intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kỳ đổi mới Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái)

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

26
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là phân tích, đánh giá và làm nổi bật được cảm hứng phê phán được thể hiện qua các tác phẩm của 3 tác giả; chứng minh rằng sự phản ánh hiện thực cuộc sống của các tác giả không chỉ dừng lại ở việc miêu tả những bề bộn của thế sự - đời tư con người, không chỉ dừng lại ở việc tố cáo cái xấu cái ác, không phê phán phủ định sạch trơn mà các tác giả luôn nhìn nhận cuộc sống với niềm tin vào lẽ phải và cái thiện và do đó sáng tác của họ có tác dụng hướng con người đến với những giá trị đạo đức tốt đẹp của cuộc sống.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kỳ đổi mới Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------***------------ ĐỖ THỊ NGỌC LAN CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TRONG VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI (Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI – 2009
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------***------------ ĐỖ THỊ NGỌC LAN CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TRONG VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI (Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái) CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN NAM HÀ NỘI - 2009
  3. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 0 Chương 1: CHÂN DUNG CÁI XẤU TRONG DIỆN MẠO ............................ 8 NHỮNG CON NGƯỜI CỤ THỂ........................................................................ 8 1.1. Nhu cầu bức thiết của việc vạch trần cái xấu trong cuộc sống ............. 8 1.2. Những vấn đề nổi bật trong nội dung phản ánh cái xấu trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái ..............................14 1.2.1. Con người tha hoá vì chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi ..............................................................................................14 1.2.1.1. Nhân vật trí thức tha hoá về nhân cách ....................................14 1.2.1.2. Trí thức giả danh, những người đội lốt trí thức nhưng bất tài, vô dụng ......................................................................................................24 1.2.1.3. Giá trị con người, giá trị hạnh phúc gia đình bị coi thường từ những toan tính ích kỷ .............................................................................29 1.2.2. Con người sống trong hận thù và mất niềm tin ..............................32 1.3. Cơ chế xã hội dồn ép con người lương thiện vào những bi kịch trong cuộc sống ..........................................................................................................39 Chương 2: TÍNH NHÂN VĂN TRONG CẢM HỨNG PHÊ PHÁN CỦA MA VĂN KHÁNG, TẠ DUY ANH, HỒ ANH THÁI ............................................47 2.1. Cái thiện hiện hữu trong từng con người tốt đẹp .................................47 2.1.1 Người trí thức có tài năng và cốt cách cao đẹp .................................47 2.1.2. Sự hồn hậu trong tâm hồn của những con người bình dị ...............53 2.2. Con người trong sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác .......................55 2.2.1 Quá trình phục thiện: sám hối, xưng tội ...........................................55 2.2.2. “Thiên sứ” dẫn dắt con người từ bóng tối ra ánh sáng ...................63 2.3. Quan niệm sống mang đậm tính nhân văn của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái ..................................................................................66
  4. Chương 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TRONG CÁC TÁC PHẨM CỦA MA VĂN KHÁNG, TẠ DUY ANH, HỒ ANH THÁI 75 3.1. Kết cấu cốt truyện đa dạng .....................................................................75 3.1.1. Cốt truyện số phận .............................................................................76 3.1.2. Cốt truyện luận đề ..............................................................................77 3.1.3. Cốt truyện tâm lý, hồi tưởng và ký ức ...............................................80 3.1.4. Cốt truyện phân mảnh - lắp ghép ........................................................82 3.1.5. Cốt truyện dòng ý thức .......................................................................85 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ...............................................................86 3.2.1. Phạm trù thẩm mỹ trong xây dựng nhân vật....................................86 3.2.2. Hư cấu, tưởng tượng - một thủ pháp nghệ thuật đắc lực trong việc thể hiện cảm hứng phê phán .......................................................................89 3.2.3. Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật.............................................91 3.3. Một số đặc điểm về giọng điệu trần thuật ...........................................104 KẾT LUẬN .....................................................................................................................111 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn xuôi Việt Nam hiện đại thời kỳ đổi mới có dung lượng phản ánh rộng lớn hết sức sinh động. Bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, sự nghiên cứu nghiêm túc đối tượng phản ánh, các tác giả đã dựng lại những bức tranh chân thực và rộng lớn với tất cả sự đa dạng của hiện thực phong phú và phức tạp. Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái là các nhà văn có đóng góp to lớn trong nền văn học hiện đại thời ký đổi mới. Trong sáng tác của họ, muôn mặt của bức tranh xã hội được miêu tả, được phản ánh một cách sâu sắc, đa chiều, đáp ứng được yêu cầu khách quan của cuộc sống, giúp người đọc nhìn rõ bản chất của hiện thực. Luận văn được nghiên cứu xuất phát từ sự yêu mến và cảm phục của tác giả đối với những dòng tư tưởng chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc của ba nhà văn Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái. Đây là các nhà văn có nhiều thành tựu trong việc dùng văn chương để đấu tranh cho cái thiện, cái chính nghĩa của cuộc sống. Với nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết có giá trị hiện thực, các tác giả này đã ý thức được sứ mệnh viết văn là để bảo vệ và khẳng định những giá trị chân chính của con người; thể hiện sự quan tâm tới việc hình thành đạo đức và nhân cách con người, thể hiện sự hiểu biết sự định hình tính cách con người Việt Nam hiện đại với những mặt mạnh, mặt yếu của nó. Luận văn nghiên cứu cách nhìn đa chiều, mới mẻ về con người và cuộc sống trong thời kỳ hậu chiến của các nhà văn Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái qua đó làm sáng tỏ những tác động và ảnh hưởng của một hiện thực còn ngổn ngang đến cuộc sống của con người như thế nào. Qua đây, luận văn cũng làm sáng tỏ cảm hứng chủ đạo của các nhà văn được thể hiện qua các tác phẩm, đó là cảm hứng phê phán mang tính tích cực để gióng lên những hồi chuông để cảnh tỉnh con người tránh xa tội ác, lừa lọc, phản trắc để xây dựng một xã hội với những con người có phẩm chất cao đẹp, sống có nghĩa tình, nhân hậu. 1
  6. 2. Lịch sử vấn đề Tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái rất phong phú về nội dung. Các bài viết nghiên cứu về những tác phẩm của ba tác giả đã khai thác nhiều vấn đề như đặc điểm cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách thức trần thuật, nghệ thuật tự sự…Tuy nhiên, vấn đề cảm hứng phê phán chưa được đề cập tới một cách kỹ lưỡng trong các tác phẩm nghiên cứu. Ma Văn Kháng thành công cả về thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Từ những năm 80 trở lại đây, các tác phẩm của Ma Văn Kháng thu hút sự quan tâm của nhiều bạn đọc. Thể loại sáng tác của ông đa dạng hơn, hình thức nghệ thuật phong phú, nhân vật được xây dựng với nhiều tính cách điển hình cho con người thời đại mới với tư tưởng hiện đại, tiến bộ. Ở mảng tiểu thuyết thế sự đời tư của nhà văn, giới nghiên cứu phê bình đánh giá rất cao về những đóng góp của Ma Văn Kháng bởi ý tưởng sáng tạo và ý thức đổi mới tư duy của tác giả. Ông đã cho ra mắt bạn đọc 11 cuốn tiểu thuyết, 20 tập truyện ngắn và 3 tập truyện viết cho thiếu nhi. Năm 2008, tập truyện ngắn mới nhất của Ma Văn Kháng mang tựa đề Trốn nợ (NXB Phụ nữ - 2008) bao gồm 18 truyện ngắn đã ra mắt và gần đây (tháng 9-2009), cuốn hồi ký “năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương” được xuất bản đã giành được nhiều tình cảm của bạn đọc. Với trên 40 năm lao động nghệ thuật, Ma Văn Kháng ý thức được sứ mệnh là viết để bảo vệ và khẳng định những giá trị chân chính của con người, của cuộc sống. Các tiểu thuyết viết về mảng thế sự đời tư của Ma Văn Kháng đã khẳng định được những giá trị nhất định: Các tiểu thuyết “Mưa mùa hạ”, (1982), “Mùa lá rụng trong vườn” (1985), “Côi cút giữa cảnh đời” (1989), “Đám cưới không có giấy giá thú” (1988), “Chó Bi đời lưu lạc” (1992), “Ngược dòng nước lũ” (1999) của ông đã thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều độc giả. Phong Lê nhận định trong Vẫn chuyện văn và người (NXB Văn hoá thông tin - 1989): “Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ như nhiều cuốn sách khác. Nhưng thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo 2
