intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

41
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung về những vấn đề lý luận về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ; Thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LƯƠNG THÁI ANH ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LƯƠNG THÁI ANH ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS NGUYỄN ĐỨC MINH Hà Nội, năm 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp hỗ trợ được hiểu khác nhau giữa các nước, tùy thuộc vào mức độ ưu tiên trong chiến lược phát triển của từng quốc gia. Đối với Việt Nam, có thể hiểu CNHT là ngành CN sản xuất linh kiện, phụ tùng, sản phẩm trung gian… đóng vai trò là đầu vào và lắp ráp chúng để trở thành sản phẩm cuối cùng. Lĩnh vực CNHT có những đặc trưng riêng và có vai trò quan trọng trong quá trình CNH- HĐH đất nước [14]. Theo báo cáo do Chính phủ gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội về thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số Nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII lĩnh vực công thương chỉ ra: CNHT là ngành CN nền tảng, đóng vai trò rất quan trọng quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất và kỹ năng lao động, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cho sản phẩm và chất lượng nền kinh tế Việt Nam. Để phát triển CNHT, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản tạo hành lang pháp lý thuận lợi như Nghị định số 111/2015/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển CNHT, Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển CNHT từ năm 2016 đến năm 2025… và cách đây không lâu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 115/NQ-CP ngày 06/8/2020 về các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT với nhiều chính sách mới. Nhiều DN kỳ vọng đây là cú hích lớn để phát triển lĩnh vực CNHT và CN chế biến, chế tạo Việt Nam. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, sự phát triển hiện nay của ngành CNHT Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng. Cụ thể, sản phẩm CNHT sản xuất trong nước chưa phong phú về chủng loại, kiểu dáng và mẫu mã, chất lượng sản phẩm còn thấp, giá thành cao. Mặt khác, quy mô và năng lực cạnh tranh của các DN CNHT còn yếu, chưa đủ lực để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, sản xuất toàn cầu; trình độ công nghệ còn khoảng cách so với các nước cùng khu vực. Ðiều này khiến tỷ lệ nội địa hóa các ngành CN còn ở mức thấp; nhiều ngành CN có thế mạnh như điện tử, dệt may, da giày, ô-tô, xe máy… vẫn phụ thuộc nhiều 1
  4. vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, khiến sản xuất bị động, chi phí cao [36]. Theo đánh giá của ông Trương Thanh Hoài, Cục trưởng Cục CN (Bộ Công thương), tình trạng nhập siêu các yếu tố đầu vào cho sản xuất từ Trung Quốc và các quốc gia khác là tình trạng kéo dài từ rất nhiều năm trở lại đây, khiến giá trị gia tăng của các ngành CN nội địa rất thấp, dễ bị tổn thương trước những biến động về chính trị - kinh tế - xã hội trong và ngoài nước [37]. Đặc biệt, năm 2020 với tác động nặng nề từ đại dịch toàn cầu Covid-19, những hạn chế trên được bộc lộ rõ nét hơn bao giờ hết. Khi mà nội lực của các ngành sản xuất hạn chế, còn phụ thuộc nhiều vào các chuỗi cung ứng nước ngoài; không tự chủ được về các yếu tố đầu vào của sản xuất, phụ thuộc phần lớn vào linh phụ kiện, nguyên vật liệu nhập khẩu đã dẫn đến tình trạng tê liệt sản xuất, khiến hàng loạt DN lao đao và có nguy cơ phá sản. Để khắc phục tình trạng trên, thiết nghĩ chúng ta cần phải nhìn nhận lại toàn diện các chính sách đã và đang áp dụng đối với ngành CNHT, từ đó tìm ra hướng đi đúng đắn trong giai đoạn sắp tới. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy trong một số trường hợp và trong một giai đoạn phát triển kinh tế, chính sách ưu đãi thuế có thể góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua khuyến khích đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh của một số ngành CN ưu tiên [15, tr.6]. Điển hình là các quy định liên quan đến ưu đãi thuế TNDN bởi lẽ thuế TNDN là một nhân tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển của CNHT và trong thực tế triển khai, các chính sách pháp luật liên quan đến ưu đãi thuế TNDN đối với các DN sản xuất sản phẩm CNHT còn xuất hiện nhiều hạn chế như quy định về ưu đãi chuyển tiếp, khó khăn trong việc xác định đối tượng hưởng ưu đãi, công tác quản lý thuế… Từ những phân tích trên, tác giả nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng của CNHT đối với mục tiêu CNH-HĐH đất nước mà Đảng và Nhà nước ta nhắm đến và ưu đãi thuế TNDN là một trong những bước đà có ý nghĩa to lớn nhằm thúc đẩy việc phát triển mạnh mẽ ngành CNHT. Mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay, tác giả chọn đề tài “Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu. 2
