intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:258

154
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ dưới đây gồm có 3 chương trình bày về khái quát về ca dao và ca dao về Bác Hồ, thể thơ và kết cấu của ca dao về Bác Hồ, ngôn ngữ của ca dao về Bác Hồ. Với các bạn chuyên ngành Văn học thì đây là tài liệu hữu ích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ THUÝ KIỀU ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA CA DAO VỀ BÁC HỒ LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Điệp – Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã rất tận tâm, nhiệt tình chỉ dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của : - Quý thầy cô giáo - Phòng sau Đại học trường ĐHSP TP.HCM - Các cơ sở cung cấp dữ liệu (thư viện-trang web-các bài báo-các cá nhân có tài liệu hỗ trợ) - Gia đình, người thân - Bạn bè gần xa, đồng nghiệp … Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2010 Tác giả Nguyễn Thị Thúy Kiều
  3. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ca dao là một thể loại của văn học dân gian Việt Nam, là những sáng tác trữ tình biểu hiện tình cảm, nỗi niềm của con người trong cuộc sống như tình bạn, tình yêu, tình cảm gia đình, quê hương, đất nước,…Những tâm tư ấy xuất phát từ trái tim của con người. Đối tượng mà ca dao hướng đến có thể là người bạn, người yêu, người thân, người anh hùng dân tộc… Chủ tịch Hồ Chí Minh là đề tài vô tận cho thơ ca. Tìm hiểu về Bác bao giờ cũng là một nhu cầu lớn và khẩn thiết của nhân dân. Hàng loạt các bài viết, các công trình nghiên cứu về cuộc đời Bác, tấm gương đạo đức của Bác, sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp thơ văn của Bác…ra đời. Hình tượng Bác được xây dựng chân thật và đẹp đẽ trong nhiều loại hình nghệ thuật như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc, sân khấu, …nhưng có lẽ thành công nhất là thơ ca, trong đó có ca dao. Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật lịch sử thời hiện đại được ca dao hướng đến để nhận thức. Ca dao về Bác chiếm số lượng khá lớn trong mảng ca dao hiện đại. Thế nhưng, hiện nay bộ phận ca dao về Người chưa được nghiên cứu bao nhiêu. Để hiểu sâu hơn mảng ca dao này, chúng tôi chọn đề tài Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ. Ca dao bày tỏ tình cảm, nguyện vọng, suy nghĩ của nhân vật trữ tình nhưng không phải chỉ bày tỏ tình cảm cá nhân mà còn đại diện cho quảng đại quần chúng nhân dân. Cho nên, khảo sát đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về tình cảm của nhân dân đối với Bác. Nghệ thuật ca dao nói chung và ca dao về Bác nói riêng rất đa dạng. Thể thơ, kết cấu, ngôn ngữ, hình ảnh, thời gian, không gian…tất cả những đặc điểm ấy đã được các tác giả dân gian vận dụng khá linh hoạt, góp phần làm nổi bật tình cảm của Bác đối với nhân dân cũng như tình cảm của nhân dân đối với Bác. Hơn nữa, đặc điểm nghệ thuật của ca dao thì hầu như đã được các nhà nghiên cứu chú ý tới từ lâu, phân tích, mổ xẻ rất nhiều. Riêng về đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác thì rải rác chỉ một số bài viết. Chính vì thế, người viết mong muốn với đề tài luận văn này có thể góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao nói trên. 2. Lịch sử vấn đề Việc tìm hiểu ca dao về Bác đã và đang được nhiều người quan tâm. Liên quan đến đề tài “Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ” có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau đây:
  4. Thi Nhị có bài “Bác Hồ và nguồn ca dao mới” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian số 4/1984. Bài viết chủ yếu nói về tình cảm mãnh liệt, sâu đậm của nhân dân đối với Bác Hồ kính yêu qua ca dao. Tác giả cũng đề cập đến một đặc điểm về ngôn ngữ của mảng ca dao này, đó là việc sử dụng phương pháp tỉ dụ quen thuộc của ca dao cổ truyền để khắc họa một cách chân thực, gần gũi, mộc mạc hình ảnh của lãnh tụ. “ …với phương pháp tỉ dụ quen thuộc của ca dao truyền thống, đã khắc họa một cách chân xác và nghệ thuật song lại rất gần gũi, mộc mạc hình ảnh của lãnh tụ: Tháp Mười đẹp nhất bông sen / Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” [ 64,5] Với hai công trình “ Suy nghĩ về cảm quan dân gian qua hình tượng Bác Hồ” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian , số 1/1990 và “ Một nét đẹp trong bức tranh văn hóa dân gian đương đại: ca dao về Bác Hồ” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian số 4/1991, Nguyễn Xuân Lạc đã đề cập đến cảm quan dân gian đối với Bác qua ca dao. Tác giả cho rằng hình tượng Bác Hồ trong ca dao đã được sáng tác theo cảm quan “ thần thánh hóa”. Với cảm quan này, ca dao tìm đến những biểu trưng của cái đẹp tuyệt đối, cái đẹp toàn bích, lý tưởng để thể hiện lãnh tụ. Và chính cảm quan ấy đã chi phối