhà nghiên cứu cho rằng “Điều kiện kinh doanh là mọi sự can thiệp của cơ quan hành chính vào quyền tự do kinh doanh của người dân, thường được cụ thể hóa bằng những hành vi của nhân viên hành chính có quyền chấp nhận, hạn chế hoặc khước từ việc đăng kí hoặc tổ chức những hoạt động kinh doanh cụ thể”. Trong đó, hành vi hành chính có thể biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau như thông qua một văn bản pháp quy ấn định những hạn chế cho người kinh doanh, thông qua hành vi cấp phép chấp thuận hoặc từ chối của cơ quan hành chính, thông qua hành vi giám sát của cơ quan hành chính về việc tuân thủ điều kiện kinh doanh... Như vậy, theo cách hiểu thông thường, về bản chất điều kiện kinh doanh là những yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước mà chủ thể kinh doanh phải có hay phải thực hiện trước khi tiến hành các hoạt động kinh doanh nhất định như sản 7
  12. xuất, phân phối, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vì vậy, với tính chất là một hình thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh, điều kiện kinh doanh sẽ được nhìn nhận với tính chất là công cụ quản lý của Nhà nước. Ở Việt Nam, tại Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, mặc dù không quy định trực tiếp về “điều kiện kinh doanh”, nhưng những yêu cầu của Nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh cũng đã tồn tại. Ở thời kỳ này, trước khi bắt đầu hoạt động kinh doanh, tổ chức hoặc cá nhân phải “xin phép” Nhà nước, thể hiện dưới hình thức “Giấy phép thành lập công ty” trước khi tiến hành kinh doanh và Công ty có nghĩa vụ kinh doanh ngành nghề theo giấy phép. Có thể thấy, các quy định của pháp luật thời kỳ này thể hiện rõ quan điểm rằng, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh những gì mà Nhà nước cho phép. Thuật ngữ “điều kiện kinh doanh” được sử dụng trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 và gắn liền với nó là danh mục các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định phải có điều kiện. Và tại Điều 5 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 03/2/2000 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 1999, danh mục các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định phải có điều kiện được gọi là “Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện”. Đây cũng là lần đầu tiên thuật ngữ “Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện” được quy định tại một văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 chưa có quy định tiêu chí xác định điều kiện kinh doanh mà được thể hiện dưới hình thức là “Giấy phép kinh doanh” hoặc là các quy định pháp luật khác như “có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định”. Đối với các điều kiện kinh doanh phải có giấy phép, doanh nghiệp chỉ được thực hiện kinh doanh sau khi có giấy phép. Đối với các điều kiện kinh doanh không cần phép, doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành, nghề đó kể từ khi có đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định và cam kết thực hiện đúng các điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Theo đó, 8
  13. Luật Doanh nghiệp năm 1999 xác định rõ chỉ có Quốc hội (ban hành Luật), Ủy ban Thường vụ Quốc hội (ban hành Pháp lệnh), Chính phủ (ban hành Nghị định) mới có thẩm quyền quy định ngành, nghề cấm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề đó. Các Bộ, Ủy ban nhân dân không được quyền ban hành quy định về cấm và kinh doanh có điều kiện. Tại Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Điều kiện đầu tư kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện đầu tư kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác.”. Tuy nhiên, cách giải thích về điều kiện kinh doanh tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 mới chỉ trên cơ sở liệt kê các hình thức pháp lý mà chưa nêu được bản chất của điều kiện kinh doanh. Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ trong việc đánh giá, rà soát lại các điều kiện kinh doanh để từ đó bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện không còn phù hợp, sửa đổi các điều kiện kinh doanh không còn hợp lý; ban hành hoặc kiến nghị ban hành điều kiện kinh doanh mới. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng quy định cấm việc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh. Tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014: Điểm mới quan trọng của Luật Doanh nghiệp năm 2014 là điều kiện kinh doanh và ngành, nghề kinh doanh có điều kiện đã được chuyển sang phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư năm 2014 và thuật ngữ “điều kiện kinh doanh” được thay thế bằng thuật ngữ “điều kiện đầu tư kinh doanh” và thuật ngữ “ngành, nghề kinh doanh có điều kiện” được thay thế bằng thuật ngữ “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện”. 9