  5. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ ❖ Định nghĩa về công nghiệp hỗ trợ Ratana Eiamkanitchat (1999), The role of small and medium supporting industries in Japan and Thailand [24]. Theo đó, CNHT là các DN sản xuất linh kiện, phụ tùng được sử dụng trong các công đoạn lắp ráp cuối cùng của các ngành CN, cụ thể là CN ô tô, máy móc, điện tử. Ryuichiro Inoue (1998), Future prospects of Supporting Industries in Thailand and Malaysia [28] thì xác định theo nghĩa rộng, CNHT sản xuất nhiều bộ phận, phụ kiện và cả các nguyên vật liệu cơ bản. Theo nghĩa hẹp, có thể coi CNHT là quá trình biến đổi của vật liệu, bao gồm khuôn và dập, đúc, rèn, mạ, hàn, gia công, xử lý nhiệt và chế biến nhựa, theo tác giả, đây là nhóm quan trọng, cần phải chú ý hơn trong quá trình nghiên cứu. Nguyen Thi Xuan Thuy (2006), “Supporting Industries: A Review of Concepts and Development” [35] đã nêu ra định nghĩa về CNHT ở Việt Nam là một nhóm các hoạt động CN cung cấp đầu vào trung gian (gồm linh kiện, phụ tùng và công cụ để sản xuất ra các linh kiện phụ tùng này) cho ngành CN lắp ráp và chế biến. Trương Thị Chí Bình (2010), “Phát triển CNHT trong ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam” [2] cho rằng CNHT là toàn bộ việc tạo ra những linh phụ kiện tham gia vào việc hình thành các sản phẩm hoàn thiện cho người tiêu dùng. Sản phẩm CNHT chủ yếu bao gồm một số lĩnh vực như kim loại, nhựa và cao su, điện và điện tử. Ngoài ra, một số tác giả nêu ra rằng CNHT là ngành CN sản xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành CN sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. Khái niệm này được sử dụng trong nghiên cứu của Hà Thị Hương Lan (2014) “CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam” [13], Nguyễn Thị Thu Huyền và Lê Xuân Sang (2011) “Chính sách thúc đẩy phát triển CNHT: Lý luận, thực tiễn và định hướng cho Việt Nam” [11], Nguyễn Thị Dung Huệ (2012) “Phát triển CNHT 3
  6. ngành dệt may của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” [9], Trương Nam Trung (2017) “CNHT ngành sản xuất ô tô ở Việt Nam” [18], Trần Đức Hiệp và Nhâm Phong Tuân (2014) [6], “Ảnh hưởng của các chính sách tới sự phát triển của ngành CNHT ô tô Việt Nam”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, tập 30, số 4, tr 12-20. Tác giả Vũ Thị Thanh Huyền (2018), “Phát triển CNHT và tăng trưởng kinh tế Việt Nam: trường hợp ngành điện tử” [10] lại tiếp cận theo hướng tương đối hẹp. Cụ thể, CNHT là các ngành CN sản xuất các nguyên vật liệu cơ bản, các linh kiện, phụ tùng, bán thành phẩm để cung cấp cho các ngành CN lắp ráp như ngành ô tô, xe máy, điện, điện tử…Trong đó, sản phẩm CNHT các ngành lắp ráp bao gồm các nguyên vật liệu cơ bản như nhựa, cao su, kim loại; các linh kiện phụ tùng bao gồm: linh kiện nhựa – cao su, linh kiện kim loại, linh kiện điện (như pin, ắc quy, dây dẫn), linh kiện điện tử… ❖ Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ Tác giả Vũ Thị Thanh Huyền (2018) [10] đồng ý với quan điểm của tác giả Hoàng Văn Châu khi cho rằng CNHT có các đặc điểm sau: tính đa cấp, tính hệ thống liên kết theo quy trình sản xuất, theo khu vực và phụ thuộc vào ngành CN chính, đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ, thu hút số lượng lớn DN, nhất là các DNNVV. Ủng hộ quan điểm này còn có nghiên cứu của Hà Thị Hương Lan (2014) [13], Nguyễn Thị Dung Huệ (2012) [9]. ❖ Vai trò của công nghiệp hỗ trợ Do Manh Hong (2008), Promotion of supporting Industries – the key for attrating FDI in developing countries [25]. Theo tác giả, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, các nước đang phát triển cần tạo mọi điều kiện để thu hút FDI, song để làm được điều đó, chỉ có một con đường duy nhất là thúc đẩy và xây dựng một nền CNHT đủ mạnh để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. E. Ratana (1999) [24] đã đề cập đến vai trò của CNHT đối với sự phát triển các ngành sản xuất ở Nhật Bản, các chính sách tiêu biểu của Nhật Bản đối với phát triển CNHT; thực trạng CNHT của Thái Lan và CNHT của các DNNVV, các chính 4
