intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Quản trị bí mật kinh doanh theo quy định pháp luật hiện hành

Chia sẻ: Cẩn Ngôn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

34
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là đưa ra những kiến nghị nhằm giúp doanh nghiệp có thể vận dụng tốt những quy định pháp luật hiện hành để quản trị bí mật kinh doanh một cách có hiệu quả tại doanh nghiệp mình. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Quản trị bí mật kinh doanh theo quy định pháp luật hiện hành

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ooo0ooo NGÔ PHƯƠNG TRÀ QUẢN TRỊ BÍ MẬT KINH DOANH THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH LUẬN VĂN THẠC SĨ TP.Hồ Chí Minh – Năm 2016
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM NGÔ PHƯƠNG TRÀ QUẢN TRỊ BÍ MẬT KINH DOANH THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN VIỄN TP.Hồ Chí Minh – Năm 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là Ngô Phương Trà– mã số học viên: 7701240537A, là học viên lớp Cao học Luật Khóa năm 2014, chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Quản trị bí mật kinh doanh theo quy định pháp luật hiện hành” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực. Học viên thực hiện Ngô Phương Trà
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TÓM TẮT LUẬN VĂN PHẦN MỞ ĐẦU 01 CHƯƠNG 1. PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VỀ BÍ MẬT KINH DOANH, NHỮNG THÔNG TIN NÊN BẢO HỘ BÍ MẬT KINH DOANH VÀ LỢI THẾ CỦA DOANH NGHIỆP CÓ BÍ MẬT KINH DOANH ĐƯỢC BẢO HỘ 1.1 Pháp luật sở hữu trí tuệ về bí mật kinh doanh 07 1.1.1 Khái niệm bí mật kinh doanh 07 1.1.2 Điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh 09 1.1.3 Căn cứ xác lập quyền đối với bí mật kinh doanh 12 1.1.4 Thời hạn bảo hộ đối với bí mật kinh doanh 13 1.1.5 So sánh quy định về bí mật kinh doanh giữa pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là 14 thành viên 1.2 Những thông tin nên bảo hộ bí mật kinh doanh 16 1.2.1 Các loại bí mật kinh doanh 16 1.2.2 Những vấn đề cần xem xét khi lựa chọn bảo hộ bí mật kinh 19 doanh 1.2.2.1 Khả năng bảo mật của thông tin 20 1.2.2.2 Khả năng đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ của thông tin 20
  5. 1.2.2.3 Hạn chế của việc bảo hộ bí mật kinh doanh 21 1.3 Lợi thế của doanh nghiệp có bí mật kinh doanh được bảo hộ 24 1.3.1 Lợi thế cạnh tranh 24 1.3.2 Lợi thế về thời hạn bảo hộ 26 1.3.3 Lợi thế về công cụ pháp lý chống lại hành vi tiếp cận, sử dụng 28 và bộc lộ trái phép Tiểu kết chương 1 29 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ BẢO HỘ BÍ MẬT KINH DOANH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP 2.1 Khảo sát thực trạng áp dụng pháp luật sở hữu trí tuệ để bảo hộ bí mật 30 kinh doanh tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay 2.2 Một số vụ tranh chấp liên quan đến bí mật kinh doanh 32 2.2.1 Tranh chấp liên quan đến bí mật kinh doanh tại Việt Nam 32 2.2.2 Tranh chấp liên quan đến bí mật kinh doanh ở nước ngoài 39 2.3 Những vướng mắc trong bảo hộ bí mật kinh doanh tại các doanh 47 nghiệp Việt Nam 2.3.1 Chưa nhận diện được bí mật kinh doanh 47 2.3.2 Chưa có cách thức bảo mật thích hợp đối với 48 bí mật kinh doanh 2.3.3 Chưa có phương pháp hiệu quả để chứng minh quyền sở hữu 49 đối với bí mật kinh doanh Tiểu kết chương 2 49