bút pháp nghệ thuật của ca dao về Bác. Đó là bút pháp thiên về tượng trưng, khái quát hơn là miêu tả những chi tiết sống thật của con người Bác, cuộc đời Bác. “Để diễn tả một con người có “tầm vóc thế kỷ” như Bác, thì sử dụng bút pháp tượng trưng và khái quát là thích hợp, bút pháp này có nhiều khả năng để tôn cao đối tượng thẩm mỹ theo cảm quan “thần thánh hóa” của nhân dân ta. Bằng bút pháp ấy, ca dao quần chúng đã dựng lên những hình ảnh cao đẹp, rộng lớn, hùng vĩ, thiêng liêng về Bác với nghệ thuật so sánh ví von truyền thống đậm đà: mặt trời, vầng Thái Dương, sao Bắc Đẩu, gương Hồ Thủy, hòn Thái Sơn, trời đất, sông bể, hoa sen, hương quế, hương trầm…bởi vì chỉ có những hình ảnh ấy thì mới xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của Bác và mới thỏa tấm lòng ngưỡng mộ, tôn kính, biết ơn của nhân dân ta đối với Bác”.[34, 9] Trần Gia Linh với bài viết “Bốn mươi lăm năm ca dao dâng Bác” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian số 1/1990 đã khẳng định: “ Ca dao diễn tả về Người như một sự thống nhất tuyệt diệu giữa cái vĩ đại trong sự bình dị; giữa những hình ảnh kì vĩ có tính chất thần thoại với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với mọi người; giữa cái tượng trưng cao độ với cái hiện thực sâu sắc trong phương pháp biểu hiện.” [ 39,30] Với tiểu luận “Tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với Bác Hồ qua ca dao” trong công trình biên soạn “Ca dao về Bác Hồ”, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội-2003, Trần Quang Nhật đã có những đóng góp đáng kể trong việc khẳng định ca dao về Bác đa số sử dụng lối so
  5. sánh. Hướng so sánh thứ nhất là “so sánh hai cuộc đời: cuộc đời lầm than của người dân mất nước trong xiềng xích nộ lệ, dưới hai tầng áp bức bóc lột của thực dân phong kiến và cuộc đời sống trong độc lập tự do hòa bình mà Bác và Đảng đã dành lại cho đất nước” [58, 15]. Hướng so sánh thứ hai là “so sánh công ơn của Bác với những gì thiêng liêng nhất, kì vĩ nhất trong cuộc sống trần gian và trong thiên nhiên vũ trụ”[ 58, 17]. “Để tỏ rõ niềm tin của mình đối với Bác Hồ, một lần nữa qua ca dao, nhân dân ta đã dùng thủ pháp nghệ thuật so sánh. So sánh Bác như sao Bắc Đẩu, như vầng Thái Dương soi đường chỉ lối cho nhân dân ta đi lên” [58, 30] Với bài viết “Tìm hiểu công thức truyền thống trong một số bài ca dao mới Nam Bộ về hình ảnh Bác Hồ” đăng trên website http://cadaotucngu.daitudien.com, Trần Tùng Chinh đã cho thấy ca dao về Bác có sự kế thừa một số công thức truyền thống của ca dao cổ truyền. “Các bài ca dao mới nói chung và ca dao về Bác nói riêng còn thiếu sự trau chuốt nhưng lại thừa sự mộc mạc tự nhiên. Tuy nhiên, những công thức truyền thống quen thuộc của ca dao xưa vẫn in dấu và làm nên chất dân gian trong những bài ca” [4] Theo Hà Công Tài trong bài viết “Vấn đề sưu tầm nghiên cứu thơ ca dân gian hiện đại” đăng trong cuốn “Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội – 2001, thì mảng ca dao về Bác chưa được nghiên cứu bao nhiêu, dù đây là bộ phận có khối lượng lớn nhất trong ca dao hiện đại. Khi nghiên cứu về bộ phận này, Hà Công Tài nhận thấy rằng chúng có nhiều đặc điểm rất tiêu biểu cho ca dao thời hiện đại, từ cách cảm nhận và phản ánh cuộc sống tới đặc điểm thi pháp, từ hoàn cảnh lưu truyền tới sự gắn bó với truyền thống ca dao của dân tộc trong suốt trường kỳ lịch sử. Nhìn chung, ở các công trình nghiên cứu trên, bên cạnh việc bàn về nội dung thì cũng bàn đến thi pháp của ca dao về Bác, trong đó có một số đặc điểm nghệ thuật như kết cấu, ngôn ngữ, hình ảnh. Tuy nhiên, vẫn chưa có một chuyên luận nào về đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác, nếu có thì có lẽ chúng tôi chưa đọc được. Đa phần, khi bàn về nghệ thuật của mảng ca dao này, các nhà nghiên cứu nói về sự kế thừa các công thức truyền thống trong kết cấu, các biện pháp tu từ trong ngôn ngữ và các hình ảnh thiên nhiên đã trở thành biểu tượng. Còn các đặc điểm nghệ thuật khác thì người nghiên cứu ít chú ý. Kế thừa thành tựu của người đi trước, chúng tôi phát triển thành một chuyên luận về Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ. Chúng tôi hi vọng đề tài sẽ góp thêm một tiếng nói mới về đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao này. 3. Mục đích nghiên cứu