  7. sách phát triển CNHT của Thái Lan; các vấn đề tồn tại của DNNVV và CNHT Thái Lan. Junichi Mori (2005), “Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization: Increasing Positive Vertical Externalities through Coolaborative Training” [31] đề cập đến vai trò của CNHT trong việc tăng trưởng kinh tế thể hiện thông qua việc dẫn dắt dòng FDI vào trong nước, thu hút đầu tư từ các công ty đa quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn. Tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền và Lê Xuân Sang (2011) [11] đã nêu ra 7 vai trò của CNHT: (i) CNHT là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành CN, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm CN chính và đẩy nhanh quá trình CN hóa; (ii) tạo ra tính chuyên môn hóa; (iii) hội nhập CN toàn cầu; (iv) thu hút đầu tư nước ngoài và tạo tăng trưởng bền vững; (v) khuyến khích ứng dụng, sử dụng khoa học công nghệ cao, lực lượng lao động có cơ hội được tiếp xúc, học hỏi, nâng cao tay nghề; (vi) ổn định kinh tế, xã hội, đẩy mạnh quá trình CN hóa; (vii) phát triển các cụm liên kết ngành. Tác giả Hà Thị Hương Lan (2014) [13] đề cập về vai trò có tính hai mặt của phát triển CNHT như sau: phát triển CNHT là cơ sở quan trọng thực hiện hiệu quả quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường; góp phần hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng hợp lý, hiện đại; tăng sức cạnh tranh của sản phẩm CN và của cả nền kinh tế; hỗ trợ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và đẩy nhanh CN hóa, hiện đại hóa đất nước; thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất và gắn phân công lao động quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế; giúp tiếp thu chuyển giao công nghệ và là con đường nhanh nhất biến ngoại lực thành nội lực; nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài; đảm bảo cung ứng các linh kiện phụ kiện phục vụ hoàn chỉnh sản phẩm của DN trong các ngành CN; đảm bảo cho các DN trong ngành CN hoạt động hiệu quả, hoàn thành được kế hoạch sản xuất. ❖ Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ Ryuichiro Inoue (1998) [28] đã đưa ra một loạt giải pháp nhằm điều chỉnh chính sách CN sau khủng hoảng như: tăng cường phát triển các ngành CNHT ô tô, 5
  8. điện tử…đẩy mạnh mô hình liên kết CN, xây dựng các khu, cụm CN, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng một hệ thống CNHT hoàn chỉnh. Junichi Mori (2005) [31], tác giả đã đề cập đến một số giải pháp để phát triển CNHT như: cải tiến công nghệ, hoàn thiện các chính sách công, đẩy mạnh hợp tác và đào tạo nguồn nhân lực. Nguyễn Thị Tường Anh (2014) [1], “Kinh nghiệm phát triển CNHT của một số nước và hàm ý cho Việt Nam”, tạp chí tài chính số 11 đề cập đến các chính sách mở cửa thu hút vốn FDI của các công ty đa quốc gia và thành lập các cơ quan, tổ chức quản lý chuyên trách về CNHT theo kinh nghiệm phát triển ngành CNHT của một số nước trên thế giới. Hà Thị Hương Lan (2014) [13] đã nêu ra một số kinh nghiệm từ các quốc gia như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia trong quá trình phát triển CNHT từ đó đề ra các giải pháp để phát CNHT tại Việt Nam trong đó có nêu ra các giải pháp như: xây dựng quy hoạch phát triển cho ngành CNHT; hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách phát triển CNHT; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển CNHT với hoạt động của các DN trong một số ngành CN; đa dạng hóa CNHT hướng vào sản phẩm có giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên; phát triển cụm liên kết ngành gia tăng năng suất, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm CNHT; thiết kế và quản trị cơ sở dữ liệu về CNHT. Các tác giả khác như Vũ Thị Thanh Huyền (2018) [10], Trương Nam Trung (2017) [18], Nguyễn Thị Thu Huyền và Lê Xuân Sang (2011) [11] cũng có cách tiếp cận tương tự khi nêu ra kinh nghiệm từ nước ngoài sau đó đề ra các biện pháp nhằm thúc đẩy phát triển CNHT tại Việt Nam. Tác giả Phạm Thái Hà (2017) [7] đã khái quát các chính sách liên quan đến ngành CNHT tại Việt Nam, đồng thời cũng nêu ra một số điểm hạn chế, vướng mắc trong thủ tục cũng như quy định. Tác giả Bùi Minh Tuấn (2017) [17] nêu ra các chính sách ưu đãi thuế đối với CNHT hiện nay và cho rằng việc phát triển CNHT chưa thật sự tương xứng. Tác giả cũng nêu ra một số vướng mắc và giải pháp đối với các chính sách ưu đãi thuế liên quan đến CNHT. 6
