intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thẩm quyền của kiểm sát viên trong phiên Tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh, doanh thương mại từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

28
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM; phân tích những quy định của pháp luật hiện hành và của Ngành Kiểm sát nhân dân về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thẩm quyền của kiểm sát viên trong phiên Tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh, doanh thương mại từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh

  1. NGUYỄN VIẾT DƯƠNG VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VIẾT DƯƠNG CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG PHIÊN TÒA SƠ THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH, DOANH THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC KHÓA Hà Nội, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VIẾT DƯƠNG THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG PHIÊN TÒA SƠ THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH, DOANH THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành:. Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN Hà Nội, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Người hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Vũ Thị Hồng Vân. Các nội dung và kết quả nghiên cứu trong đề tài là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào trước đây. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có sử dụng các nguồn tài liệu khác nhau, tất cả đều được chỉ dẫn nguồn cụ thể và được liệt kê trong Danh mục tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường, Hội đồng chấm Luận văn, cũng như kết quả Luận văn của mình. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 5 năm 2020 Tác giả Nguyễn Viết Dương
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI.................................................................................................................................... 7 1.1. Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại.......................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại ............................................................................................. 7 1.1.2. Vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại............................................................................................................. 18 1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại.................................................... 22 1.2. Quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại............................................................................... 27 1.2.1. Các trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại ................................................................................................... 27 1.2.2. Thẩm quyền của Kiểm sát viên trong việc tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại ....................................................................... 29 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................ 43 2.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình về Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................................................................ 43 2.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội và địa lý của Thành phố Hồ Chí Minh ........................ 43 2.1.2. Đặc điểm vể bộ máy, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................................................................ 45 2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại ....................................................................................................................... 47
  5. 2.2.1. Số liệu ............................................................................................................. 47 2.2.2. Đánh giá ................................................................................................................. 49 2.3. Một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân ............................................. 56 2.3.1. Khó khăn, vướng mắc..................................................................................... 56 2.3.2. Nguyên nhân................................................................................................... 60 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC THI THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ................................. 68 3.1. Một số giải pháp .............................................................................................. 68 3.1.1. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành ....................................................... 68 3.1.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác kiểm sát án kinh doanh, thương mại ............................................................................................................................ 69 3.1.3. Phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm của đội ngũ Kiểm sát viên ................................................................... 71 3.1.4. Tăng cường quan hệ phối hợp ........................................................................ 72 3.1.5. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và chế độ, chính sách cho đội ngũ Kiểm sát viên ........................................................................................................................... 72 3.2. Một số kiến nghị ............................................................................................. 73 3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật dân sự, tố tụng dân sự .................................. 73 3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện các quy định trong ngành Kiểm sát nhân dân và quy định liên ngành giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân .................. 76 KẾT LUẬN......................................................................................................................... 78