  6. CHƯƠNG 3. VẬN DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀO QUẢN TRỊ BÍ MẬT KINH DOANH 3.1 Khái niệm quản trị bí mật kinh doanh 50 3.2 Các quy định pháp luật cần vận dụng trong quá trình quản trị 51 bí mật kinh doanh 3.2.1 Quy định về các biện pháp bảo mật cần thiết 51 3.2.1.1 Quy định về biện pháp bảo mật trong quan hệ lao động 52 3.2.1.2 Quy định về biện pháp bảo mật trong quan hệ hợp đồng 53 3.2.1.3 Quy định về biện pháp bảo mật trong quan hệ cạnh tranh 55 3.2.2 Quy định về biện pháp bảo vệ bí mật kinh doanh 56 3.2.2.1 Chứng minh quyền sở hữu đối với bí mật kinh doanh 57 3.2.2.2 Chứng minh đã có hành vi xâm phạm quyền đối với 58 bí mật kinh doanh 3.2.2.3 Lựa chọn biện pháp xử lý xâm phạm phù hợp 58 3.3 Đề xuất cách thức quản trị bí mật kinh doanh trong doanh nghiệp 60 3.3.1 Chính sách và quy định về quản trị bí mật kinh doanh 60 3.3.2 Quy trình quản trị bí mật kinh doanh 62 3.3.2.1 Nhận diện 62 3.3.2.2 Bảo mật 63 3.3.2.3 Khai thác 67 3.3.2.4 Bảo vệ 68 3.3.3 Nhân lực và các phương tiện vật chất khác phục vụ quản trị 68
  7. bí mật kinh doanh Tiểu kết chương 3 70 PHẦN KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT PHỤ LỤC PL.1 Phiếu khảo sát doanh nghiệp PL.2 Bảng thống kê khảo sát PL.3 Bản án số 08/2010/LĐ-ST ngày 6/12/2010 PL.4 Bản án số 09/2010/LĐ-ST ngày 10/12/2010 PL.5 Tài liệu về vụ tranh chấp IBM vs. MARK D. PAPERMASTER PL.6 Tài liệu về vụ tranh chấp Hutchison vs. KFC
  8. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 01. BMKD : Bí mật kinh doanh 02. DN : Doanh nghiệp 03. HĐLĐ : Hợp đồng lao động 04. SHCN : Sở hữu công nghiệp 05. SHTT : Sở hữu trí tuệ 06. TAND : Tòa án nhân dân 07. WIPO : Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
  9. TÓM TẮT LUẬN VĂN Bí mật kinh doanh (BMKD) là một loại quyền sở hữu công nghiệp tồn tại trong mọi doanh nghiệp (DN). Tuy nhiên, để được bảo hộ và có thể khai thác có hiệu quả đối với BMKD, trước tiên DN cần phải nhận diện được các loại thông tin có thể trở thành BMKD và áp dụng các biện pháp bảo mật cần thiết đối với BMKD đó. Muốn vậy, DN cần tiến hành quản trị đối với BMKD. Đề tài đề cập đến việc quản trị BMKD theo quy định pháp luật hiện hành, gồm ba nội dung chính như sau: (i) Phân tích các quy định của pháp luật SHTT về BMKD, nêu các loại BMKD và đưa ra những tiêu chí để xác định thông tin nào nên bảo hộ BMKD, phân tích những lợi thế của DN có BMKD được bảo hộ; (ii) Thực trạng áp dụng pháp luật để bảo hộ BMKD tại các DN thông qua kết quả khảo sát thực tế về khả năng nhận diện cũng như các biện pháp bảo mật đang được áp dụng tại DN và nghiên cứu một số vụ tranh chấp liên quan đến BMKD ở Việt Nam và nước ngoài; (iii) Vận dụng các quy định pháp luật vào quản trị BMKD, trong phần này tác giả đưa ra khái niệm về quản trị BMKD, tổng hợp và phân tích các quy định pháp luật trong nhiều ngành luật khác nhau cần vận dụng vào quá trình quản trị BMKD; trên cơ sở, đó đề xuất cách thức quản trị BMKD trong DN. [Bí mật kinh doanh; quản trị bí mật kinh doanh; nhận diện bí mật kinh doanh; biện pháp bảo mật cận thiết; các loại bí mật kinh doanh]
  10. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mỗi DN có thể có một số đối tượng SHTT khác nhau, tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực kinh doanh và đặc thù của DN. Mặc dù về lý thuyết, một công ty đa ngành nghề có thể có tất cả các loại đối tượng SHTT nhưng thực tế sẽ khó có một DN nào có đầy đủ các đối tượng đó, ví dụ một công ty thiết kế hàng trang trí nội thất sẽ có rất nhiều tác phẩm có quyền tác giả hoặc nhiều kiểu dáng công nghiệp được đăng ký nhưng không thể có quyền đối với giống cây trồng, hoặc ngược lại, một công ty chuyên nghiên cứu giống cây trồng sẽ khó mà có quyền SHTT đối với thiết kế bộ trí mạch tích hợp bán dẫn. Nhưng mọi DN hoạt động trong