  6. Đây là một đề tài chưa được nghiên cứu chuyên sâu, vì thế, mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là hệ thống một số đặc điểm nghệ thuật chủ yếu để từ đó nhận thức rõ hơn giá trị của bộ phận ca dao về Bác. Luận văn góp phần cung cấp một cái nhìn đầy đủ hơn về nghệ thuật của ca dao về Bác ở ba phương diện: thể thơ, kết cấu và ngôn ngữ. Từ đó làm rõ hơn giá trị đặc sắc của mảng ca dao này, hiểu thêm về thể loại ca dao, hiểu thêm mối tương quan giữa ca dao về Bác với ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại. 4. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi khảo sát đề tài dựa trên một số công trình sưu tầm, tuyển chọn ca dao, cụ thể sau đây: - Công trình sưu tầm ca dao Nam bộ về Bác Hồ của Bùi Mạnh Nhị mang tên “Sen Tháp Mười” do Nxb TPHCM xuất bản năm 1980. Với công trình này, tác giả đã sắp xếp ca dao theo các chủ đề: Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ, Miền Nam ơn Bác muôn vàn Bác ơi, Lòng dân với Bác vuông tròn thủy chung và phần cuối tác giả còn giới thiệu thêm một số bài ca dao của các dân tộc ít người với mong muốn giới thiệu sự đa dạng, độc đáo của hệ thống ca dao về Bác ở nhiều dân tộc trong đại gia đình Tổ quốc Việt Nam. Bộ sưu tập này gồm 145 bài của dân tộc Kinh và 16 bài của dân tộc ít người ở Nam bộ. - Công trình “Ca dao về Bác Hồ” của Trần Hữu Thung do Nxb Hà Tĩnh, 1981. Công trình này bao gồm hai phần. Phần thứ nhất là một vài cảm nhận của tác giả nhân đọc ca dao về Bác Hồ. Phần thứ hai tác giả giới thiệu các bài ca dao đã sưu tầm được nhưng không sắp xếp theo một trật tự nhất định nào. Tất cả gồm 227 bài ca dao. - Công trình sưu tầm “Ca dao về Bác Hồ” của Trần Quang Nhật, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003. Tập sách gồm hai phần chính: tiểu luận và sưu tầm. Trong phần sưu tầm, để độc giả tiện tra cứu, tác giả đã sắp xếp các bài ca dao theo chủ đề: Bác Hồ - công ơn trời biển, Bác Hồ - mối quan hệ máu thịt với quần chúng, Bác Hồ - niềm tin tất thắng của dân tộc, Bác Hồ - động lực thúc đẩy toàn dân thi đua chiến đấu và sản xuất, Bác Hồ trong lòng đồng bào dân tộc ít người. Tuy nhiên, tác giả cho rằng cách sắp xếp trên đây chỉ là tương đối, bởi vì các khía cạnh tình cảm của nhân dân đối với Bác Hồ thường đan chéo với nhau. Trong một bài ca dao nhiều khi có cả khía cạnh này, và khía cạnh kia, cái này là nguyên nhân, cái kia là sự thể hiện và ngược lại, khó mà phân định rạch ròi được. Tổng số bài ca dao trong tập này là 253. - Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những quyển như: “ Ca dao Bảo Định Giang”, “ Tục ngữ ca dao Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan, “ Ca dao chống Mỹ -tập 2”, “ Ca dao chiến sĩ -tập 5”,“ Ca dao chiến sĩ -tập 6”, “ Ca dao Đồng Tháp Mười”, “ Ca dao sưu tầm - Từ 1945 đến nay”,
  7. ca dao Nam bộ, ca dao Nam Trung bộ, ca dao dân ca đất Quảng, ca dao Hải Hưng, ca dao ngoại thành… Sau khi tổng hợp, loại bỏ những bài trùng lặp, chúng tôi thống kê được tất cả 521 bài. Ở luận văn này, người viết chỉ khảo sát ca dao về Bác Hồ của người Kinh không khảo sát ca dao của dân tộc thiểu số. 5. Phương pháp nghiên cứu Với đề tài này, người viết sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: hệ thống, so sánh, liên ngành, thống kê. Mỗi bài ca dao được sản sinh và tồn tại theo hệ thống ca dao cùng thể loại. Do vậy, phương pháp hệ thống và so sánh được tiến hành dựa trên nguyên lý về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, dùng cái chung (ca dao) để hiểu cái riêng (ca dao về Bác) và từ cái riêng (ca dao về Bác) để hiểu cái chung (ca dao), thấy được sự phong phú đa dạng và hấp dẫn của ca dao. Đặt ca dao về Bác trong hệ thống của nó để phát hiện ra các đặc điểm chung và nét độc đáo riêng về nghệ thuật của nó. Cụ thể là đặt ca dao về Bác vào hệ thống ca dao nói chung, hệ thống ca dao hiện đại nói riêng. Phương pháp này giúp xác định vị trí hay “tọa độ” của ca dao về Bác trong mối quan hệ với các bộ phận ca dao khác như ca dao cổ truyền, ca dao hiện đại để giúp đánh giá đầy đủ giá trị và ý nghĩa của bộ phận ca dao về Bác. Những đặc điểm chung của thể loại chi phối bộ phận ca dao này rất nhiều về mặt nghệ thuật. Từ những đặc điểm nghệ thuật của thể loại ca dao mà nhận ra được những đặc điểm nghệ thuật phổ biến nhất của bộ phận ca dao về Bác (chẳng hạn về dung lượng, đề tài, thủ pháp nghệ thuật). Đồng thời bộ phận ca dao này chắc chắn có những đặc điểm riêng về mặt nghệ thuật. Từ những điểm chung và điểm riêng đó mà xác định vị trí của nó trong một hệ thống và đánh giá được ý nghĩa của nó trong hệ thống đó. Ca dao về Bác không tồn tại biệt lập trong nền văn học dân gian nên không thể thiếu phương pháo so sánh khi nghiên cứu. Người viết sẽ tiếp cận đa diện để hiểu rõ bản chất và vị trí của bộ phận ca dao này trong mối tương quan đa chiều với các bộ phận ca dao khác. Nhìn từ nhiều góc độ sẽ giúp đánh giá chính xác và toàn diện về đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác. Trước hết người viết so sánh đặc điểm nghệ thuật giữa các bài ca dao về Bác với nhau để tìm ra nét chung tiêu biểu. Sau đó, còn so sánh với ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại về mặt kết cấu, thể loại và ngôn ngữ. Phương pháp liên ngành (phương pháp ứng dụng khoa học liên ngành) là một phương pháp đặc biệt quan trọng. Nhìn chung phương pháp này được diễn ra theo hai hướng song song. Một là người viết tiếp cận ca dao về Bác bằng những kiến thức ngữ văn học, cụ thể là những lý