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Giải nghĩa BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 HĐXX Hội đồng xét xử KDTM Kinh doanh, thương mại KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thành phố Hồ Chí Minh được biết đến là một trong những thành phố phát triển nhất trong cả nước. Trong những năm qua, cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế thị trường, các quan hệ KDTM tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trở nên sôi động và đa dạng hơn. Tuy nhiên, các tranh chấp KDTM, vì vậy, cũng diễn ra ngày càng phổ biến và phức tạp hơn. Khi các bên không đạt được sự đồng thuận trong việc giải quyết tranh chấp, một trong các bên có quyền sử dụng các thiết chế khác nhau để giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa giải hay yêu cầu các cơ quan tài phán như Trọng tài thương mại và Tòa án. BLTTDS đã mở rộng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cũng như KSV khi tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp dân sự nói chung, phiên tòa giải quyết tranh chấp KDTM nói riêng. Theo đó, VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và trường hợp Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Đáng chú ý, Điều 262 BLTTDS kế thừa quy định: tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký Tòa án và người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời, bổ sung nội dung KSV phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Quy định mới của BLTTDS một mặt khẳng định vai trò quan trọng của VKSND và KSV trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự nói chung, kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM nói riêng. Mặt khác, quy định này cũng tạo ra những áp lực nhất định đối với các cơ quan VKSND và KSV được phân công công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM. Thực tiễn công tác kiểm sát xét xử các vụ án KDTM theo thủ tục sơ thẩm tại VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm VKSND Thành
  8. 2 phố và VKSND 24 quận huyện) trong những năm vừa qua đã đạt được những kết quả khả quan. Thể hiện ở chỗ VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố đã phát hiện ra những vi phạm của TAND hai cấp về tố tụng, qua đó kịp thời thực hiện quyền kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm; Tại các phiên tòa, hầu hết quan điểm của VKS về việc giải quyết nội dung vụ án phù hợp, có căn cứ được Tòa án chấp nhận… Chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM theo thủ tục sơ thẩm của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh được nâng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như sự hoàn thiện của pháp luật về KDTM và pháp luật tố tụng dân sự, công tác chỉ đạo, điều hành, bố trí cán bộ của các đơn vị VKSND và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của các KSV được phân công làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM. Trong đó, đặc biệt quan trọng là yếu tố chất lượng nguồn nhân lực mà sự thể hiện rõ ràng nhất là vai trò của KSV tại các phiên tòa giải quyết vụ án KDTM. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, nếu nhìn nhận khách quan thì công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án KDTM vẫn ít nhiều tồn tại những hạn chế nhất định. Trên thực tế, một số vi phạm của Tòa án về mặt tố tụng chưa được KSV phát hiện để phát biểu ý kiến tại phiên tòa; tại phiên tòa phát sinh một số tình huống đòi hỏi KSV phải có ý kiến như đương sự vắng mặt, đương sự xin hoãn, tạm ngừng phiên tòa, đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc có lời khai khác so với lời khai có trong hồ sơ vụ án nhưng vai trò của KSV còn chưa được thể hiện rõ; một số quan điểm về việc giải quyết nội dung vụ án của KSV chưa phù hợp nên không được Tòa án chấp nhận. Trong bối cảnh, số lượng các vụ án tranh chấp về KDTM trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng gia tăng, áp lực công việc của các KSV được phân công tham gia phiên tòa giải quyết tranh chấp KDTM ngày càng nhiều, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM, nhận diện thực trạng chất lượng tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM của KSV, từ đó, đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM của Kiểm sát viên VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố là yêu cầu mang tính tất yếu và khách quan.
  9. 3 Chính vì các lí do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Thẩm quyền của Kiểm sát viên trong phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh, doanh thương mại từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn cuối khóa. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã tham khảo nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, luận văn thạc sĩ, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án… có liên quan đến nội dung đề tài. Có thể phân loại tài liệu thành hai nhóm sau: - Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự, trong hoạt động kiểm sát các vụ án dân sự, KDTM theo thủ tục sơ thẩm như: “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga – Hà Nội năm 2008; “Quy định về tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân và hướng sửa đổi, bổ sung theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Thị Quỳnh Chi – Thông tin Khoa học kiểm sát, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” của tác giả Phùng Thanh Hà năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật học“Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại” của Nguyễn Thị Hiên năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật học “Kiểm sát giải quyết các tranh chấp kinh doanh - thương mại trên địa bàn tỉnh Lai Châu” của tác giả Nguyễn Viết Tuấn năm 2018;… - Nhóm thứ hai, các bài viết liên quan đến vai trò của KSV tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các vụ án dân sự, KDTM như Luận văn thạc sĩ luật học “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong phiên tòa dân sự sơ thẩm” của Nguyễn Vĩnh Tá năm 2012; các bài viết, chuyên đề khoa học của VKSND các địa phương có liên quan đến nội dung “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” như VKSND thành phố Hà Nội, Quảng Ngãi, Sóc Trăng… các thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM của VKSND tối cao, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh…