mọi lĩnh vực kinh doanh, với mọi đặc thù khác nhau đều có các thông tin mật và chúng có thể được bảo hộ dưới dạng BMKD, ví dụ danh sách khách hàng, danh sách nhà cung cấp, danh sách đối tác, mối quan hệ với những người có tầm ảnh hưởng trong xã hội hay các thông tin mang tính kỹ thuật khác như các bí quyết kỹ thuật (knowhow), quy trình sản xuất, hay kể cả những mẫu thiết kế hoặc chiến lược quảng cáo, tiếp thị chưa/ không được lựa chọn để sử dụng trên thực tế… Vậy, BMKD là một loại quyền SHTT phổ biến, có thể có ở mọi DN khác nhau. Giá trị kinh tế của các BMKD là vô cùng khác nhau, có những BMKD chỉ mang lại một giá trị kinh tế không đáng kể, nhưng có những BMKD có một giá trị khổng lồ. Một ví dụ mà khi nói đến BMKD không thể quên nhắc đến, đó là bí mật công thức nước giải khát có ga Coca Cola. Khó mà xác định rõ ràng là BMKD này đã đóng góp bao nhiêu phần trăm vào mạng giá trị của thương hiệu Coca Cola. Nhưng cùng với những đối tượng SHTT khác như kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả… BMKD đã góp một phần không nhỏ cho thương hiệu này luôn được xếp hàng đầu trong bảng định giá thương hiệu trên toàn thế giới. Chúng ta biết là công thức bí mật của món nước giải khát này đã tồn tại cùng với DN, tính đến nay là hơn 100 năm. Làm sao có một đối tượng SHTT nào ngoài BMKD có giá trị lớn đồng thời có khả năng khai thác dài lâu được như vậy? Ngành luật SHTT có đặc thù là các quy định ở phần lớn các quốc gia trên thế giới thực chất là quá trình nội địa hoá các quy định trong các điều ước quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này, các quy định về SHTT nói chung
  11. 2 và về BMKD nói riêng không có khác biệt gì đáng kể so với những điều ước quốc tế và pháp luật ở hầu hết các quốc gia khác. Đối với BMKD, các quy định đều mang tính “mở” để chủ sở hữu tự hiểu và làm theo cách của mình. Mặc dù có một hành lang pháp lý tương tự nhau nhưng ở nhiều nước phát triển, có những BMKD được bảo vệ và khai thác tốt, tạo được giá trị rất lớn và lâu dài; trong khi đó, tại Việt Nam hầu như các DN chưa khai thác được BMKD một cách có hiệu quả, thậm chí khi bị chiếm đoạt BMKD chủ sở hữu đích thực lại không thể chứng minh được quyền của mình để yêu cầu xử lý xâm phạm. Lý do của sự khác biệt này thiết nghĩ không phải là do pháp luật Việt Nam còn thiếu sót, từ góc nhìn đó, tác giả nhận thấy vấn đề của chúng ta không phải là cải cách các quy định của pháp luật hiện hành. Vậy thì vấn đề nằm ở đâu? Tác giả cho rằng chính việc chưa vận dụng hiệu quả pháp luật trong việc quản trị BMKD là nguyên nhân dẫn đến hầu hết DN Việt Nam chưa bảo hộ được BMKD và càng chưa thể khai thác tốt BMKD. Vì vậy, đề tài "Quản trị bí mật kinh doanh theo quy định pháp luật hiện hành" được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình. 2. Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu 2.1 Các giả thuyết nghiên cứu Các giả thuyết khoa học được sử dụng để nghiên cứu là: Thứ nhất, các quy định pháp luật SHTT về BMKD của Việt Nam không có sự khác biệt đáng kể so với các điều ước quốc tế. Thứ hai, DN có BMKD được bảo hộ sẽ có những lợi thế trong kinh doanh. Thứ ba, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận diện được hết các loại thông tin mật có thể trở thành BMKD Thứ tư, phần lớn các doanh nghiêp Việt Nam chưa áp dụng hoặc áp dụng chưa đầy đủ những biện pháp bảo mật cần thiết đối với thông tin mật để thông tin đó đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ BMKD. Thứ năm, để bảo hộ và khai thác hiệu quả BMKD thì DN cần phải tiến hành quản trị đối với BMKD đó.