  8. luận về phương diện nghệ thuật. Đối với hướng tiếp cận này, người viết sử dụng các phương pháp phân tích văn học, vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và kĩ năng cần thiết của văn (gồm lý luận văn học, lịch sử văn học, ngôn ngữ học). Đặc biệt, ca dao về Bác là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ nên phải được tiếp nhận, cảm thụ và “giải mã” thông qua ngôn ngữ học. Đồng thời tiếp cận tác phẩm trong đời sống dân gian của nó. Hai là người viết tiến hành lí giải, cắt nghĩa đặc điểm nghệ thuật ca dao về Bác bằng kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học tương cận là dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, lịch sử học, địa lý học, văn hóa học…Những dữ kiện đó là truyền thống, phong tục, tập quán, những đặc điểm tự nhiên, những sử kiện lịch sử, …nhất là lịch sử dân tộc trong giai đoạn 1945 – 1975. Từ những đặc điểm tự nhiên, lịch sử, văn hóa có liên quan đến ca dao về Bác để truy tìm, lí giải căn nguyên, cách thức và ý nghĩa của thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, nêu lên những chức năng tư tưởng và chức năng nghệ thuật của chúng. Nhưng cuối cùng tất cả sẽ được xử lí theo góc độ tiếp cận của ngành ngữ văn học, cụ thể là bộ môn Văn học dân gian. Người viết còn sử dụng phương pháp thống kê để thống kê tần số xuất hiện của các thể thơ, kết cấu, hình ảnh, từ ngữ. Dựa vào kết quả và những số liệu thống kê đó, người viết có thể khái quát thành những đặc điểm nghệ thuật cụ thể. Các phương pháp trên được kết hợp đan xen chứ không phải sắp xếp chúng kế cận nhau, để giúp khảo sát đặc điểm nghệ thuật ca dao về Bác theo một trình tự khoa học hợp lý và có thể nhận ra thuộc tính của đối tượng. Bởi vì, ca dao về Bác không phải là một đối tượng biệt lập mà luôn nằm trong hệ thống ca dao nói chung và có mối quan hệ tương tác với các bộ phận ca dao khác. Mặt khác, nghệ thuật ca dao về Bác luôn có nhiều khía cạnh, đặc điểm khác nhau mà một phương pháp không bao quát hết được. Các phương pháp trên sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn góp phần đem lại một cái nhìn gần về phương diện nghệ thuật của ca dao về Bác. Luận văn chỉ ra đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Người ở ba phương diện: đặc điểm thể loại, kết cấu và ngôn ngữ. Người đọc có thể thấy được những nét đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật cũng như những đóng góp không kém phần quan trọng của bộ phận ca dao này cho thể loại ca dao, đặc biệt là ca dao hiện đại. Lí giải vì sao bộ phận văn học này lại có sức sống mạnh mẽ trong lòng quần chúng nhân dân hơn 70 năm qua. Đến nay, bộ phận ca dao này vẫn còn sống động và giúp chúng ta hiểu thêm, yêu thêm đời sống tâm tư, cách nghĩ, lối sáng tác tài hoa của nhân dân trong việc ca ngợi người anh hùng. 7. Cấu trúc của luận văn
  9. Ngòai phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung luận văn có 3 chương: Chương 1 : Khái quát về ca dao và ca dao về Bác Hồ. Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một cách chung nhất về khái niệm ca dao; giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại; khái niệm ca dao về Bác Hồ, nội dung, đối tượng sáng tác, hoàn cảnh sáng tác, số lượng tác phẩm của ca dao về Bác Hồ. Chương 2 : Thể thơ và kết cấu của ca dao về Bác Hồ. Đặc điểm thể thơ được triển khai với 3 nội dung: thể lục bát, thể song thất lục bát và thể hỗn hợp. Đặc điểm kết cấu gồm 3 nội dung: kết cấu đối thoại và kết cấu trần thuật; kết cấu đối lập và kết cấu song hành tâm lý; kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp. Chương 3 : Ngôn ngữ của ca dao về Bác Hồ Chúng tôi tiếp tục đề cập đến một số đặc điểm về ngôn ngữ: sự kết hợp giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương; sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường; cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm; cách sử dụng ngôn ngữ trùng lặp và cách sử dụng các biện pháp tu từ. Cuối luận văn có Phụ lục gồm: giới thiệu đầy đủ các văn bản ca dao khảo sát và các bảng thống kê số liệu có liên quan đến đề tài: - Phụ lục 1 thống kê tổng số những bài ca dao về Bác Hồ, kết quả tổng số bài ca dao không trùng lặp là 521 bài. - Phụ lục 2 là bảng thống kê các số liệu về thể thơ của ca dao về Bác và ca dao hiện đại - Phụ lục 3 là bảng thống kê tần số xuất hiện của ngôn ngữ trùng lặp trong ca dao về Bác - Phụ lục 4 là bảng thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh: tự nhiên, thực vật và nhân tạo trong ca dao về Bác.