  10. 4 Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên, tác giả nhận thấy có nhiều quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển được khi nghiên cứu và hoàn thành đề tài. Tuy vậy, các công trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự hay kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp KDTM mà chưa đưa nhận thức toàn diện về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp KDTM, đặc biệt là tại một địa phương có nhiều án KDTM như Thành phố Hồ Chí Minh. 3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lí luận chung, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự nói chung, vụ án KDTM nói riêng; khảo sát, đánh giá những ưu, nhược điểm cũng như những hạn chế, vướng mắc trong các quy định về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án KDTM; Luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền của KSV của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án KDTM. 3.2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn có nhiệm vụ: + Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM; phân tích những quy định của pháp luật hiện hành và của Ngành Kiểm sát nhân dân về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM. + Khảo sát, đánh giá thực trạng thực thi các quy định hiện hành về thẩm quyền của KSV của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tại các phiên tòa sơ thẩm xét xử các vụ án KDTM của trong thời gian từ ngày 01/01/2017 đến ngày 31/12/2019, qua đó chỉ ra những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
  11. 5 + Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng thực thi thẩm quyền của KSV tại các phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp KDTM trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung, các quy định pháp luật, quy định của Ngành Kiểm sát nhân dân, thực trạng thi hành các quy định về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự nói chung và các vụ án KDTM nói riêng. 4.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM. - Về không gian: Luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực tiễn thực thi quy định hiện hành về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM tại VKSND Thành phố Hồ Chí Minh và VKSND 24 quận huyện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Về thời gian: Luận văn giới hạn thời gian khảo sát thực tiễn thi hành trong thời gian từ 01/01/2017 đến ngày 31/12/2019. 5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Về phương pháp luận: Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta. - Về phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng kết hợp chủ yếu các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích, tiếp cận lịch sử, phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp phân tích luật, tổng hợp, thống kê. + Phương pháp phân tích, tiếp cận lịch sử và nghiên cứu lý luận: làm rõ khái niệm và những vấn đề lý luận về kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM và thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm sơ thẩm vụ án KDTM.
  12. 6 + Phương pháp phân tích luật và thống kê thực tiễn: để luận giải cho những nhận định, đánh giá thực trạng thi hành các quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án KDTM. + Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để rút ra những kết luận và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực thi quy định về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử các tranh chấp KDTM. 6. KẾT CẤU LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại Chương 2: Thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng thực thi thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại
  13. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI 1.1. Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại 1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại - Thẩm quyền Mỗi một cơ quan nhà nước có một vai trò, vị trí riêng trong bộ máy nhà nước. Cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước là người thực thi công vụ được nhà nước trao quyền. Công vụ là một loại hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, nói đến công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Trách nhiệm công vụ là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Gắn với trách nhiệm công vụ, cán bộ công chức có những thẩm quyền nhất định để thực thi công vụ của mình. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền như: thẩm quyền bao gồm nhiệm vụ và quyền hạn hay thẩm quyền là phương tiện để các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình; hoặc cho rằng thẩm quyền bao gồm tổng thể những quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực do pháp luật quy định [6, tr22-26]. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Thẩm quyền” là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một cơ quan nhà nước một công chức được xem xét giải quyết những công việc cụ thể trong lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng của bộ máy nhà nước [20, tr.523]. Thẩm quyền gắn liền với quyền hạn và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Thẩm quyền của mỗi cơ quan nhà nước và cá nhân được phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp
  14. 8 hành chính. Trong mỗi ngành, thẩm quyền được phân định theo chức năng, nhiệm vụ của ngành đó. Thẩm quyền không chỉ thể hiện được sự khác biệt giữa các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức với nhau mà còn là thuộc tính tất yếu của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước. Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được xem là một khái niệm quan trọng. “Thẩm quyền” được hiểu là “quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề” [30, tr.701]. Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm những chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, thuật ngữ “thẩm quyền” thường được sử dụng trong các cụm từ như: “thẩm quyền xét xử”, “cơ quan có thẩm quyền”, “người có thẩm quyền”, “cấp có thẩm quyền”, “thẩm quyền của Toà án nhân dân”, “thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân”, thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”... Như vậy, có thể thấy rằng, “thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước được pháp luật quy định”. - Kiểm sát viên Tại nước ta, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại nói riêng luôn được xác định là chức năng hiến định của VKSND. VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [13, Điều 107; 14, Điều 2]. Không đề cập đến chức năng thực hành quyền công tố vốn chỉ có trong các vụ án hình sự, kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án
  15. 9 hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, KDTM, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật [14, khoản 1 Điều 4]. VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật; Tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự, phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp Tòa án giải quyết vụ việc khi chưa có điều luật để áp dụng; Tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm [16, Điều 21]. VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình thông qua các KSV. KSV là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp [14, Điều 74]. Nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung, kiểm sát tại phiên tòa giải quyết các vụ án KDTM nói riêng được cụ thể hóa trong các quy định của BLTTDS, Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC- TANDTC ngày 31 tháng 8 năm 2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của ngành kiểm sát nhân dân như Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, Quy định về hướng dẫn hoạt động của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm của VKSND tối cao. Theo các quy định nêu trên, tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM, KSV thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, tham gia hỏi để làm rõ nội dung vụ án, thực hiện các quyền yêu cầu, đề nghị, kiến nghị, đồng thời, đại diện VKS phát biểu quan điểm đối với việc giải
  16. 10 quyết nội dung vụ án. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng và sự chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự nói chung, vụ án KDTM nói riêng là quyền năng pháp lý riêng có mà pháp luật quy định cho KSV. Đây đồng thời cũng là nghĩa vụ pháp lý của KSV. Chỉ có KSV mới có quyền tiến hành các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM một cách trực tiếp. Cũng do địa vị pháp lý đặc biệt này, chỉ có KSV mới có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết như thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị để tác động trực tiếp vào các chủ thể tham gia phiên tòa. - Vụ án kinh doanh thương mại Trong khoa học pháp lý, “vụ án” được hiểu là một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật mang tính chất hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được đưa ra Tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết. Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, KDTM, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật [30, tr.860]. Hiểu theo nghĩa này, vụ án KDTM là các tranh chấp về KDTM được Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật. Tranh chấp KDTM là một dạng của tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng bao gồm dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, KDTM), do vậy, để có căn cứ kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM chính xác, khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, cần nhận diện và phân biệt vụ án KDTM với các vụ án dân sự thông thường. Sự khác nhau giữa vụ án KDTM và vụ án dân sự (hiểu theo nghĩa hẹp) thể hiện ở một số điểm sau: Một là, sự khác nhau của vụ án KDTM và vụ án dân sự là sự khác nhau về nội dung tranh chấp. Vụ án KDTM hay vụ án dân sự đều bắt nguồn từ các mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ pháp luật này. Các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân; Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản; Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự; Tranh chấp về thừa kế tài sản; Tranh chấp về bồi thường thiệt hại
  17. 11 ngoài hợp đồng; Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng; Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật về báo chí; Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự... [16, Điều 26]. Trong khi đó, những tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; Các tranh chấp khác về KDTM, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật [16, Điều 30]. Nội dung của những tranh chấp KDTM liên quan đến những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ hoạt động KDTM. Nói cách khác, đó là các tranh chấp, bất đồng phát sinh từ các quan hệ mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác hay các tranh chấp phát sinh từ hoạt động quản lý nội bộ của các doanh nghiệp như tranh chấp giữa thành viên của công ty với công ty, tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty… Ngoài các tranh chấp kể trên, các tranh chấp khác đương nhiên không được xác định là tranh chấp KDTM.