  12. 3 Thứ sáu, để quản trị tốt BMKD, DN cần phải vận dụng được các quy định pháp luật có liên quan thuộc nhiều ngành luật khác nhau. 2.2 Các câu hỏi nghiên cứu Từ các giả thiết nghiên cứu trên, tác giả xác định đề tài cần giải quyết ba câu hỏi nghiên cứu lớn sau: Thứ nhất, những thông tin nào nên bảo hộ BMKD và quyền sở hữu BMKD có thể tạo ra những lợi thế gì cho DN? Để trả lời câu hỏi này tác giả phân tích các quy định của pháp luật SHTT về BMKD để rút ra những đặc điểm cơ bản của đối tượng này và những ưu điểm cũng như nhược điểm của hình thức bảo hộ BMKD. Từ đó xác định những loại thông tin nên bảo hộ BMKD và những lợi thế của DN có BMKD được bảo hộ. Thứ hai, thực trạng áp dụng pháp luật để bảo hộ BMKD tại các DN ở Việt Nam hiện nay và những vướng mắc cần khắc phục là gì? Để trả lời câu hỏi này tác giả tiến hành khảo sát 100 doanh nghiệp để đánh giá thực trạng doanh nghiệp Việt Nam về bảo hộ BMKD, khả năng nhận diện BMKD và những biện pháp bảo mật BMKD mà DN đang áp dụng. Bên cạnh việc tiến hành khảo sát thực tế, tác giả nghiên cứu và phân tích một số vụ tranh chấp liên quan đến BMKD ở cả trong và ngoài nước. Từ đó, tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trong việc bảo hộ BMKD của các DN Việt Nam. Thứ ba, những quy định pháp luật nào có thể vận dụng và cách thức vận dụng hữu hiệu các quy định pháp luật vào quản trị BMKD? Để trả lời câu hỏi này, tác giả đưa ra khái niệm về quản trị BMKD, tổng hợp những quy định pháp luật liên quan từ các ngành luật khác nhau có thể được vận dụng trong quản trị BMKD. Từ đó, đề xuất một cách thức quản trị BMKD cho DN mang tính tổng quát, đi từ các chính sách và quy định của DN đến quy trình quản trị và những điều kiện hỗ trợ cho hoạt động quản trị BMKD. 3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay, các đề tài nghiên cứu và công trình khoa học của Việt Nam chuyên biệt về BMKD nói chung còn chưa nhiều, và thường chỉ tập trung vào việc phân tích những bất cập trong quy định pháp luật về BMKD. Tác giả xin điểm qua một số công trình nghiên cứu như sau:
  13. 4 Một số bài báo của tiến sỹ Nguyễn Thái Mai – Khoa Pháp luật quốc tế, Đại học Luật Hà Nội “Hoàn thiện Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD”1, “Xác định các điều kiện bảo hộ đối với BMKD – Một nội dung pháp lý quan trọng trong khi giải quyết các vụ việc về xâm phạm BMKD tại tòa án”2 và “Bổ sung luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về BMKD trong mối tương quan với quy định của điều ước quốc tế và pháp luật các nước”3 đều tập trung chỉ ra bất cập trong các quy định của pháp luật về phạm vi bảo hộ, điều kiện bảo hộ và các biện pháp bảo mật đối với BMKD và vai trò của điều kiện bảo hộ BMKD trong công tác xét xử. Tiến sĩ Nguyễn Thị Quế Anh – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có đề tài “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại”4 và bài báo “BMKD và các tiêu chí bảo hộ”5 tập trung phân tích các bất cập của pháp luật Việt Nam về BMKD. Tuy nhiên bối cảnh của các nghiên cứu này là trước khi Luật SHTT được ban hành (2005). Ngoài ra, còn một số đề tài nghiên cứu khác như: “Bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp đối với BMKD theo quy định của pháp luật Việt Nam”6. “Bảo hộ BMKD theo quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật Việt nam”7…cũng bàn về những bất cập trong pháp luật Việt Nam về BMKD. Các tài liệu trên chưa nghiên cứu dựa trên khảo sát thực tế mà chỉ nghiên cứu lý thuyết đơn thuần. Đến đề tài “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD – pháp luật và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam”8 của Trần Thị Kim Huế, tác giả đã nghiên cứu dựa trên cả lý luận và kết quả khảo sát thực tế về hiểu biết của DN đối với BMKD, nhận thức của DN về vai trò của BMKD và quy định về trách nhiệm bảo vệ BMKD cho nhân viên trong DN. Đề tài “BMKD theo pháp luật sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay”9 là một công trình nghiên cứu còn khá mới, nội dung chính là đánh giá thực trạng pháp luật bảo hộ BMKD ở Việt Nam để từ đó đưa ra kiến giải nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao kết quả bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với đối tượng này. 1 Nguyễn Thái Mai, 2009a. 2 Nguyễn Thái Mai, 2009b. 3 Nguyễn Thái Mai, 2012 4 Nguyễn Thị Quế Anh, 2002 5 Nguyễn Thị Quế Anh, 2003 6 Châu Thị Vân, 2007 7 Trương Thị Minh Hiền, 2011 8 Trần Thị Kim Huế (2012) 9 Nguyễn Thị Thanh Hoa (2014)