  14. Luật Đầu tư năm 2014 quy đinh: “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Đồng thời, khoản 4 Điều 7 Luật Đầu tư năm 2014 cũng giải thích: “Điều kiện đầu tư kinh doanh phải được quy định phù hợp với mục tiêu quy định tại khoản 1 Điều này và phải bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, tiết kiệm thời gian, chi phí tuân thủ của nhà đầu tư”. Thuật ngữ “điều kiện đầu tư kinh doanh” chỉ được giải thích mang tính viện dẫn tại Nghị định số 118/2015/NĐ-CP, theo đó, điều kiện đầu tư kinh doanh là “điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong các ngành, nghề quy định tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư”. Có thể thấy, mặc dù Luật Đầu tư năm 2014 không trực tiếp đưa ra cách giải thích về điều kiện đầu tư kinh doanh, nhưng bằng các quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và cách thức xây dựng, ban hành một điều kiện đầu tư kinh doanh, các quy định đã cho thấy khái niệm chung nhất về “điều kiện đầu tư kinh doanh”. Theo đó, có thể hiểu là các yêu cầu mà Nhà nước đặt ra vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng mà doanh nghiệp buộc phải tuân thủ trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư và kinh doanh của mình. Các quy định này đã phần nào làm rõ được mục tiêu cũng như các yêu cầu cần có của quá trình xây dựng và ban hành một điều kiện đầu tư kinh doanh. Luật Đầu tư năm 2014 đã kế thừa Luật Doanh nghiệp năm 1999 khi quy định về hai hình thức của các điều kiện đầu tư kinh doanh gồm điều kiện đầu tư kinh doanh phải có một văn bản chấp thuận nào đó của Nhà nước và các điều kiện đầu tư kinh doanh không cần phải có văn bản chấp thuận mà chỉ cần tuân thủ các quy định hiện hành. [7, tr.12-13]. Đồng thời, doanh nghiệp phải đáp 10
  15. ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh trước thời điểm bắt đầu hoạt động kinh doanh và phải duy trì điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động. Nói cách khác, các điều kiện kinh doanh là các yêu cầu của Nhà nước mà doanh nghiệp phải duy trì từ lúc bắt đầu kinh doanh và trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy, từ các góc độ tiếp cận nêu trên, có thể hiểu, điều kiện kinh doanh là những yêu cầu mang tính bắt buộc của Nhà nước áp dụng đối với một hoạt động kinh doanh cụ thể nhằm mục đích bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. 1.1.2. Khái quát về kinh doanh bảo hiểm Nhu cầu an toàn đối với các cá nhân và tổ chức trong xã hội là vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài sản của mình trước những bất hạnh của số phận và những biến cố bất ngờ xảy ra trong sản xuất kinh doanh. Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện các tổ chức gần giống với bảo hiểm, chẳng hạn người Ba-Bi-Lon đã đưa ra những quy tắc tổ chức phương tiện vận tải bằng xe kéo để phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị cướp cho các thương gia cùng gánh chịu. Hoặc vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, Pê- Ri-Gex đã tổ chức Hội đoàn tương hỗ nhằm trợ giúp cho các thành viên và gia đình của họ trong các trường hợp bị tử vong, ốm đau, bệnh tật hay hoả hoạn... Sang thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã bắt đầu được hình thành, song phải đến năm 1347 bản hợp đồng bảo hiểm đầu tiên mới được ký kết tại Gênes. Và cũng chính tại Gênes năm 1424, công ty bảo hiểm hàng hải đầu tiên đã ra đời, đánh dấu sự phát triển của ngành bảo hiểm và sự ra đời hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển mạnh mẽ nhất từ cuối thế kỷ XVII và đến nay nó đã trở thành một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Từ bản chất của kinh doanh bảo hiểm nêu trên, đề tài nhận định kinh doanh 11