  7. những tình cảm nhân hậu, tốt lành, có thể nói đó là một hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa tâm hồn con người. Cái hiệu quả thanh lọc dành cho nghệ thuật, và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao hơn cuộc đời mới làm nổi bật”. Tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú (1988) thực sự là một đổi mới mạnh mẽ của Ma Văn Kháng. Các bài viết: Phải chăng đời là một vại dưa hỏng của Vũ Dương Quý, Nếu đám cưới không có giấy giá thú của Nguyễn Văn Lưu; Đám cưới không có giấy giá thú có tính chất luận đề về mối quan hệ giữa những giá trị văn hoá với đời sống con người của Mai Thục và cuộc thảo luận về Đám cưới không có giấy giá thú do Báo Văn nghệ tổ chức… đều đưa ra những nhận xét khá lý thú, bổ ích và công bằng về giá trị đích thực của đời sống cũng như những mặt còn hạn chế về mọi phương diện của tác phẩm, cả về mặt nội dung và nghệ thuật. Về cuốn tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ (1999), Hồ Anh Thái nhận xét: “Cảm hứng phê phán mỗi ngày mạnh hơn cảm hứng trữ tình…Dường như tập hợp đầy đủ mọi thói tật nhỏ nhen đố kỵ, mọi mưu chước công chức hành chính ở đây. Văn chương cũng bị đẩy theo cảm hứng phê phán mà rậm hơn, xổng xểnh, lan man hơn”. Trong bài viết Ngược dòng nước lũ - cuộc khám phá mới đầy tiềm năng vào nguồn văn chương, vào dòng đời cuộn chảy, Lã Duy Lan đã nhận xét: “Ngược dòng nước lũ sẽ đi vào đời sống xã hội như sự định hình vững chãi địa vị của văn chương trong kinh tế thị trường, mở ra cuộc khám phá đầy tiềm năng vào tận nguồn mạch văn chương, tận tầng sâu của dòng đời cuộn chảy, mà ở tác giả nội lực đã được chuẩn bị kỹ từ nhiều chục năm trước” [64]. Ngoài các bài viết trên, chúng ta có thể kể đến một số bài viết về tác phẩm của Ma Văn Kháng như: Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 80 của Nguyễn Thị Huệ; Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng của Lê Kim Vinh; Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng của Đỗ Hải Ninh; Sống rồi mới viết của Ma Văn Kháng… và các luận văn thạc sĩ gần đây như: Nhân vật trí thức với sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết sau 1980 - Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Kim; Quan 3
  8. niệm nghệ thuật về con người tự nhiên trong sáng tác của Ma Văn Kháng sau năm 1975 - Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Cẩm Giang; Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng - Luận văn thạc sĩ của Bùi Lan Hương… Đề cập đến cảm hứng phê phán trong sáng tác của Ma Văn Kháng, tác giả Nguyễn Văn Xuất có công trình nghiên cứu luận án Phó tiến sĩ văn học mang đề tài Cảm hứng phê phán trong tiểu thuyết hiện đại (qua một số tiểu thuyết ở Liên Xô và Việt Nam). Đây là công trình nghiên cứu về cảm hứng phê phán trong một số tác phẩm văn xuôi Liên Xô và Việt Nam. Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu về cảm hứng phê phán trong tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng dưới tư duy tiểu thuyết của nhà nghiên cứu Đôxtôiepxki. Trong mảng phê bình nghiên cứu về các tác phẩm thế sự đời tư của Hồ Anh Thái đáng kể đến là những bài viết của các tác giả Nguyễn Thị Minh Thái, Nguyễn Anh Vũ, Ngô Thị Kim Cúc, Vân Long, Nguyễn Thị Phương, Trần Duy Hiển, Phạm Chí Dũng, Hoài Nam, Tuyền Lâm…Trong bài viết Hơn cả sự thật, Nguyễn Anh Vũ cho rằng: “Với Cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái đã khai thác triệt để khả năng phản ánh một cách trọn vẹn và sinh động hiện thực đời sống của thể loại tiểu thuyết. Đọc tiểu thuyết này, ta không khỏi lo ngại trước lối sống của một bộ phận thanh niên trong xã hội hôm nay. Đó là một lối sống thực dụng, buông thả, ích kỷ, với những ham muốn điên loạn, cuồng loạn. Rõ ràng, họ không đại diện cho thế hệ trẻ đang tràn đầy sức sống, tài năng và nhiệt huyết trong xã hội ngày nay. Thế nhưng, ta vẫn không khỏi xót xa, ngậm ngùi cho những cảnh sống vô hồn, không hoài bão, lý tưởng đó. Nếu không cảnh báo, ngăn chặn, rất có thẻ đó sẽ là “mảnh đất màu mỡ” cho cái ác nảy mầm, tồn tại và phát triển” [38, tr 285-286]. Bàn về tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, tác giả Hoài Nam nhận định: “Bằng tiếng cười, tác giả Mười lẻ một đêm đã phanh phui cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật 4
  9. tự tương đối, sẽ phải không mất ít thời gian và nỗ lực cho nó”. Cho đến nay, mặc dù chưa có chuyên luận nào viết về Hồ Anh Thái nhưng đã có một số luận văn viết về tác phẩm của anh. Đó là các luận văn của Nguyễn Thị Vân Nga (2004): Về tiểu thuyết cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái; Ngô Thị Thu Hương (2007): Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Anh Thái qua 3 tác phẩm “Người và xe chạy dưới ánh trăng, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm”, Võ Anh Minh (2005) Văn xuôi Hồ Anh Thái nhìn từ quan điểm nghệ thuật vì con người… Tạ Duy Anh là một tác giả mới của văn học đương đại, được nhiều bạn đọc yêu mến. Xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ 20, Tạ Duy Anh có thời gian sáng tác chưa thật dài so với các nhà văn khác. Chính vì vậy, các công trình khoa học nghiên cứu sâu về tác phẩm của Tạ Duy Anh chưa có nhiều. Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Hiện trạng tiểu thuyết Việt Nam đã đưa ra nhận định một cách khái quát về tác phẩm của Tạ Duy Anh: “Tạ Duy Anh sau Khúc dạo đầu còn chưa thoát khỏi lối ghi chép tiểu thuyết đã cho ra mắt Lão Khổ - một cuốn sách mặn chát vị đời và lừng lững con người thời đại… Không ít tiểu thuyết hướng tới những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội như Lão Khổ, Ăn mày dĩ vãng, Gót đỏ quyền uy…Trong tiểu thuyết hôm nay, con người được trình bày như một ẩn số. Bản chất con người là gì? Nó sống ra sao trong thời hiện tại…Lữ Quán của Hà Phạm Phú, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Lão Khổ của Tạ Duy Anh…đã gây một niềm tin tưởng rằng chúng ta đang được văn học như một phương tiện linh điệu để hiểu rõ con người” [43,tr. 14-15]. Tác giả Việt Hoài trong bài viết Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác đã nhận định: “Vẫn là chuyện làng quê Bắc Bộ nhưng thời gian rộng hơn: từ những năm 1940-1990, dung lượng tiểu thuyết lớn hơn truyện ngắn và nhà văn cũng già dặn từng trải và kỹ thuật nên Lão Khổ được đồng nghiệp và bạn đọc nhìn nhận như một bước tiến dài của Tạ Duy Anh …Thiên thần sám hối khiến ai đọc cũng có thể tìm thấy mình trong đó và hầu hết là giật mình, không tự vấn lương tâm thì cũng tự xấu hổ mà âm thầm đỏ mặt, nhưng nó cũng không quá nghiệt ngã, 5
  10. ráo riết mà vẫn mở đường cho nhân vật - người đọc một lối thoát lương tâm [57]. Trong bài viết này, tác giả cũng đưa ra một số nhận định về nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian, nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình (…) Nhưng bản chất con người thì luôn luôn ở lằn ranh giới thiện - ác. Nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái lựa chọn - đấu tranh với xã hội, với môi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản thân mình. [58]. Ngoài ra, nghiên cứu về tác phẩm của Tạ Duy Anh có bài viết: “Tạ Duy Anh - gương mặt nổi bật của văn đàn 2004” của Nguyên Trường, cuốn sách: Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương, Võ Thị Thanh Hà, NXB Hội Nhà văn 2007. Bên cạnh đó có một số luận văn đã đề cập đến vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh. Qua khảo sát kết quả của những người đi trước, có thể nhận thấy những bài viết nghiên cứu về 3 tác giả Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh và Ma Văn Kháng chủ yếu liên quan đến những vấn đề về nghệ thuật tự sự, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật xây dựng cốt truyện…Tuy có đề cập đến những vấn đề còn tồn tại ngổn ngang trong xã hội nhưng những tác phẩm nghiên cứu chưa đề cập sâu sát đến vấn đề cảm hứng phê phán. Bằng cách phân tích và tham khảo các ý kiến về tác phẩm của 3 tác giả, chúng tôi bước đầu nghiên cứu về vấn đề cảm hứng phê phán được thể hiện qua các tác phẩm nhằm làm sáng tỏ tư tưởng nhân văn tích cực mà các tác giả muốn gửi gắm tới độc giả. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích của đề tài - Phân tích, đánh giá và làm nổi bật được cảm hứng phê phán được thể hiện qua các tác phẩm của 3 tác giả. - Chứng minh rằng sự phản ánh hiện thực cuộc sống của các tác giả không chỉ dừng lại ở việc miêu tả những bề bộn của thế sự - đời tư con người, không chỉ dừng lại ở việc tố cáo cái xấu cái ác, không phê phán phủ định sạch trơn mà 6
  11. các tác giả luôn nhìn nhận cuộc sống với niềm tin vào lẽ phải và cái thiện và do đó sáng tác của họ có tác dụng hướng con người đến với những giá trị đạo đức tốt đẹp của cuộc sống. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài - Khảo sát kỹ lưỡng nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái để chỉ ra được cảm hứng chủ đạo của các tác phẩm. - Vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn xuôi hiện đại để thấy được những đóng góp của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái trong việc đổi mới tư duy nghệ thuật trong nền văn học hiện đại thời kỳ đổi mới. 4. Đối tượng nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin được phép chọn ra những tác phẩm tiêu biểu viết về mảng thế sự đời tư của các tác giả. Cụ thể là các tác phẩm: Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989), Ngược dòng nước lũ (1999) của Ma Văn Kháng; Lão Khổ (1992), Đi tìm nhân vật (2004), Thiên thần sám hối (2005) của Tạ Duy Anh; Người và xe chạy dưới ánh trăng (1986), Cõi người rung chuông tận thế (2002), Mười lẻ một đêm (2006) của Hồ Anh Thái. 5 . Phương pháp nghiên cứu - Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, phương pháp thống kê, hệ thống, phương pháp thi pháp học với mong muốn tiếp cận tới cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương: Chương I: Chân dung cái xấu trong diện mạo những con người cụ thể. Chương II: Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái. Chương III: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái. 7