  14. 5 Như vậy, các tài liệu trên đều tập trung nghiên cứu theo hướng kiến nghị cải cách pháp luật. Việc vận dụng pháp luật để quản trị tốt BMKD, tức là sử dụng những quy định hiện hành một cách hữu hiệu, chưa thấy được đề cập đến trong các đề tài và công trình nghiên cứu trong nước. Trong các tài liệu nước ngoài, như khóa đào tạo từ xa về quản trị sở hữu công nghiệp của WIPO10 chỉ dừng lại ở việc nêu lên ý nghĩa, tầm quan trọng của việc quản trị BMKD mà chưa đi sâu vào những biện pháp tác nghiệp cụ thể mang tính kỹ thuật trong việc quản trị BMKD. Chương trình đào tạo trực tuyến IP PANORAMA11 về SHTT cũng đã có nguyên một chương về BMKD, trong đó có một phần về quản lý bí mật kinh doanh bao gồm 10 bước ngắn gọn chủ yếu liên quan đến công tác bảo mật. Một số tài liệu khác liên quan đến quản trị BMKD hầu hết cũng chỉ dừng lại ở việc đưa ra những bước ngắn gọn trong bảo mật BMKD. Tóm lại, các công trình nghiên cứu của Việt Nam về BMKD hầu hết đi theo hướng phân tích những bất cập trong quy định pháp luật, từ đó đưa ra những kiến nghị để cải cách pháp luật chứ không nghiên cứu theo hướng vận dụng pháp luật. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài đã có hướng chú trọng vào việc vận dụng pháp luật để quản trị BMKD, tuy nhiên tác giả chưa tìm thấy công trình nghiên cứu nào đưa ra những giải pháp mang tính tổng thể cho DN trong quản trị BMKD từ lời khuyên về những thông tin nên bảo hộ BMKD, đến các quy định có thể áp dụng trong quản trị BMKD và cách thức để quản trị BMKD. 4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 4.1 Mục đích nghiên cứu Đề tài này không nhằm mục đích đánh giá luật thực định hay đưa ra giải pháp, kiến nghị để cải cách pháp luật hiện hành liên quan đến BMKD. Mục đích của đề tài là đưa ra những kiến nghị nhằm giúp DN có thể vận dụng tốt những quy định pháp luật hiện hành để quản trị BMKD một cách có hiệu quả tại DN mình. 4.2 Phạm vi nghiêu cứu Với mục đích kiến nghị cách thức vận dụng hữu hiệu các quy định pháp luật vào quản trị BMKD, đề tài không chú trọng vào những ưu – nhược điểm hay bất cập còn tồn tại trong các quy định của pháp luật mà chỉ nghiên cứu theo hướng 10 WIPO, 2015. 11 WIPO, KIPO và KIPA
  15. 6 với quy định hiện hành, DN có thể và nên làm gì để vừa phù hợp với quy định vừa quản trị tối ưu cho BMKD của DN. Đối tượng hướng tới của đề tài là các DN, vì vậy, việc quản trị các thông tin mật tại các cơ quan, tổ chức không phải là DN không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. Nghĩa vụ bảo mật dữ liệu thử nghiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép cho các sản phẩm như dược phẩm, nông hóa phẩm, vì vậy cũng sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. 5. Phương pháp nghiên cứu Với đặc thù của ngành Luật học, các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài này đều là các phương pháp nghiên cứu định tính. - Phương pháp phân tích luật, phương pháp so sánh, phân loại và khái quát được áp dụng chủ yếu để giải quyết câu hỏi nghiên cứu thứ nhất, những thông tin nào nên bảo hộ BMKD và quyền sở hữu BMKD có thể tạo ra những lợi thế gì cho DN? - Phương pháp chọn mẫu, khảo sát thu thập dữ liệu, nghiên cứu tình huống thực tế, phân tích dữ liệu, liệt kê, tổng hợp và khái quát hóa được áp dụng chủ yếu để giải quyết câu hỏi nghiên cứu thứ hai, thực trạng áp dụng pháp luật để bảo hộ BMKD tại các DN ở Việt Nam hiện nay và những vướng mắc cần khắc phục là gì? - Phương pháp phân tích luật, liệt kê và tổng hợp được áp dụng chủ yếu để giải quyết câu hỏi nghiên cứu thứ ba, những quy định pháp luật nào có thể vận dụng và cách thức vận dụng hữu hiệu các quy định pháp luật vào quản trị BMKD? 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Ý nghĩa khoa học của đề tài là đề tài nghiên cứu cả về khía cạnh pháp luật và khía cạnh quản trị BMKD, kết quả đề tài cung cấp một tập thông tin khá đầy đủ về khía cạnh pháp luật liên quan đến BMKD có sự kết hợp với những thông tin cơ bản của khía cạnh quản trị BMKD. Giá trị ứng dụng thực tiễn của đề tài là khá thiết thực, mọi DN đều có thể dựa vào những đề xuất của đề tài trong cách thức quản trị BMKD đề xây dựng ngay cho mình một mô hình quản trị tương đối đầy đủ và hiệu quả.