  9. 2.2. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ❖ Định nghĩa về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2001), “Giáo trình luật thuế” [20]; Học viện tài chính (2010), “Giáo trình thuế thu nhập” [8] đã lần lượt nêu ra khái niệm thuế TNDN như sau: thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập sau khi đã trừ các chi phí liên quan đến thu nhập của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thuế TNDN là thuế tính trên thu nhập chịu thuế của các DN trong kỳ tính thuế. United Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD) (2000), “Tax incentives and foreign direct investment: A global survey” [33] đề cập ưu đãi thuế là các quy định pháp luật cho phép giảm gánh nặng thuế của nhà đầu tư để khuyến khích các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư theo những cách mong muốn nhất định. Trương Bá Tuấn (2019), “Chính sách ưu đãi thuế tại Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và khuyến nghị”, Tạp chí tài chính [16] cho rằng ưu đãi thuế được hiểu là việc áp dụng các chính sách thuế có “sự khác biệt” so với các quy định chung của pháp luật thuế nhằm tạo ra sự đối xử ưu đãi hơn cho một nhóm đối tượng người nộp thuế cụ thể. Tác giả Vũ Sỹ Cường (2018), “Ưu đãi thuế cho doanh nghiệp: kinh nghiệm các nước và thực tiễn Việt Nam”, Tạp chí tài chính [3] tiếp cận theo hướng ưu đãi thuế là hình thức mà một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một khu vực hành chính thuế dành những điều kiện, những quyền lợi đặc biệt về thuế cho các tổ chức và cá nhân nộp thuế hơn so với các quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc khu vực hành chính thuế khác khi đáp ứng được những điều kiện nhất định của chính sách ưu đãi. ❖ Các hình thức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp Đinh Hải Yến (2011), “Pháp luật ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” [22], Lê Quang Thuận và Trương Bá Tuấn (2016), “Báo cáo nghiên cứu đánh giá chính sách ưu đãi thuế tại Việt Nam” [15] đã tổng hợp và 7
  10. nghiên cứu về các hình thức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm: ưu đãi về thuế suất; ưu đãi miễn thuế, giảm thuế; chuyển lỗ; Trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của DN và một số hình thức khác. ❖ Vai trò của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp Lê Quang Thuận và Trương Bá Tuấn (2016) [15] đã nêu ra một số vai trò của ưu đãi thuế TNDN trong lĩnh vực CNHT như sau: khuyến khích đầu tư vào địa bàn hoặc lĩnh vực mà Chính phủ định hướng hoạt động đầu tư, góp phần tạo động lực phát triển ngành CNHT, khuyến khích người dân bỏ vốn thành lập DN mới, đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái…Đồng thời có thể hướng các tổ chức, cá nhân đầu tư vào ngành CNHT theo đúng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. ❖ Chính sách pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ Bùi Minh Tuấn (2017), “Bàn thêm về chính sách ưu đãi thuế đối với CNHT”, Tạp chí tài chính [17] và tác giả Phạm Thái Hà (2017), “Chính sách thuế thúc đẩy ngành CNHT Việt Nam phát triển”, Tạp chí tài chính [7] dựa trên các quy định của pháp luật và khẳng định các Dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT có thể đạt được ưu đãi cao nhất về thuế TNDN (thuế suất 10% trong vòng 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm). ❖ Giải pháp hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ Bùi Minh Tuấn (2017) [17] đã đề cập tới một số vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp để hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế TNDN trong lĩnh vực CNHT liên quan đến quy định chuyển tiếp, tiêu chí xác định đối tượng hưởng ưu đãi. Phạm Thái Hà (2017) [7] đã nêu ra một số giải pháp về thuế TNDN để phát triển CNHT như sau: Việt Nam có thể Ban hành chính sách thuế TNDN ưu đãi vượt khung đối với dự án CNHT trọng điểm từng giai đoạn. Cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế theo hướng nhanh chóng, tạo thuận lợi cho người nộp thuế tự nguyện tuân thủ pháp luật thuế, giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế. Chuẩn hóa quy trình quản lý thuế dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin đảm bảo 8
  11. thống nhất, có tính liên kết cao; ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý không chỉ giúp giảm thiểu chi phí quản lý hành chính đối với hoạt động quản lý thuế mà còn giảm thiểu các hoạt động hành chính khác, rút gọn quy trình quản lý. 2.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu Nhìn chung, đã và đang có nhiều nghiên cứu trong nước và trên thế giới xem xét về lý luận và thực trạng phát triển CNHT nói chung và đối với một số ngành cụ thể nói riêng. Các công trình này đã nghiên cứu và từng bước làm rõ một số vấn đề lý luận chung về CNHT, trình bày kinh nghiệm của một số quốc gia trên các khía cạnh chiến lược phát triển CNHT, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, gợi ý cho quá trình hoạch định cơ chế, chính sách phát triển CNHT ở Việt Nam. Một số tác giả khác tập trung nghiên cứu về ưu đãi thuế TNDN tại Việt Nam. Các nghiên cứu này đã khái quát chung ưu đãi thuế TNDN tại Việt Nam (khái niệm, các hình thức ưu đãi, vai trò). Đây được xem là một nguồn tham khảo vô cùng quy báu cho tác giả trong quá trình tổng hợp, phân tích và hoàn thiện chương 1 của luận văn này. Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới các nghiên cứu liên quan đến ưu đãi thuế trong lĩnh vực CNHT tại Việt Nam. Các công trình này đã trình bày một cách sơ lược tất cả các ưu đãi thuế (thuế TNDN, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, nhập khẩu) nhằm phát triển CNHT. Đồng thời, nêu ra một vấn đề và giải pháp tương ứng để hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế trong lĩnh vực CNHT. Tuy nhiên, một số công trình chỉ tập trung nghiên cứu ở góc độ kinh tế, nêu ra những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của CNHT và đề ra những giải pháp giải quyết các vấn đề trên. Một số khác thì đề cập đến nhiều chính sách phát triển CNHT như nhóm chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, nhóm chính sách phát triển các DN mới, nhóm chính sách khu, cụm CN, nhóm chính sách hỗ trợ tài chính và thuế… hoặc có phân tích các ưu đãi thuế nhằm phát triển CNHT nhưng chưa đào sâu làm rõ về ưu đãi thuế TNDN. Chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về mặt pháp luật liên quan đến các chính sách ưu đãi về thuế (đặc biệt là thuế TNDN) trong lĩnh vực CNHT. Trong luận văn này, tác giả xin đi sâu nghiên cứu các vấn đề về ưu đãi thuế TNDN trong việc phát triển CNHT, từ đó làm rõ những hạn chế, thiếu sót trong các chính sách pháp luật liên quan để góp phần phục vụ cho việc học 9
  12. tập, nghiên cứu, hoạch định chính sách và thực hiện pháp luật ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu • Mục đích nghiên cứu Từ cách tiếp cận của chuyên ngành Luật Kinh tế, luận văn được nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng pháp luật ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, dựa trên những nghiên cứu có được luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam. • Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay. Phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay. Đề ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu • Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay. Do tiếp cận nghiên cứu từ mã ngành Luật Kinh tế nên luận văn không nghiên cứu các quy phạm của pháp luật ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay nhưng thuộc nội dung của pháp luật hành chính như: pháp luật thủ tục thực hiện ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay; về kiểm tra, thanh tra việc thực hiện ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay; về vi phạm và xử lý vi phạm trong ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam. 10
  13. • Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT (đặc biệt là các ngành được liệt kê trong danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển) ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực hiện chế định pháp luật này kể từ khi Nghị định về phát triển CNHT số 111/2015/NĐ-CP có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016. Hiện nay có nhiều hình thức ưu đãi thuế TNDN như ưu đãi thuế suất; miễn, giảm thuế suất; chuyển lỗ; trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của DN. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hai hình thức phổ biến nhất của ưu đãi thuế TNDN, đó là thuế suất ưu đãi và miễn thuế, giảm thuế. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp so sánh: so sánh giữa quy định của Luật Đầu tư 2020, Luật thuế TNDN 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2013 và 2014, các văn bản hướng dẫn với thực tiễn áp dụng; so sánh quy định về ưu đãi thuế TNDN đối với các DN sản xuất CNHT tại Việt Nam với quy định của một số nước trên thế giới. Từ đó cho thấy rõ sự khác biệt, điểm chưa thống nhất cũng như điểm hạn chế giữa các quy định pháp luật, giữa quy định của pháp luật với thực tiễn, giữa luật Việt Nam và một số quy định của luật nước ngoài, từ đó nêu lên được tính cấp thiết của luận văn trong phần “lý do chọn đề tài”; phần 1.2; 1.3 của luận văn. Phương pháp tổng hợp: tiến hành tìm kiếm những giáo trình, luận văn, luận án, những bài viết khoa học liên quan đến ưu đãi thuế TNDN trong lĩnh vực CNHT, những công văn mang tính chỉ đạo riêng biệt đối với các DN cụ thể để làm rõ hơn thực tiễn áp dụng đối với đề tài này. Bằng phương pháp này, nêu bật lên quan điểm của tác giả cũng như xu hướng áp dụng trên thực tế để sử dụng vào phần “tình hình nghiên cứu” và phần 2.1 của luận văn. Phương pháp phân tích: tiến hành phân tích các quy định của pháp luật hiện hành tại chương 1 của luận văn để tìm ra những vướng mắc trong quy định pháp luật hiện hành cũng như trong thực tiễn áp dụng. Từ đó đưa ra những hướng giải quyết cho những bất cập đó trong phần 2.2. 11