  18. 12 Hai là sự khác nhau về mặt chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án KDTM và vụ án dân sự. Vì chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật KDTM là không giống nhau, do đó, chủ thể tham gia tố tụng (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan) trong vụ án giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ dân sự hay KDTM cũng không giống nhau. Tranh chấp dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự thông thường thì chủ thể tham gia tranh chấp có thể là các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và các chủ thể khác có địa vị pháp lý ngang bằng, bình đẳng với nhau. Tranh chấp giữa các chủ thể này có thể liên quan đến các giá trị nhân thân (quan hệ nhân thân) hoặc các giá trị vật chất (quan hệ tài sản) nhất định. Bên cạnh các tranh chấp về quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản, các tranh chấp khác giữa các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là tranh chấp liên quan đến tài sản, trong đó, các chủ thể tham gia vào quan hệ tài sản chủ yếu vì mục đích sinh hoạt hay tiêu dùng. Trong một số trường hợp, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự vì mục đích lợi nhuận, nhưng họ không đăng kí kinh doanh thì tranh chấp phát sinh giữa họ cũng không phải là tranh chấp KDTM. Ví dụ, chị A trong một lần đi du lịch ở nước ngoài đã mua một số hàng mỹ phẩm về Việt Nam để bán lấy tiền lời. Việc mua bán mỹ phẩm của chị A là vì mục đích lợi nhuận nhưng tranh chấp (nếu có) phát sinh từ việc chị A bán mỹ phẩm cho người khác sẽ không được coi là tranh chấp KDTM bởi chị A không phải là thương nhân, không tiến hành hoạt động mua bán hàng hóa vì mục đích sinh lợi một cách thường xuyên, liên tục, mang tính nghề nghiệp. Trong khi đó, tranh chấp KDTM phát sinh từ quan hệ KDTM giữa các thương nhân trong hoạt động KDTM vì mục đích lợi nhuận. Sẽ được coi là quan hệ pháp luật KDTM nếu chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này đều là các thương nhân hay ít nhất một trong các bên là thương nhân. Tức là, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật KDTM phải có ít nhất một bên là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh [12, khoản 1 Điều 6]. Khi quan hệ pháp luật KDTM giữa các bên phát sinh tranh chấp và một trong các bên có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì
  19. 13 các chủ thể tham gia vụ án KDTM đương nhiên phải là chủ thể đã tham gia vào quan hệ pháp luật KDTM trước đó. Như vậy, chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án KDTM phải là các thương nhân hoặc phải có ít nhất một bên tham gia tố tụng là thương nhân, trước đó, xác lập quan hệ pháp luật KDTM vì mục đích lợi nhuận. Ba là sự khác nhau về thẩm quyền giải quyết vụ án KDTM và vụ án dân sự. Sự khác biệt này khó có thể được nhận diện nếu như các vụ án dân sự và vụ án KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện, bởi lẽ, hầu hết tại các TAND cấp huyện không có Tòa chuyên trách hay Thẩm phán chuyên trách giải quyết vụ án dân sự hay vụ án KDTM, mà thông thường một Thẩm phán đảm nhiệm việc giải quyết cả án dân sự và án KDTM. Tại các cơ quan TAND cấp huyện nếu có các phân Tòa chuyên trách thì thẩm quyến giải quyết các tranh chấp KDTM và tranh chấp dân sự đều thuộc về Tòa dân sự TAND cấp huyện [16, khoản 1 Điều 36]. Tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự và vụ án KDTM của TAND cấp tỉnh có sự khác biệt khá rõ ràng. Theo quy định tại Điều 38 BLTTDS, việc giải quyết các vụ án dân sự hay vụ án KDTM thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh sẽ do hai Tòa chuyên trách hoàn toàn khác nhau thực hiện. Tòa dân sự TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ án dân sự mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS. Tòa kinh tế TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ án KDTM mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS. Bốn là sự khác nhau về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và vụ án KDTM. Theo quy định của BLTTDS, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định của BLDS. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được
  20. 14 hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ [16, Điều 184]. Như vậy, trong trường hợp các bên không có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện, khi giải quyết vụ án, không đặt ra yêu cầu xác định còn hay hết thời hiệu khởi kiện. Trường hợp một trong các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện, việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và vụ án KDTM cũng có sự khác biệt. BLDS có các quy định chung về thời hiệu [15, Điều 150 đến Điều 157], quy định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng [15, Điều 429], quy định thời hiệu khởi kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng [15, Điều 588], quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế [15, Điều 623]. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện đối với các vụ án KDTM không chỉ dựa trên các quy định của BLDS mà còn phải dựa vào các quy định pháp luật chuyên ngành. Ví như: - Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm [12, Điều 319]. Thời hiệu để khách hàng khởi kiện thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic là 09 tháng kể từ ngày giao hàng [12, điểm e khoản 1 Điều 237]. - Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp [10, Điều 30]. - Thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung trong hàng hải là 02 năm kể từ ngày xảy ra tổn thất chung [17, Điều 297]. Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp [17, Điều 366]. Năm là sự khác nhau về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và vụ án KDTM. Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án dân sự và vụ án KDTM theo thủ tục sơ thẩm là không giống nhau (trừ trường hợp các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài). Cụ thể như sau: - Đối với các vụ án dân sự thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng [16, đểm a khoản 1 Điều 203].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2