  16. bảo hiểm có các đặc điểm sau đây: Mục đích kinh tế của Kinh doanh bảo hiểm là lợi nhuận, đây là mục đích chính mà các doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới. Chỉ có thu được lợi nhuận doanh nghiệp bảo hiểm mới có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện kinh tế thị trường. Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời chấp nhận trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên tham gia khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu được phí bảo hiểm để hình thành quỹ dự trữ, bồi thường, trang trải các khoản chi phí có liên quan và có lãi. Phạm vi mà doanh nghiệp bảo hiểm xác định và lựa chọn là các rủi ro mà doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm, có thể là các rủi ro xảy ra trong tương lai (có nghĩa là nó chưa xảy ra); Rủi ro có tính chất bấp bênh (có nghĩa là xảy ra ngẫu nhiên hoặc có chắc chắn xảy ra thì cũng không biết trước được thời điểm); Rủi ro không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người được bảo hiểm; Các rủi ro không thuộc phạm vi cấm của pháp luật… Như vậy, có thể hiểu Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế rất quan trọng thể hiện trên các mặt: Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô (bằng kết quả hoạt động góp phần thúc đẩy thị trường bảo hiểm tăng trưởng và đóng góp cho ngân sách nhà nước); Góp phần hỗ trợ chính sách an sinh xã hội (sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân 12
  17. sự xe cơ giới, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm thiên tai), góp phần bảo vệ tài chính, đảm bảo môi trường đầu tư lành mạnh, ổn định (tư vấn cho khách hàng đánh giá rủi ro, tham gia bảo hiểm, bảo vệ tài chính, tài sản của mình giúp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh); góp phần đảm bảo an ninh kinh tế, an ninh chính trị (đồng hành cùng cơ quan quản lý xây dựng các chính sách bảo hiểm mang tính xã hội); thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế (kết nối thị trường bảo hiểm Việt Nam và thị trường quốc tế). 1.1.3. Khái quát về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm 1.1.3.1. Khái niệm về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện nhiều điều kiện ở những mức độ khác nhau phụ thuộc vào quy mô, tính chất của hoạt động kinh doanh. Trong đó, có những điều kiện đặt ra bởi chính nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp, có những điều kiện kinh doanh đặt ra do các yếu tố khác như cơ chế thị trường, đối tác kinh doanh hay đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Các điều kiện này có thể được ghi nhận trong hợp đồng kinh doanh, văn bản thỏa thuận với đối tác của doanh nghiệp... Các điều kiện này có được đáp ứng hay không và ở mức độ nào đều phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp. Khác với những điều kiện trên, có những điều kiện bắt buộc doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng khi tiến hành hoạt động kinh doanh cụ thể mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp, đó là điều kiện kinh doanh , Nhà nước là chủ thể duy nhất có thẩm quyền đặt ra những điều kiện này. Như vậy, có thể hiểu điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, nghị định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh 13
  18. trong các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. 1.1.3.2. Mục đích của việc đặt ra điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm Hiện nay, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có điều kiện kinh doanh quy định tại các ngành nghề: kinh doanh bảo hiểm; kinh doanh tái bảo hiểm; môi giới bảo hiểm; đại lý bảo hiểm và cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm. Nhà nước đặt ra điều kiện kinh doanh không phải để hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm mà để thực thi trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ những lợi ích mà Nhà nước quan tâm, bao gồm lợi ích của bên mua bảo hiểm (người tiêu dùng) và lợi ích của Nhà nước (bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, đạo đức, sức khỏe cộng đồng). Như vậy, bản thân các điều kiện kinh doanh không phải mục tiêu mà Nhà nước hướng tới, chúng chỉ là những phương tiện để đạt được lợi ích mà Nhà nước mong muốn. Ví dụ, khi Nhà nước yêu cầu đại lý bảo hiểm