  16. 7 CHƯƠNG 1 PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VỀ BÍ MẬT KINH DOANH, NHỮNG THÔNG TIN NÊN BẢO HỘ BÍ MẬT KINH DOANH VÀ LỢI THẾ CỦA DOANH NGHIỆP CÓ BÍ MẬT KINH DOANH ĐƯỢC BẢO HỘ 1.1 Pháp luật sở hữu trí tuệ về bí mật kinh doanh 1.1.1 Khái niệm bí mật kinh doanh Quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ12, các tài sản trí tuệ này là “thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh”13 và không có hình thái vật chất. Vì vậy, quyền SHTT là một loại tài sản vô hình, nhưng khi ứng dụng quyền SHTT vào sản phẩm hữu hình nhất định thì nó có thể mang lại hiệu quả, giá trị lớn. Hiện nay, cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam chia quyền SHTT ra thành ba nhánh lớn là (i) quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, (ii) quyền sở hữu công nghiệp và (iii) quyền đối với giống cây trồng. Trong đó, BMKD là một trong những đối tượng thuộc quyền SHCN, là nhánh thứ hai và cũng là nhánh gắn liền với hoạt động kinh doanh của DN nhất trong tất cả các nhánh quyền SHTT. Các quy định pháp luật về SHTT nói chung tại Việt Nam bắt đầu manh nha từ những năm 1960 với Nghị định 20/CP14 ngày 08/2/1965, tiếp theo là Nghị định 31/CP15 ngày 23/1/1981 … Đến Nghị định 63/CP16 ngày 24/10/1996 thì hầu hết các đối tượng SHCN như sáng chế và giải pháp hữu ích (nay gộp chung là sáng chế), kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa (nay đổi là nhãn hiệu), tên gọi xuất xứ hàng hóa (nay được thay thế bằng chỉ dẫn địa lý) đã được ghi nhận bảo hộ. Tuy nhiên, BMKD là một trong những đối tượng quyền SHCN được ghi nhận bảo hộ muộn nhất hiện nay (chỉ trước thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được ghi nhận bảo hộ vào năm 2003), BMKD lần đầu được quy định tại Nghị định 54/2000/NĐ- CP17 ngày 03/10/2000. 12 Khoản 1 Điều 4 Luật SHTT 13 Lê Nết, 2005. Trang 11 14 Nghị định 20/CP 15 Nghị định 31/CP 16 Nghị định 63/CP 17 Nghị định 54/2000/NĐ-CP
  17. 8 Tại Điều 6 Nghị định 54/2000/NĐ-CP quy định “BMKD được bảo hộ là thành quả đầu tư dưới dạng thông tin” và phải đáp ứng đủ ba điều kiện bảo hộ. Với khái niệm này, BMKD được xác định là thành quả đầu tư nói chung, không xác định cụ thể là loại đầu tư nào. Luật SHTT năm 2005 ra đời đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về SHTT ở nước ta khi lần đầu tiên các quy định về SHTT được quy tụ lại trong một văn bản luật thống nhất. Luật SHTT 2005 đã được sửa đổi bổ sung vào năm 2009 (gọi tắt là Luật SHTT) và cho đến nay, đây là văn bản pháp luật chính thống cao nhất có quy định thế nào là BMKD. Tại Khoản 23 Điều 4 về giải thích từ ngữ Luật SHTT quy định: “BMKD là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa bị bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”. Cả hai khái niệm trên đều thống nhất BMKD là một dạng thông tin, tuy nhiên Luật SHTT đã cụ thể hơn về cơ sở phát sinh của BMKD, nó phải là thành quả của hoạt động đầu tư tài chính hoặc đầu tư trí tuệ. Đã là BMKD thì thông tin đó tất nhiên phải có khả năng sử dụng trong kinh doanh, nếu không thì nó chỉ là những bí mật thông thường khác. Một điểm vô cùng quan trọng cần chú ý nữa đó là thông tin của BMKD phải là thông tin chưa bị bộc lộ, bởi nếu một thông tin đã bị bộc lộ thì nó không còn là bí mật nữa, đây là đặc điểm vốn có của mọi thứ có tính “bí mật”. Việc quy định về cơ sở phát sinh ra BMKD từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ như trong Luật SHTT dường như làm bó hẹp phạm vi của khái niệm về BMKD, bởi nếu một thông tin mật vô tình được phát hiện ra mà chẳng có sự đầu tư đặc biệt nào nhưng thông tin đó vẫn đem lại lợi thế cho DN trong hoạt động kinh doanh thì nó có thể không được bảo hộ theo quy định này. Có lẽ vì lý do này, Khoản 4 Điều 6 Nghị Định 103/2006/NĐ-CP18 quy định “Quyền SHCN đối với BMKD được xác lập trên cơ sở đầu tư tài chính, trí tuệ hay bất kỳ cách thức hợp pháp nào để tìm ra, tạo ra hoặc đạt được thông tin...”, theo đó cơ sở phát sinh ra BMKD không còn bị bó hẹp trong các hoạt động đầu tư tài chính và trí tuệ nữa mà chỉ cần có “cách thức hợp pháp” là được. Với mục đích là “quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật SHTT”, từ quy định của Nghị định 103/2006/NĐ-CP nêu trên, có thể kết luận theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, BMKD có ba đặc điểm, cụ thể: (i) là một dạng thông tin, (ii) chưa bị bộc lộ, và (iii) có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Những đặc điểm này là khá tương đồng với cách hiểu chung trên thế giới về BMKD. 18 Nghị định 103/2006/NĐ-CP