  12. Chương 1 CHÂN DUNG CÁI XẤU TRONG DIỆN MẠO NHỮNG CON NGƯỜI CỤ THỂ 1.1. Nhu cầu bức thiết của việc vạch trần cái xấu trong cuộc sống Một trong những chức năng cao đẹp, thanh khiết của văn học chính là nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người, hướng con người đến những điều đẹp đẽ của cuộc sống. Lịch sử luôn luôn biến động không ngừng, mỗi giai đoạn văn học lại gắn với những nội dung phản ánh khác nhau. Nếu như dòng văn học cách mạng trước đây thiên về cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước, vẻ đẹp tâm hồn anh dũng bất khuất của con người Việt Nam thì nền văn học hậu chiến lại dành nhiều trang viết để tiếp cận những mảng khuất của cuộc sống, những dòng chảy tâm lý bên trong, những nỗi đau nhân thế âm ỉ dai dẳng đã và đang diễn ra trong cuộc sống thường nhật. Trong bất cứ giai đoạn xã hội nào đều tồn tại song hành hai thái cực trái ngược nhau đó là tốt - xấu, chính - tà, thiện - ác. Nhìn nhận và phản ánh về hai thái cực ấy trong mỗi giai đoạn văn học lại có những biểu hiện khác nhau. Trong giai đoạn văn học hiện đại, nhà văn đã có được độ lùi xa của khoảng cách thời gian để nhìn lại một cách toàn diện và sâu sắc hơn những sự kiện, biến cố dồn dập của quá khứ xa cũng như gần, và phần lớn những trang viết đã đề cập đến những mảng khuất của cuộc sống vẫn đang ngày đêm âm ỉ sôi trào. Cảm hứng phê phán trong văn học Việt Nam là vấn đề xuất hiện mạnh mẽ nhất trong giai đoạn văn học 1930- 1945 dựa trên những mâu thuẫn dân tộc và những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội một cách sâu sắc lúc bấy giờ. Trước những năm 30 của thế kỷ XX, những tiền đề của chủ nghĩa hiện thực phê phán đã xuất hiện, trước hết là trong thơ trào phúng của Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Học Lạc, Nguyễn Thiện Kế và sau đó là văn xuôi của Phạm Duy Tốn, Vũ Đình 8
  13. Long, Hồ Biểu Chánh, Trọng Khiêm, Nam Xương….Tuy nhiên, bản thân những truyện, những tiểu thuyết và kịch của các tác giả nói trên chưa phải là những tác phẩm mang cảm hứng phê phán rõ rệt. Một số nhà văn còn mang nặng quan niệm văn dĩ tải đạo, thường dùng nhân vật làm phát ngôn cho những lý thuyết về số kiếp, về quả báo. Trong giai đoạn những năm 30 của thế kỷ XX, xã hội thực dân phong kiến ở nông thôn cũng như thành thị ngày càng bộc lộ những vấn đề nhức nhối đang tấy lên trầm trọng. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) và thoái trào cách mạng, khuynh hướng lãng mạn xuất hiện và chiếm ưu thế trên đàn văn học công khai. Tuy nhiên, những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao vẫn lần lượt ra đời khẳng định vị trí của văn học hiện thực phê phán. Cảm hứng chung của văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 là vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán một cách gay gắt các thế lực thống trị xã hội trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người đặc biệt là những con người bị vùi dập, chà đạp. Trong những trang viết về hiện thực xã hội thời kỳ 1930-1945, ta thấy hiện lên một cách sinh động không chỉ là cuộc sống của người nông dân mà còn là thân phận của những người trí thức tiểu tư sản nghèo với số phận đầy trắc trở, khó khăn và bế tắc. Trong thời kỳ mặt trận dân chủ, văn học hiện thực phê phán phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, lực lượng sáng tác ngày càng đông đảo hơn. Ngoài Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Tú Mỡ, Vũ Trọng Phụng còn có thêm Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp…Nếu như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng là những nhà văn tiêu biểu cho văn xuôi hiện thực phê phán những năm 1930-1939 thì Nam Cao lại là ngọn cờ tiên phong của văn xuôi trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai. Cùng với Nam Cao, xuất hiện hàng loạt các cây bút trẻ như Tô Hoài, Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Kim Lân… Nối tiếp dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945 là trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở Việt Nam từ sau năm 1945. Trong một 9