  14. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay. Do đó, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, hoạch định chính sách và thực hiện pháp luật ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực CNHT ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm hai chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ Chương 2: Thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam hiện nay. 12
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 1.1. Khái quát chung về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ 1.1.1. Khái quát chung về công nghiệp hỗ trợ 1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ Công nghiệp hỗ trợ được hiểu khác nhau giữa các nước, tùy thuộc vào mức độ ưu tiên trong chiến lược phát triển của từng quốc gia. Trên thực tế có khá nhiều định nghĩa CNHT được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước Đông Á. Định nghĩa CNHT chính thức được đưa ra lần đầu tiên ở Nhật Bản vào giữa những năm 1980 trong Chương trình Phát triển CNHT Châu Á. Nó được dịch trực tiếp từ thuật ngữ gốc trong tiếng Nhật là “Suso-no San-gyuo”, trong đó Suso-no nghĩa là “Chân núi” và Sangyuo là “CN”. Nếu xem toàn bộ quy trình sản xuất một sản phẩm như một quả núi thì các ngành CNHT đóng vai trò chân núi, còn CN lắp ráp, sản xuất hoàn tất sản phẩm cuối cùng đóng vai trò đỉnh núi. Do đó, nếu không có CNHT rộng lớn, vững chắc thì cũng sẽ không có CN lắp ráp sản xuất hoàn tất cuối cùng bền vững, ổn định. Với cách hình dung như trên, tổng thể ngành CN có thể được xem như là sự kết hợp giữa CNHT và CN lắp ráp sản xuất hoàn tất sản phẩm cuối cùng, trong đó, CNHT được coi là cơ sở nền tảng, CN lắp ráp sản xuất hoàn tất sản phẩm cuối cùng có vai trò hoàn thành giá trị sử dụng của sản phẩm. Ở Nhật Bản, thuật ngữ CNHT ban đầu được dùng để chỉ “các DNNVV có đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng CN ở các nước Châu Á trong trung và dài hạn”. Sau đó, định nghĩa chính thức của quốc gia về CNHT được Bộ Kinh tế, Thương mại và CN Nhật Bản (METI) đưa ra vào vào năm 1993: CNHT là các ngành CN cung cấp các yếu tố cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh kiện và vốn… cho các ngành CN lắp ráp (bao gồm ô tô, điện và điện tử). Hiện nay, CNHT ở Nhật Bản được hiểu là “một nhóm các hoạt động CN cung ứng các đầu vào trung gian 13
  16. (không phải nguyên vật liệu thô và các sản phẩm hoàn chỉnh) cho các ngành CN hạ nguồn” Còn theo BSID: CNHT là các ngành CN cung cấp linh phụ kiện, máy móc, thiết bị và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất như đóng gói, kiểm tra sản phẩm … cho các ngành CN cơ bản [13, tr.148]. Còn Ủy ban đầu tư Thái Lan (BOI) khẳng định: “CNHT là các DN sản xuất linh phụ kiện được sử dụng trong các công đoạn lắp ráp của các ngành CN ô tô, máy móc và điện tử”. Ở Việt Nam, thuật ngữ CNHT xuất hiện trong các chương trình hợp tác kinh tế với Nhật Bản. Thuật ngữ CNHT được sử dụng chính thức từ năm 2004, chủ yếu trong các chỉ thị, công văn chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ. Đến năm 2007, khái niệm CNHT chính thức được đưa ra trong bản Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành CNHT đến 2010, tầm nhìn 2020: “hệ thống CNHT là hệ thống các nhà sản xuất (sản phẩm) và công nghệ sản xuất có khả năng tích hợp theo chiều ngang, cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng…cho khâu lắp ráp cuối cùng” [12]. Khái niệm này được hiểu là các ngành sản xuất nền tảng của ngành CN chính yếu. Nó bắt đầu từ việc sản xuất nguyên vật liệu đến gia công, chế tạo các sản phẩm phụ tùng, linh kiện, nguyên phụ liệu bằng các công nghệ chuyên môn hóa sâu… cho các ngành CN sản xuất-lắp ráp các sản phẩm thuộc công cụ, tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. CNHT có thể chia thành hai thành phần chính: (i) Phần cứng là các cơ sở sản xuất nguyên vật liệu và các linh kiện lắp ráp; (ii) Phần mềm bao gồm các bộ phận thiết kế sản phẩm, mua sắm, hệ thống dịch vụ CN và marketing [6]. Đến năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2015 về phát triển CNHT. Theo đó, CNHT được định nghĩa là “các ngành CN sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh” và “Hoạt động phát triển CNHT bao gồm: Hoạt động trợ giúp của cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân về CNHT, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ chuyển giao công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT, hợp tác quốc tế, phát triển thị trường; đầu tư dự án sản xuất sản phẩm CNHT; cung ứng dịch vụ phục vụ CNHT”. Như vậy, dựa trên quan điểm của Quy hoạch thì Nghị định này chỉ tập trung vào phần cứng của CNHT. 14