  10. Chương 1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CA DAO VÀ CA DAO VỀ BÁC HỒ 1.1. Ca dao 1.1.1. Khái niệm Trong sinh hoạt văn học dân gian, có một bộ phận quan trọng là sinh hoạt ca hát, trong đó tiêu biểu nhất là việc diễn xướng ca dao, dân ca. Để chỉ lĩnh vực ca hát dân gian, nhân dân sử dụng các từ: ca, hò, ví, lý, hát giao duyên, hát đối đáp, hát huê tình… Ca dao có nguồn gốc từ dân ca và có mối quan hệ chặt chẽ với dân ca. Thế nên trước khi nêu khái niệm về ca dao, chúng ta cần hiểu dân ca là gì? “Dân ca là những bài hát và câu hát dân gian trong đó có cả phần lời và phần giai điệu” [ 29, 411]. Khi nói đến dân ca Việt Nam, không phải là nói đến những bài, những câu hát nhất định, mà còn là nói đến những hình thức sinh hoạt dân ca nhất định nữa. Hay nói cách khác, đời sống tồn tại của dân ca rất đa dạng và phong phú. Trước hết, dân ca gắn với các sinh hoạt của người bình dân như: nghi lễ, lao động và sinh hoạt gia đình, xã hội. Ngoài ra, dân ca còn gắn với nhiều môi trường diễn xướng như: trên cạn, dưới nước. dân ca gắn với nhiều thời điểm trong năm như: cúng tế, lễ hội, ngày thường; gắn với mọi giai đoạn của đời người như: sinh ra, trưởng thành, cưới hỏi, tang ma… Và dĩ nhiên, dân ca tồn tại khắp các vùng miền: Bắc, Trung, Nam, khắp các dân tộc trên đất nước. Bàn về khái niệm ca dao, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra ý kiến của mình. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chọn những ý kiến tâm đắc nhất. Chu Xuân Diên nhận định: “Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán -Việt. Theo cách hiểu thông thường thì ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy…hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca”[29, 436]. Nguyễn Xuân Kính cho rằng: “Ca dao là những sáng tác văn chương được phổ biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ mang những đặc điểm nhất định và bền vững về mặt phong cách. Và ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian”[32, 79]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học thì nhận định: "dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi).” [24,26].
  11. Ở mỗi tác giả, tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng cùng thống nhất nhau về quan điểm: ca dao là tiếng hát tâm tình về cuộc sống của nhân dân lao động, là những sáng tác có vần điệu được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, giữa ca dao và dân ca không có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt giữa ca dao và dân ca chỉ là ở chỗ khi nói đến ca dao, người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian, còn khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định nữa. Dựa vào thời điểm xuất hiện, có thể chia ca dao làm hai bộ phận chính: ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại. Bàn về khái niệm ca dao cổ truyền, Chu Xuân Diên cho rằng: “…đó là bộ phận những câu hát đã trở thành cổ truyền của nhân dân. Gọi là cổ truyền bởi vì những câu hát này được phổ biến rộng rãi và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Gọi là cổ truyền, bởi vì những câu hát này mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách…trở thành khuôn mẫu cho việc sáng tác thơ ca của nhân dân ở các thế hệ sau”[29, 437] Nguyễn Hằng Phương nhận định: “ ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) là khái niệm chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ của dân ca (không kể tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi) được sáng tác từ cách mạng tháng Tám trở về trước”[71]. Tóm lại có thể nói: ca dao cổ truyền (hay còn gọi là ca dao cổ, ca dao truyền thống, ca dao cũ, ca dao xưa) là những bài ca dao sáng tác trước cách mạng tháng Tám, mang những đặc điểm nhất định trở thành khuôn mẫu cho việc sáng tác ca dao của nhân dân ở các giai đoạn sau. Về khái niệm ca dao hiện đại, trong Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, Chu Xuân Diên cho rằng “Chúng tôi dùng khái niệm văn học dân gian hiện đại hay văn học dân gian mới để chỉ văn học dân gian thời kỳ từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 trở lại đây.”[10,34]. Ca dao hiện đại (hay ca dao mới) là một bộ phận của văn học dân gian hiện đại. Cho nên ca dao hiện đại là loại ca dao xuất hiện từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Bên cạnh đó, chúng tôi xin nhắc lại ba tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại của Nguyễn Hằng Phương trong “ Một cách nhận diện ca dao hiện đại” để từ đó xác định khái niệm ca dao hiện đại: Thứ nhất: ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang đặc điểm nghệ thuật dân gian truyền thống, phù hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời sống của nhân dân trong thời kỳ hiện đại.