  14. khoảng thời gian dài tồn tại và phát triển, dòng văn học này đạt được những thành tựu rực rỡ với những nhà văn có tầm cỡ như Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải, Anh Đức, Nguyễn Minh Châu,… Xã hội mới ở nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám đã biến chuyển một cách hùng hậu với các sự kiện to lớn diễn ra dồn dập, nhanh chóng vô cùng. Trong 30 năm chiến tranh cách mạng xảy ra, biết bao con người đã sống chung trong một bầu không khí tuy mất mát nhưng cũng hiển hách những chiến công vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc. Khí thế cách mạng như làn sóng lan nhanh làm thay đổi bộ mặt của từng vùng đất, từng số phận con người. Trong giai đoạn này, bản chất anh hùng cách mạng được kết tinh một cách rực rỡ trong những hình tượng anh hùng, chiến sĩ. Những con người đẹp có tâm hồn trong trẻo và hành động cao cả đã tạo nên một sức hấp dẫn kỳ diệu đối với các nhà văn để chúng ta có thể thấy được từng nét đẹp trong tâm hồn của những anh hùng chống thực dân Pháp ở Tây Nguyên, những dũng sĩ diệt Mỹ ở Củ Chi, những nữ anh hùng như Út Tịch ở Trà Vinh, Nguyễn Thị Hạnh ở Long An, Trần Thị Tâm ở Quảng Trị…và anh hùng Trần Thị Lý, bà mẹ Suốt, Nguyễn Văn Trỗi, anh giải phóng quân, những cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc… Tất cả họ đã trở thành những hình tượng mang vẻ đẹp lý tưởng trong thơ Tố Hữu. Hiện thực đấu tranh cách mạng trong giai đoạn cách mạng 1945-1975 cũng là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa. Để chiến đấu cho lý tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhiều thế hệ đã lên đường hành quân đi cứu nước. Hiện thực cao cả đó là đối tượng của thi ca, đặc biệt là anh hùng ca. Cảm hứng về Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, về sự thắng lợi tất yếu của cách mạng, đó là chất thép, là nguyên tắc cơ bản của thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa. Văn học thời kỳ sau năm 1945 có đặc điểm và quy luật phát triển riêng do yêu cầu của thời đại cách mạng - phản ánh kịp thời, ca ngợi nhiệt thành chủ 10
  15. nghĩa anh hùng toàn dân, hướng tới miêu tả cái đẹp, cái cao cả. Nguyễn Khải là tác giả với tư chất của một cán bộ chính trị, một quân nhân từng trải các vấn đề nóng hổi của xã hội như vấn đề chủ nghĩa cá nhân khoác áo tập thể (Truyện ngắn Tầm nhìn xa), vấn đề tôn giáo trong đời sống chung (truyện ngắn Xung đột), vấn đề hạnh phúc cá nhân trong đời sống chung (truyện ngắn Mùa lạc). Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Khải thường phân tích sắc bén các mối quan hệ giữa con người với con người, quan hệ đạo đức mới xã hội chủ nghĩa. Những nhân vật của Nguyễn Khải có nhiều tỳ vết, khẳng định con người vẫn có thể là nô lệ của thói kiêu ngạo, ham thích phô trương và chuộng hình thức. Ông khẳng định, con người vẫn có thể mất tự do nếu còn đố kỵ, chỉ nhìn và tìm thấy cái xấu của con người, nếu vị kỷ và thờ ơ trước số phận của người khác. Lối viết tỉnh táo, trí tuệ của Nguyễn Khải dường như được viết thành các tuyến nhân vật đối lập nhau: tốt - xấu hay còn gọi là tích cực – tiêu cực. Văn học giai đoạn 1975-2000 phát triển phong phú, đa dạng và phức tạp hơn nhiều so với giai đoạn 1945-1975. Nhờ có công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng năm 1986, xã hội Việt Nam có những chuyển động tích cực, tuy nhiên, văn học cũng đứng trước những thách thức mới trong cơ chế kinh tế thị trường luôn song hành tồn tại hai mặt tích cực và tiêu cực. Trong giai đoạn này, nổi bật những tác giả văn xuôi có tên tuổi như: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Y Ban, Trầm Hương, Trần Thanh Hà, Như Bình,… Bên cạnh đó, lớp nhà văn thời kỳ trước như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Kiên, Xuân Thiều…vẫn tiếp tục hăm hở viết bằng cảm xúc sâu lắng của mình. Văn học sau 1975 chú trọng nghiên cứu thực trạng tinh thần xã hội Việt Nam sau chiến tranh, đó là một hiện thực phức tạp, đa dạng, đan xen mặt sáng và tối trong đời sống cũng như những thay đổi trong nhận thức và tình cảm con người. Nhà văn nhờ ngọn gió lành của công cuộc đổi mới đã có thể nhìn thẳng vào sự thật, viết về mọi sự thật. Sau năm 1980, trong văn học đương đại hình 11
  16. thành khuynh hướng văn xuôi đời tư - thế sự, các nhà văn gọi là văn xuôi đời thường cùng tồn tại như một dòng quan trọng bên cạnh văn xuôi sử thi. Văn học có thể viết về mọi chuyện kể cả những điều phiền toái nhất của đời sống, văn học nói chung đã có điều kiện nhìn sâu hơn vào thế giới sâu kín, những điều nhỏ bé của con người, về các trạng huống tinh thần tinh tế của nó trong thế giới tâm linh (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu). Âm hưởng phê phán - sự phê phán trên tinh thần nhân văn, cầu thị vang lên mạnh mẽ: truyện ngắn Người không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân, truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Gió từ miền cát của Xuân Thiều… Trong thời kỳ đổi mới, nhà văn nhìn lại một cách toàn diện và sâu sắc hơn những sự kiện, biến cố dồn dập của quá khứ. Chính trong thời điểm đầy biến động này của hiện thực cuộc sống đã giúp nhà văn nhìn rõ những nét bản chất của hiện thực quá khứ và hiện tại. Nếu như trước đây, nhà văn chỉ kịp thời phản ánh