  17. Với nhiều khái niệm khác nhau như đã đề cập ở trên, trong luận văn này, tác giả căn cứ vào định nghĩa được quy định trong Nghị định số 111/2015/NĐ-CP để phân tích, chứng minh các vấn đề liên quan. Cụ thể, CNHT là tập hợp các ngành CN sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng phục vụ cho các ngành CN sản xuất thành phẩm. 1.1.1.2. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ Thứ nhất, tính đa cấp của CNHT. Trong quá trình sản xuất CN luôn có sự đan xen, tác động lẫn nhau; sản phẩm đầu ra, quá trình sản xuất của ngành này lại là sản phẩm hỗ trợ hay sản phẩm đầu vào, quá trình sản xuất cho ngành khác. Thậm chí, để sản xuất ra sản phẩm hỗ trợ cùng phải cần tới CNHT cho bản thân nó [13]. Trong chuỗi sản xuất này, các nhà cung cấp được phân loại theo cấp độ, vị trí họ tham gia vào hệ thống. Ngoài ra, tính đa cấp trong sản xuất CNHT còn thể hiện ở chỗ, các nhà cung cấp sản phẩm CNHT có thể rất khác nhau về quy mô vốn, quy mô sản xuất, sở hữu, công nghệ… Thứ hai, tính hệ thống liên kết theo quy trình sản xuất, theo khu vực và phụ thuộc vào ngành CN chính. Do cùng nằm trong chuỗi giá trị của sản xuất, các DN CNHT có mối quan hệ liên kết chặt chẽ với nhau. Từ mối quan hệ này cũng dẫn đến yêu cầu phát triển CNHT một cách có hệ thống và tập trung theo các cụm, khu CN. Sự phát triển của các DN sản xuất lắp ráp sẽ tạo nhu cầu và kích thích sự phát triển của các DN cung cấp sản phẩm hỗ trợ, ngược lại, sự phát triển của các DN CNHT sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, đem lại lợi thế cạnh tranh để thu hút, giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia, các DN lắp ráp. [10] Thứ ba, tính đa dạng về công nghệ và trình độ sản xuất. Để có một sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh thì trong quá trình sản xuất luôn đòi hỏi nhiều loại linh kiện, phụ tùng với những chi tiết, đặc điểm phức tạp; ngược lại, có những chi tiết lại không đòi hỏi kỹ thuật quá khó. Chính sự đa dạng này tạo ra sự khác nhau về mức độ, trình độ công nghệ đối với các sản phẩm hỗ trợ. Thứ tư, thu hút một số lượng lớn DN, nhất là các DNNVV. Do đặc tính đa cấp, đa dạng về công nghệ; do sự tham gia vào nhiều công đoạn của sản xuất nên ngành CNHT thu hút một số lượng lớn các DN, với các quy mô, trình độ đa dạng, 15
  18. trong đó, số lượng DN ở cấp thấp rất lớn. Đa phần các DN ở cấp này là các DNNVV. Thứ năm, CNHT là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao. Lao động trong ngành CNHT phần lớn là các chuyên gia vận hành máy móc, những kiểm soát viên về chất lượng sản phẩm, các kỹ thuật viên và các kỹ sư có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, được đào tạo theo tiêu chuẩn, trình độ lành nghề, chuyên môn sâu [13]. Họ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển CNHT bởi họ chính là những người vận hành, triển khai, sáng tạo ra các phương pháp hiệu quả để vận dụng trong lĩnh vực đòi hỏi nhiều tính chuyên môn này. 1.1.1.3. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ Luận văn dựa theo hướng tiếp cận của hai tác giả Lê Xuân Sang và Nguyễn Thị Thu Huyền [11] để tổng hợp các vai trò của CNHT như sau: Thứ nhất, CNHT góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm CN và đẩy nhanh quá trình CN hóa. Thực tế, khi CNHT kém phát triển thì sẽ kéo theo sự trì trệ của các ngành CN chính, lúc này ngành CN sẽ phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu. Các sản phẩm của ngành CN chính muốn phát triển cần dựa vào sự phát triển của ngành CNHT và CNHT sẽ là nhân tố thúc đẩy nền kinh tế hoạt động lành mạnh, tăng khả năng cạnh tranh, hướng đến xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Ngành CNHT phát triển sẽ làm tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành sản xuất CN, thúc đẩy quá trình CN hóa. Thứ hai, CNHT góp phần hạn chế nhập siêu, đảm bảo tính chủ động cho nền kinh tế. Khi ngành CNHT không phát triển, các ngành CN chính sẽ kém phát triển và xuất hiện tình trạng nhập siêu. CNHT sẽ giúp ngành sản xuất chủ động được nguồn nguyên vật liệu đầu vào, không phải nhập khẩu nguyên liệu và các linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp, chủ động lựa chọn được nhà cung cấp, cắt giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành, tăng năng lực cạnh tranh. Mặt khác, việc tự cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện và phụ tùng giúp nền kinh tế chủ động hơn, không bị lệ thuộc vào các nước khác cũng như ít bị các tác động từ biến động kinh tế toàn cầu. Thứ ba, CNHT góp phần nâng cao trình độ công nghệ, lao động chuyên môn hóa cao. Phát triển CNHT sẽ có tác động khuyến khích ứng dụng, sử dụng khoa học 16