phải có người có chứng chỉ đại lý bảo hiểm do cơ sở đào tạo được Bộ Tài chính chấp thuận cấp thì mới được tư vấn bảo hiểm cho khách hàng thì cái Nhà nước mong muốn không phải là cơ sở đó có người có chứng chỉ đại lý bảo hiểm mà chính là việc người dân được hưởng dịch vụ tư vấn bảo hiểm bởi người có tay nghề chuyên môn cao được đào tạo về bảo hiểm để tư vấn cho khách hàng đúng về sản phẩm bảo hiểm, lợi ích khi tham gia dịch vụ này. Bảo hiểm là ngành nghề mà sự tiêu dùng nó có thể gây ra những rủi ro nhất định cho người sử dụng, xuất phát từ bản chất của bảo hiểm là kinh doanh sự kiện có thể xảy ra hoặc không xảy ra trong tương lai (như tai nạn, hỏa hoạn…) nên người gánh chịu rủi ro nhiều hơn bao giờ cũng là người tiêu dùng...Vì thế, trong trường hợp này, Nhà nước buộc phải can thiệp vào để cải thiện tình trạng bất cân xứng giữa hai bên bằng cách đưa ra các yêu cầu để giảm thiểu tính rủi ro mà các doanh nghiệp bảo hiểm buộc phải tuân thủ. 14
  19. 1.1.3.3. Đặc điểm của điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm Thứ nhất, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là yêu cầu được đặt ra bởi Quốc hội và Chính phủ được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật là Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định số 73/2016/NĐ-CP, Nghị định 151/2018/NĐ-CP và Nghị định số 80/2019/NĐ-CP. Theo Luật Đầu tư năm 2014, chủ thể có thẩm quyền quy định về điều kiện kinh doanh chỉ gồm Quốc hội, Chính phủ, dưới hình thức văn bản tương ứng là luật, pháp lệnh, nghị định. Các quy định về điều kiện kinh doanh do chủ thể khác ban hành dưới các hình thức văn bản khác đều không có hiệu lực thi hành. Như vậy, không phải mọi yêu cầu, đòi hỏi đặt ra trong hoạt động kinh doanh đều là điều kiện kinh doanh. Chỉ những điều kiện được được ban hành đúng chủ thể và hình thức văn bản quy phạm pháp luật mới được coi là điều kiện kinh doanh và có hiệu lực bắt buộc đối với chủ thể kinh doanh. Đây là đặc điểm mang tính pháp lý của điều kiện kinh doanh và phân biệt điều kiện kinh doanh theo định nghĩa trên với các điều kiện thông thường khác. Thứ hai, điều kiện kinh doanh là cơ sở để Bộ Tài chính quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, giới hạn quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Tự do kinh doanh là một trong những quyền hiến định của công dân. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.”. Tuy nhiên, đối với một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng thì phải đáp ứng một số điều kiện do Nhà nước đặt ra khi tiến hành hoạt động kinh doanh. 15
  20. Điều kiện kinh doanh là cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Căn cứ vào các nội dung của điều kiện kinh doanh trong ngành nghề cụ thể, cơ quan có thẩm quyền có thể cấp phép hoặc không cấp phép kinh doanh cho doanh nghiệp hoặc kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động kinh doanh, bảo đảm hoạt động đó tuân thủ đúng các điều kiện, yêu cầu theo quy định. Thứ ba, điều kiện kinh doanh gắn liền với một số ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhất định Nhà nước chỉ đặt ra điều kiện kinh doanh trong một số ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhất định nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích công cộng nhất định. Xuất phát từ mục đích này, điều kiện kinh doanh chỉ áp dụng trong phạm vi một số ngành nghề nhất định mà không đặt ra với tất cả ngành nghề kinh doanh bảo hiểm. Điều kiện kinh doanh được quy định trong chính văn bản pháp luật quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Thứ tư, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là một trong những biện pháp điều tiết nền kinh tế thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; duy trì sự công bằng, an toàn và ổn định của thị trường bảo hiểm đạt mục đích kinh tế - xã hội nhất định. Việc quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý các hoạt động kinh doanh và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm. Tại một số nước cũng coi việc quy định điều kiện kinh doanh là một trong những biện pháp để điều tiết nền kinh tế thị trường nhằm đạt mục đích kinh tế - xã hội nhất định. Song song với đó, điều kiện kinh doanh cũng nhằm 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2