được một vài khía cạnh của hiện thực, bộc lộ được một vài cảm xúc hoặc ca ngợi, hoặc phê phán thì giờ đây, bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, các tác giả đã có thể dựng lại những bức tranh chân thực và rộng lớn với tất cả sự đa dạng của hiện thực phong phú và phức tạp của đời sống với sự đan xen của cái cao cả và cái thấp hèn, cái thiện và cái ác… Lúc này hiện thực cuộc sống đã được phản ánh một cách đa diện, nhiều chiều mà trung tâm của nó là con người thời đại với những số phận cụ thể gắn liền với vận mệnh của dân tộc, đất nước. Cảm hứng sự thật được thể hiện là sự gắn kết của cảm hứng sử thi và cảm hứng đời thường. Những tác phẩm viết theo xu hướng này đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của cuộc sống, giúp người đọc nhìn rõ bản chất của hiện thực trong bối cảnh cuộc sống trắng đen lẫn lộn, thật giả khó phân tách, khó nhận biết. Cảm hứng phê phán trong văn học là một vấn đề đã được bàn đến từ lâu khi nói về văn học hiện thực XHCN và được xác định như một nhiệm vụ song song bên cạnh nhiệm vụ khẳng định, ca ngợi cái đẹp, cái anh hùng. Đồng chí 12
  17. Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Chúng ta cần khuyến khích sự phê phán và có nhiệm vụ phê phán những cái xấu, cái không đúng còn tồn tại trong xã hội ta, để loại trừ nó, để phá bỏ nó” (Xây dựng nền văn hóa văn nghệ ngang tầm vóc dân tộc ta, thời đại ta, NXB Sự Thật, H. 1979, tr47). Nền văn học hiện thực XHCN đã vượt qua văn học hiện thực phê phán ở nhiệm vụ lịch sử mới của nó là khẳng định xu thế phát triển theo chiều hướng tiến bộ và chiến thắng của hiện thực mới - hiện thực tốt đẹp của xã hội XHCN. Văn học hiện thực XHCN của chúng ta chỉ thực sự là vũ khí đấu tranh cách mạng, đấu tranh cho những tư tưởng nhân văn của con người khi nó đồng thời làm tốt hai nhiệm vụ phê phán và khẳng định như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là nó phải “phò chính trừ tà”. Nhiều tác giả văn học thời kỳ hiện đại đã ngày đêm trăn trở, viết nhiều trang sách để phản ánh chân thực sự phức tạp, bề bộn của cuộc sống. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp thì Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái là những tác giả tiêu biểu viết về đề tài này. Mỗi người một tâm sự, một cảm nhận khác nhau, nhưng ở đó tất cả đều là nỗi đau nhân thế khi phải chứng kiến sự thực cay nghiệt của cuộc sống. Sự xuống dốc trong quan niệm sống, thói tư duy giáo điều máy móc, sự tôn thờ chủ nghĩa vật chất, sự coi trọng quyền lực, con người sa đoạ, độc ác, giả dối… Muôn vàn những nhức nhối của cuộc sống được miêu tả trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái khiến ta thấm thía hơn bao giờ hết cái đa đoan, đa sự của cuộc sống thường nhật hôm nay. Viết không chỉ là phê phán thuần tuý, phủ định sạch trơn những mặt tiêu cực còn tồn tại trong xã hội, viết nhiều về cái xấu, cái ác nhưng các tác giả đều không hề mất đi niềm tin vào con người và cuộc sống. Khát khao hướng thiện và xây dựng một cuộc sống tươi đẹp trong tâm hồn mỗi con người chính là thông điệp mà các tác giả muốn gửi tới bạn đọc. 13
  18. 1.2. Những vấn đề nổi bật trong nội dung phản ánh cái xấu trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái 1.2.1. Con người tha hoá vì chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi Macxim Goorky đã từng nói: “văn học là nhân học”, văn học luôn quan tâm đến đời sống của con người, đến thân phận con người và có nhiều khám phá mới về con người. Văn học nói chung và các sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái nói riêng đều quan tâm đến giá trị cá nhân trong cuộc sống thường nhật. Cho nên, bên cạnh những khía cạnh ưu việt đáng được ca ngợi, cổ vũ của xã hội thì cũng cần lên án, phê phán những khiếm khuyết, những kẽ hở của xã hội đã tạo điều kiện cho cái xấu, cái ác nảy nở, hoành hành. Một trong những điều nhức nhối mà văn học hiện đại đề cập đến chính là thực tế một số không nhỏ con người đang ngày càng biến chất, tha hoá nhân cách vì mải mê chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi. Trong cuộc sống hiện nay, không ít “con người vì cái lợi vật chất đang hèn đi, tầm thường đi” (Ma Văn Kháng). Nói đến những yếu tố khiến con người rơi vào tình trạng tha hoá nhân cách thì không thể không kể đến sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền có sức mạnh chi phối đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người. Đứng trước sự cám dỗ của đồng tiền, con người không biết kìm hãm lòng tham và dễ dàng trở thành nô lệ của đồng tiền, trở nên tha hoá nhân cách. 1.2.1.1. Nhân vật trí thức tha hoá về nhân cách Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái là một trong số các tác giả thường đi sâu khai thác về mảng đề tài thế sự đời tư của con người hiện đại. Qua những tác phẩm của ba nhà văn, ta thấy một xã hội đa chiều, đa màu sắc được tái hiện một cách sinh động dưới ngòi bút đậm tình người, với chiều sâu của tâm tư, với khao khát cháy bỏng về một cuộc sống nhân ái, tốt đẹp. Trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, bên cạnh nội dung ca ngợi những trí thức giàu phẩm chất, tâm huyết thì các tác giả còn chú trọng tới việc xây dựng 14