  12. Thứ hai: ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang tâm lý sáng tác tập thể. Nói cách khác, đối tượng được phản ánh trong tác phẩm là những hiện tượng đời sống gây tác động vào một tập thể nhất định chứ không chỉ gây tác động vào từng cá nhân. Thứ ba: ca dao hiện đại có thể ra đời từ nhiều nguồn: từ những sáng tác mô phỏng của các tác giả chuyên nghiệp, từ những sáng tác của phong trào văn nghệ nghiệp dư, từ trong sinh hoạt văn hóa dân gian. Điều quan trọng là, những tác phẩm ca dao hiện đại ấy phải được lưu truyền rộng rãi trong dân gian bằng phương thức truyền miệng, mang ý nghĩa thẩm mỹ của tính truyền miệng. [74,4] Dựa vào tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại như trên của tác giả Nguyễn Hằng Phương và quan điểm của Chu Xuân Diên trong vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, chúng tôi mạnh dạn đưa ra cách hiểu khái niệm ca dao hiện đại. Ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao ra đời từ sau cách mạng tháng Tám, mang đặc điểm nghệ thuật ca dao truyền thống, phù hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời sống của nhân dân trong thời kỳ hiện đại. Hay nói cách khác đó là những tác phẩm ca dao mang những đặc điểm nghệ thuật truyền thống của ca dao cổ truyền được cải biên và những truyền thống nghệ thuật mới được định hình trên cơ sở tiếp thu những truyền thống nghệ thuật cổ truyền. Tại sao lại chọn mốc cách mạng tháng Tám để chia ra hai bộ phận ca dao như trên? Theo người viết, cách mạng tháng Tám thành công đánh dấu một bước phát triển mới của dân tộc. Đất nước được giải phóng, nhân dân thoát khỏi chế độ phong kiến hơn nghìn năm, giành lại chính quyền, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó cũng là khoảng thời gian nhân dân được học hành, được tự do học tiếng mẹ đẻ mà không sợ bị đàn áp. Từ sau cách mạng tháng tám lực lượng và hình thức sáng tác của ca dao có sự thay đổi. Sau cách mạng, công tác diệt giặc dốt, bình dân học vụ phát triển làm cho hành chục triệu người dân biết đọc, biết viết trong thời gian ngắn sau cách mạng cùng với truyền thống yêu thích thi ca vốn có lâu đời của dân tộc, đã tạo khả năng và điều kiện sáng tác cho nhiều người trong mọi tầng lớp nhân dân. Phần lớn người sáng tác ca dao sau thời kì này là nông dân, bộ đội. Bên cạnh đó là công nhân, trí thức, các tầng lớp khác kể cả các em thiếu nhi, các cụ phụ lão, các bà mẹ chiến sĩ, các chị dân quân du kích, tự vệ… Sáng tác ca dao được truyền miệng hoặc viết thành văn, có hoặc không có tên tác giả viết trên báo liếp, báo tường, báo tay của bộ đội, của các đoàn thể nhân dân hoặc in trên báo chí của Trung ương hoặc địa phương trong cả nước. Như vậy, hình thức sáng tác khác biệt nhất của ca dao hiện đại và ca dao cổ truyền chính là có một số bài ca dao được sáng tác dưới hình thức là chép lại rồi sau đó mới truyền miệng.