  19. công nghệ cao, lực lượng lao động có cơ hội được tiếp xúc, học hỏi, nâng cao tay nghề. Thứ tư, phát triển CNHT nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm đến nhiều yếu tố tạo nên một môi trường đầu tư thuận lợi, trong đó CNHT là nhân tố quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài xem xét, nghiên cứu khi đưa ra quyết định đầu tư vào một thị trường. Thực tế, nhân tố lao động giá rẻ ngày nay không còn sức hấp dẫn nhiều trong thu hút đầu tư, phát triển bền vững vì tỷ lệ của chi phí về CNHT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên dù một nước có ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển sẽ khiến cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Xu hướng đầu tư hiện nay cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài thường lựa chọn những nơi có ngành CNHT phát triển để chủ động nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ kiện; giảm chi phí đầu vào, đảm bảo về tiến độ của các dự án,…Do đó, phát triển CNHT sẽ giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó quốc gia sở tại có thể tận dụng nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, những tiến bộ về khoa học – kỹ thuật từ các nước phát triển để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước. Thứ năm, CNHT là cơ sở để thực hiện hội nhập CN toàn cầu. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khi các quan hệ hợp tác được thiết lập, sản phẩm CNHT sẽ là một bộ phận hiện hữu, không tách rời, cấu thành trong các sản phẩm của các tập đoàn CN đa quốc gia hàng đầu thế giới. CNHT sẽ trở thành một bộ phận trong chuỗi sản xuất CN của khu vực cũng như toàn cầu. Thứ sáu, phát triển CNHT là điều kiện đủ để phát triển các cụm liên kết ngành – công cụ rất hữu hiệu để nâng cao cạnh tranh, đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế vùng thông qua xây dựng mạng lưới các nhà cung ứng sản phẩm đầu vào cho các DN khác. Ngoài 6 vai trò đã được đề cập, CNHT có thể dẫn đến một số ảnh hưởng không mong muốn, cụ thể: trong quá trình phát triển CNHT, nếu không cẩn trọng có thể dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài. Thực vậy, vì đặc thù của các sản phẩm CNHT là để hỗ trợ cho các ngành CN chính nên những sản phẩm này khó tiếp cận với người tiêu dùng cuối cùng, lúc này tình trạng phụ 17
  20. thuộc vào các tập đoàn đa quốc gia sẽ phát triển vì đây chính là đối tượng tiềm năng nhất trong ngành CN chính. Bên cạnh đó, khi CNHT phát triển một cách nhanh chóng mà quy trình đào tạo chưa được cập nhật kịp thời có thể dẫn đến hiện tượng đào tạo dàn trải, thiếu thực tiễn, hoặc chuyên môn chưa phù hợp với yêu cầu của DN, từ đó ảnh hưởng đến chuỗi sản xuất, gây thiệt hại cho nhiều chủ thể khác nhau. Ngoài ra, khi tập trung CNHT quá đà, chạy theo lợi nhuận hoặc lợi ích cục bộ không quan tâm đến việc phát triển bền vững sẽ gây ra các vấn đề như ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên… Như đã phân tích ở trên, có thể thấy rõ CNHT có tác động hai mặt đến nền kinh tế - xã hội của quốc gia. Do đó, trong quá trình phát triển CNHT cần cẩn trọng để giúp phát huy những mặt thuận lợi và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra, cần đề ra những định hướng phát triển phù hợp và thiết lập một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh trong tương lai gần. 1.1.2. Khái quát chung về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ 1.1.2.1. Khái niệm ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ❖ Khái niệm thuế thu nhập doanh nghiệp Thuế thu vào thu nhập là nhóm thuế giữ vai trò quan trọng trong việc tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nhất là đối với các nước phát triển. Thuế thu vào thu nhập được xem là loại thuế mà Nhà nước đánh vào thu nhập thực tế của các chủ thể nhằm điều tiết một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước với mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực hiện công bằng xã hội [19, tr.262]. Có thể thấy rằng tên gọi của sắc thuế thường biểu hiện đối tượng chịu thuế của sắc thuế đó. Thuế TNDN chủ yếu thu vào thu nhập phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh nên những khoản thu nhập chịu thuế là những thu nhập hình thành chủ yếu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hoặc có liên quan đến quá trình này. Hiện tại, khái niệm về thuế TNDN chưa được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng đã có một số công trình giải thích khái niệm thuế 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2