  19. nên loại trí thức tha hoá về nhân cách. Trí thức tha hoá về nhân cách là những con người vốn mang danh là trí thức nhưng nhân cách đã bị huỷ hoại mạnh mẽ bởi đồng tiền, bởi danh vị, họ đã lợi dụng quyền lực của mình để gây ra bao nỗi éo le, bi kịch cho những người có tài, có tâm, những con người có đạo đức trong xã hội. Đáng tiếc và đau đớn nào bằng sự tha hoá của kẻ có học lại bắt nguồn, có mầm, cõ rễ từ những ham hố cá nhân và trước sức mạnh của vật chất thì sự tha hoá của người tri thức còn đáng sợ gấp ngàn lần hơn sự tha hóa của kẻ vô học. Ma Văn Kháng bắt đầu đến với văn chương từ năm 1959 với truyện ngắn Phố cụt trong thời điểm cuộc chiến tranh của dân tộc đang diễn ra cam go, khốc liệt. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, Ma Văn Kháng có quan niệm khác nhau về con người. Trong sáng tác sử thi của Ma Văn Kháng, ông thường viết với mạch cảm xúc chung của văn học cách mạng với sự phân định rõ ràng của hai thái cực: tốt - xấu, ta - địch, bạn - thù. Sáng tác giai đoạn đầu của Ma Văn Kháng chủ yếu ca ngợi con người mới của thời chiến tranh vệ quốc có đau thương, mất mát mà hào hùng. Bước chân của ông nối tiếp nhà văn Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Mạc Phi…để khẳng định những giá trị cao đẹp trong tâm hồn của con người miền núi nói chung và đồng bào Tây Bắc nói riêng. Bước sang giai đoạn mới, cùng với sự chuyển mình của đất nước, dân tộc, thì văn học cũng có những sự thay đổi lớn. Nếu các tác phẩm mang tính sử thi trọng tâm tạo dựng bức tranh lịch sử hoành tráng về một thời đại chiến tranh có mất mát hy sinh mà không kém phần hào hùng của các dân tộc vùng biên ải thì tiểu thuyết thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng nhiều khi khiến cho người đọc cảm thấy nhà văn đang đối thoại với cuộc sống, đối thoại với con người, đối thoại với những dòng chảy cảm xúc của nhân vật mà ông đang đào sâu, tìm tòi để thể hiện chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Những sự kiện đời sống trong tác phẩm của Ma Văn Kháng là những sự kiện của cuộc sống đan kết bởi vô vàn điều bất ngờ, nhỏ nhặt. Khác với cái quyết liệt trong đời sống chiến tranh, người ta có thể nhận định rõ được ranh giới giữa hai thái cực tốt - xấu, trắng - đen, chính - tà của cuộc 15
  20. sống, trong cuộc sống thời hậu chiến bề ngoài có vẻ như bình yên nhưng trong lòng đầy mâu thuẫn đã trở thành cuộc chiến nội tâm dai dẳng hiện diện trong mối con người, mỗi số phận, mỗi gia đình. Thật dễ hiểu vì sao sau chiến tranh, con người không còn ở thế giằng co giữa sự sống và cái chết nhưng trong tâm hồn luôn luôn cảm thấy chông chênh, lạ lẫm với chính mình. Với giọng văn mềm mại, hiền lành nhưng quyết liệt, Ma Văn Kháng viết về những mặt trái của xã hội với nội dung nhấn mạnh ma lực của đồng tiền đã làm hoại suy ý chí, tình cảm và nhân cách của con người một cách mạnh mẽ. Ma Văn Kháng đã từng khẳng định: “Lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền là một hoàn cảnh lắm vi trùng làm cho con người ta bị nhiễm một thứ bệnh mất nhân tính” (Mùa lá rụng trong vườn). Cũng như những nhà văn khác như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng đã không ngần ngại nhấn mạnh giá trị vật chất của đồng tiền ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân tính của con người. Một trong những tác phẩm đề cập đến vấn đề này của ông là: Đám cưới không có giấy giá thú (1988), Côi cút giữa cảnh đời (1989) và Ngược dòng nước lũ (1999). Đám cưới không có giấy giá thú (1988) ra đời được bạn đọc đón nhận một cách nồng nhiệt. Đọc tiểu thuyết này, độc giả khó có thể quên được cảm giác xót xa đến não nề dâng trào trong lòng mình bởi vô vàn những trái khoáy ập vào số phận của từng nhân vật. Đây là một tác phẩm phản ánh sâu sắc hình ảnh những con người bị cơn lốc ham muốn vật chất cuốn đi trong nền kinh tế thị trường có vô vàn điều cám dỗ lòng người. Họ đã bị những dục vọng tầm thường, những cơn lốc của ham muốn cuốn trôi một cách mạnh mẽ. Trước thực tế ấy, nhiều người đã bị mất nhân cách, bản lĩnh của mình. Ma Văn Kháng tập trung phản ánh hiện tượng những trí thức bị tha hoá, tự đánh mất giá trị bản thân mình một cách sinh động với một tâm trạng buồn đến da diết. Sự sùng bái đồng tiền trở thành biểu hiện bằng cuộc chạy đua đầy cuồng vọng đuổi bắt những món lợi vật chất tầm thường hàng ngày. Sau những 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2