  18. 9 Trên thế giới cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về BMKD (trade secrets) như: WIPO cho rằng19 “Nói chung, bất kỳ một thông tin kinh doanh bí mật nào cung cấp cho DN một lợi thế cạnh tranh thì đều có thể được coi là một BMKD”20. Theo cơ quan SHTT Singapore thì21: “Một BMKD là thông tin quan trọng của các DN hoặc công ty và không được công chúng biết đến. Nó là một thuật ngữ thường được sử dụng để chỉ các thông tin có giá trị thương mại”22. Theo cơ quan SHTT Canada thì23 “BMKD bao gồm bất kỳ thông tin kinh doanh có giá trị mà giá trị của nó xuất phát từ sự bí mật”24… Dù diễn đạt theo cách nào, tựu chung lại BMKD cũng là một dạng thông tin, thông tin đó có giá trị trong kinh doanh và nó phải là một thông tin mật, không có quy định nào về cơ sở phát sinh ra BMKD trong các quy định này. 1.1.2Điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh Không phải mọi loại thông tin mật đều có thể trở thành BMKD, Luật SHTT đưa ra những tiêu chí cụ thể để xác định thế nào là một thông tin mật đáp ứng điều kiện bảo hộ của một BMKD, nội dung này được quy định tại Điều 84 Luật SHTT, theo đó, BMKD được bảo hộ nếu đáp ứng đủ ba điều kiện như sau: - Thứ nhất, không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được: Thông tin của BMKD không phải là hiểu biết thông thường tức là thông tin đó chưa được phổ biến đến mức trở thành những kiến thức thông thường mà mọi người đều có thể biết, ví dụ: thông tin trong các tài liệu giảng dạy và học tập, thông tin trên báo chí hàng ngày… được xem là “hiểu biết thông thường” và không phải là đối tượng của BMKD. Thông tin đó không dễ dàng có được vì nó không được bộc lộ công khai đến mức mọi người đều có thể truy cập một cách dễ dàng, ví dụ thông tin trong các bài báo khoa học đã được đăng trên các tạp chí chuyên ngành, thông tin được chia sẻ công khai trên các website hoạt động chuyên môn… là những thông tin mang tính chuyên sâu chứ không còn là những hiểu biết thông thường nữa nhưng nó lại “dễ dàng có được” nên không thể trở thành BMKD. Tuy nhiên, trên cơ sở những thông tin dưới dạng là những hiểu biết thông thường hay dễ dàng có được này, người ta có thể tổng hợp, chọn lọc, nghiên cứu 19 WIPO a, 20 Broadly speaking, any confidential business information which provides an enterprise a competitive edge may be considered a trade secret 21 Intellectual Property Office of Singgapore. What is a trade secret, and how is it related to confidential information? 22 A trade secret is information that is important to the business or company and is not known to the public. It is a term often used to cover information that has commercial value 23 Canadian Intellectual Property Office. 24 Trade secrets include any valuable business information that derives its value from the secrecy
  19. 10 phát triển, tìm ra quy luật…để tạo ra những tập thông tin mới hữu ích cho hoạt động kinh doanh và hoàn toàn đáp ứng điều kiện để trở thành BMKD. Ví dụ, doanh nhân A tìm trong danh bạ DN được công bố công khai trên cổng thông tin DN quốc gia, dựa trên tiêu chí về ngành nghề kinh doanh, địa bàn trú đóng, quy mô DN… để lọc ra danh sách những DN có thể trở thành khách hàng tiềm năng của công ty ông; hoặc nhà nghiên cứu B dựa trên những tin tức về tình hình chính trị thế giới được đăng tải công khai trên báo chí để đánh giá xu hướng thay đổi của tỷ giá ngoại hối trong tương lai. Khi đó, danh sách khách hàng tiềm năng của doanh nhân A hay xu hướng thay đổi tỷ giá ngoại hối của nhà nghiên cứu B đều là những tập thông tin mới không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được (nếu chúng không bị chính doanh nhân A hay nhà nghiên cứu B bộc lộ công khai). Như vậy, ngoài việc phải đầu tư sáng tạo (như nhà nghiên cứu B) thì việc kết hợp cách đơn thuần những thông tin đã là hiểu biết thông thường và/ hoặc dễ dàng có được (như doanh nhân A) cũng vẫn có thể tạo ra một tập thông tin không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được. Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, thông tin “không phải là hiểu biết thông thường” của BMKD là thông tin có được nhờ sự đầu tư về suy nghĩ/ thời gian/ nỗ lực/ kinh nghiệm và không nhiều người biết đến25. - Thứ hai, khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ BMKD lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng BMKD đó. Như vậy, thông tin trong BMKD phải là thông tin hữu ích cho hoạt động kinh doanh, muốn vậy trước tiên nó phải có khả năng sử dụng trong hoạt động kinh doanh và khi sử dụng sẽ tạo ra giá trị nhất định. Chính giá trị được tạo ra từ BMKD sẽ là “lợi thế” của người nắm giữ và sử dụng thông tin từ BMKD. Những “lợi thế” của người nắm giữ BMKD sẽ được phân tích cụ thể hơn ở phần sau của đề tài (phần 1.2). Như vậy, nếu một người nắm giữ tập thông tin và dù rằng chắc chắn thông tin đó có giá trị nhưng anh ta không sử dụng nó thì tập thông tin đó cũng không được bảo hộ như một BMKD. Cụ thể như hai ví dụ ở trên, nếu doanh nhân A không bao giờ sử dụng tới danh sách khách hàng tiềm năng mà mình đã tạo lập hay nhà nghiên cứu B không sử dụng thông tin về xu hướng thay đổi tỷ giá ngoại hối đó cho đến khi xu hướng đó chấm dứt và cả hai cùng không chuyển giao các thông tin đó cho ai khác thì những tập thông tin đó không phải là một BMKD vì nó không được 25 Đào Minh Đức, 2005. slide 3.
  20. 11 sử dụng trong hoạt động kinh doanh nên cũng không đem lại bất kỳ lợi thế nào cho người nắm giữ. - Thứ ba, được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để BMKD đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được. Những thông tin không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được, khi sử dụng trong kinh doanh tạo lợi thế cho người nắm giữ chỉ trở thành BMKD nếu nó được giữ bí mật. Việc giữ bí mật đó được thực hiện thông qua các biện pháp bảo mật nhằm ngăn chặn hành vi “bộc lộ” và “tiếp cận”. Trên thực tế, một BMKD chỉ thực sự tạo nên lợi thế cho người nắm giữ và sử dụng nó nếu thông tin của BMKD đó có khả năng “nắm giữ” được, nghĩa là người nắm giữ phải có khả năng kiểm soát được thông tin. Vì đặc tính của thông tin là vô hình nên trong trường hợp này, để kiểm soát, nắm giữ nó thì cần phải bảo mật, và các biện pháp bảo mật phải đủ ở mức “cần thiết” mới đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ của một BMKD. Quay trở lại với hai ví dụ trên: Nếu nhà nghiên cứu B chỉ là người nghiên cứu đơn thuần và không có ý định tham gia kinh doanh, ông chủ động công bố xu hướng thay đổi tỷ giá ngoại hối mà mình vừa nghiên cứu để giới kinh doanh tham khảo và quyết định việc sử dụng thông tin đó, đương nhiên tập thông tin này không thể là BMKD; việc chủ động công bố thông tin thể hiện ý chí của người nắm giữ thông tin là họ không mong muốn biến thông tin đó thành một BMKD. Với trường hợp của doanh nhân A, ông không có ý định công bố danh sách khách hàng tiềm năng của mình vì dự định sẽ khai thác danh sách này để mở rộng thị phần cho sản phẩm của công ty, tuy nhiên A không coi trọng việc bảo mật, ông để quên một bản sao danh sách đó tại hội trường của một hội thảo có rất nhiều DN cùng ngành nghề kinh doanh tham gia, một số người tham gia hội thảo đã đọc được và sử dụng thông tin trong danh sách khách hàng tiềm năng của A; lúc này A không thể đòi hỏi quyền sở hữu BMKD đối với tập thông tin nói trên vì anh đã không có biện pháp bảo mật cần thiết theo quy định của pháp luật nên tập thông tin của anh không đáp ứng tiêu chuẩn để bảo hộ là một BMKD. - Ngoài việc đáp ứng đủ ba điều kiện bảo hộ nêu trên, BMKD phải không thuộc các đối tượng loại trừ không được bảo hộ với danh nghĩa BMKD26 theo luật định, cụ thể, không phải là: (i) bí mật về nhân thân, (ii) bí mật về quản lý nhà nước, (iii) bí mật về quốc phòng, an ninh và (iv) thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh. Trên thực tế, các loại thông tin mật trên hoàn toàn có thể 26 Điều 85 Luật SHTT
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2