  13. 1.1.2. Giá trị nội dung Ca dao cổ truyền là những sáng tác ca dao ra đời từ cách mạng tháng Tám trở về trước. Trước cách mạng, đất nước ta chịu sự đô hộ nặng nề của chế độ phong kiến. Trong giai đoạn đó, ca dao chủ yếu phản ánh tình yêu nam nữ, lên án tố cáo những mặt trái của xã hội cũ, không có những bài ca ngợi lãnh tụ, người anh hùng. Còn ca dao hiện đại là những sáng tác ra đời sau cách mạng tháng Tám. Thời kì này, dân tộc ta đã thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương Bắc nhưng lại chịu sự đàn áp của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cho nên, ca dao giai đoạn này chủ yếu phản ánh cuộc kháng chiến chốnh Pháp, Mỹ của dân tộc và bước đầu tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tóm lại, vai trò của ca dao cổ truyền là nhằm giải tỏa nỗi lòng của người bình dân. Từ đó, những con người lao động hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Đồng thời, qua ca dao, người bình dân cũng muốn lên án cái xấu, cái ác, đề cao cái tốt, cái thiện. Phải nói rằng, đến giai đoạn ngày nay, mảng ca dao cổ truyền vẫn còn nguyên giá trị của nó. Ca dao hiện đại tiếp tục kế thừa và phát huy ca dao cổ truyền nhưng lồng vào đó những nội dung mới phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. Ca dao cổ truyền phản ánh những sinh hoạt hằng ngày, những tâm tư, tình cảm của nhân dân lao động bị áp bức bóc lột. Đó là tâm trạng đau khổ, uất ức, thái độ phản kháng của nhân dân lao động bị đè nặng dưới ách thống trị nặng nề của giai cấp địa chủ và chính quyền phong kiến: Gánh cực mà đổ lên non / Còng lưng mà chạy cực còn theo sau; Trời sao trời ở không cân / Kẻ ăn chẳng hết người lần chẳng ra;… Ca ngợi cảnh đẹp, sản vật của quê hương, đất nước: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh / Non xanh nước biếc như tranh họa đồ; Đồng Đăng có phố Kì lừa / Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh; Muốn ăn mật rú vọ Trèn / Muốn xơi ốc đực thì lên Thác Đài; Lụa này thật lụa Cổ Đô / Chính tông lụa cống các cô hay dùng;… Tình yêu nam nữ là bộ phận phong phú nhất trong ca dao cổ truyền. Ở đây, ca dao đã phản ánh mọi biểu hiện của tình yêu trong tất cả những chặng đường của nó: giai đoạn gặp gỡ ướm hỏi nhau: Đến đây mận mới hỏi đào / Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? / Mận hỏi thì đào xin thưa / Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào; Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng / Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?…giai đoạn gắn bó trao đổi những lời thề nguyền, những tặng vật cho nhau: Yêu nhau cởi áo cho nhau / Về nhà mẹ hỏi, qua cầu đánh rơi;…giai đoạn hạnh phúc với những niềm ước mơ, những nỗi nhớ nhung: Ngó em không dám ngó lâu / Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi;… hoặc sự thất bại, đau khổ với những lời than thở oán trách: Đôi ta là bạn
  14. thong dong / Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng / Bởi chưng thầy mẹ nói ngang / Cho nên đũa ngọc mâm vàng xa nhau;… Ca dao cổ truyền còn phản ánh những mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình: ông bà với con cháu: Ngó lên nuộc lạt mái nhà / Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu;…cha mẹ và con cái: Ân cha nặng lắm con ơi / Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang; Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con;…vợ chồng: ; Áo vá vai vợ ai không biết / Áo vá quàng chí quyết vợ anh; Chồng em áo rách em thương / Chồng người áo gấm xông hương mặc người;...anh em, chị em, họ hàng: Anh em như chân với tay / Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần …Đó là tình cảm gia đình thiêng liêng cao quí: sự mẫu mực của cha mẹ đối với con cái, lòng hiếu thảo của con cái dành cho ông bà, cha mẹ, anh em yêu thương, hòa thuận giúp đỡ nhau, tình cảm thủy chung, son sắt của vợ chồng. Dĩ nhiên ca dao cổ truyền còn nhiều nội dung khác nhưng người viết chỉ nêu vài nội dung tiêu biểu như trên để làm nền cho việc khảo sát đối tượng chính của luận văn. Ca dao hiện đại lên án, tố cáo tội ác của giặc Pháp, Mỹ. Những hành động đốt nhà, cướp của phá hoại mùa màng, giết người, móc mật, ăn gan, được ca dao kể lại với lòng căm thù, uất hận: Con ơi, mẹ dặn điều này / Mỹ Diệm một bầy giết hại bà con; Chén cơm thuốc độc hãy còn / Mối thù Phú Lợi núi mòn không phai… Toàn dân ta không phân biệt già, trẻ, trai, gái; dân tộc ít người hay nhiều người; miền xuôi hay miền ngược; thành thị hay nông thôn; ở tiền tuyến hay hậu phương,… ai ai cũng thể hiện lòng nồng nàn yêu nước, căm thù giặc sâu sắc: Thù nhà, thù nước, thù chung / Chung vai đấu cật một lòng giết Tây; Bao giờ hết cỏ Tháp Mười / Thì dân Nam mới hết người đánh Tây; Cho dù Mỹ Ngụy trăm tay / Quyết không chia được nước này làm hai; Cho dù cạn nước Đồng Nai / Nát chùa Thiên Mụ không phai lòng vàng… Cùng với phong trào chống giặc ngoại xâm, toàn dân ta còn chống giặc đói và giặc dốt. Ca dao về tăng gia sản xuất cũng như ca dao về Bình dân học vụ trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp rất nhiều. “Thống kê chưa đầy đủ, tỉ lệ ca dao về tăng gia sản xuất, tiết kiệm chiếm 10,35% và về bình dân học vụ, học hành, diệt giặc dốt chiếm 10,15 % tổng số ca dao chống Pháp” [9, 28]: Thu về ngọn cỏ đơm hoa / Người ra mặt trận thì ta ra đồng / Người ra trận đổ máu hồng / Ta ra cánh đồng ta đổ mồ hôi / Rằng Hồ Chủ tịch bảo ta / Tăng gia sản xuất cũng là đánh Tây; Chữ không có phấn có hồ / Mà sao khéo điểm khéo tô mặt người…
  15. Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến ca dao về thuế nông nghiệp, giảm tô, cải cách ruộng đất và những hoạt động khác ở hậu phương. Mảng ca dao này có số lượng khá nhiều: Nông dân đã nói là làm / Đã đi phải đến, đã bàn phải thông / Đã quyết là quyết một lòng / Đã phát là động, đã vùng là lên / Đã lật, lật dưới lên trên / Đã chuyển là chuyển bốn bên chân trời; Bà con trong xóm đổi công / Đêm đêm tát nước ngoài đồng vui ghê; Vì ai nên vợ xa chồng / Dân cày xa ruộng đòn dông xa kèo;… Một nội dung nữa khá nổi bật của ca dao hiện đại là tình cảm sâu sắc của nhân dân đối với Đảng và nhất là đối với Bác Hồ. Đây là mảng cao dao chiếm số lượng lớn nhất trong ca dao hiện đại: Nhớ ngày mồng ba tháng ba / Chính là ngày của Đảng ta ra đời / Đảng ra đời sáng ngời mọi chỗ / Đảng ra đời lúa trổ nhiều bông; Bác, Đảng lập thành tên nước / Con cháu ta tiến bước dưới cờ / Ta là con cháu Bác Hồ / Đánh tan Mỹ Ngụy cơ đồ về ta; Cụ Hồ ở giữa lòng dân / Tuy xa, xa lắm, nhưng gần gần ghê… Có lẽ bộ đội là người làm nhiều ca dao nhất trong hai cuộc kháng chiến. Họ viết về mình và trước hết cho mình. Cho nên ca dao là tự tình, tự thuật, tự truyện của họ: Thằng Tây chớ cậy xác dài / Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày; Con đi độc lập con về / Mẹ yên tâm nhé, con về mẹ vui; Em về lo liệu việc nhà / Để anh yên dạ xông pha trận tiền; Ta đi trăng cũng đi theo / Đường ta dốc núi đỉnh đèo trăng soi / Bây giờ trăng đã ngủ rồi / Ta đi lòng vẫn sáng ngời ánh trăng;… Ca dao hiện đại cũng nói nhiều đến người phụ nữ. Chiến tranh bao giờ cũng là thách thức đối với con người, nhưng có lẽ đối với phụ nữ, thách thức đó gần như toàn diện và nặng nề nhất, đặc biệt về mặt tình cảm riêng tư. Tuy nhiên, họ đã vượt qua những thách thức đó bằng tinh thần làm chủ bản thân mình. Họ không than vãn như ca dao xưa: Con ơi nhớ lấy câu này / Đầu quân cứu nước sáng ngời chí trai / Hoa thơm nhất có hoa nhài / Người thơm danh nhất là trai chiến trường; Kề vai gánh vác sơn hà / Sao cho nổi tiếng đàn bà Việt Nam; Em về lo việc hậu phương / Anh lo giết giặc chiến trường lập công; Anh đi gìn giữ nước non / Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ;… Nội dung của ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại có những nét tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt. Tương đồng ở điểm cả hai bộ phận ca dao đều thể hiện tâm tư, tình cảm của người bình dân: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu nam nữ, đồng thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người. Điểm khác biệt, ca dao hiện đại thể hiện một số nội dung mới phù hợp với hoàn cảnh xã hội hiện đại như tăng gia sản xuất, bình dân học vụ, thuế nông nghiệp, giảm tô, cải cách ruộng đất, đặc biệt là tình cảm đối với Đảng và
  16. Bác Hồ. Như vậy, về nội dung, ca dao hiện đại là sự nối kết, phát triển của ca dao cổ truyền chứ không phải là một bộ phận hoàn toàn tách biệt. 1.1.3. Giá trị nghệ thuật Ca dao cổ truyền sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, phổ biến vẫn là thể lục bát: Thân em như tấm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai;…và song thất lục bát: Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng / May áo chàng cùng sóng áo em / Chữ tình cùng với chữ duyên / Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền;… Thể vãn (vãn bốn, vãn năm…) rất đắc dụng trong đồng dao: Chi chi chành chành / Cái đanh thổi lửa / Con ngựa đứt cương / Ba vương ngũ đế… Ngoài ra, các dạng biến thể của thể lục bát và song thất lục bát: Yêu em tam tứ núi cũng trèo / Thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua; Nghĩ rằng em đã có chồng rồi / Sao em chưa có đứng ngồi vân vi / Ới thầy mẹ ơi ! cấm đoán em chi ! / Mười lăm, mười tám sao chả cho đi lấy chồng;…cũng hay được dùng trong ca dao cổ truyền. Mỗi một thể loại đều có những tác dụng nhất định. Nhưng nhìn chung, tất cả các thể thơ nói trên đều nhằm làm nổi bật nội dung của văn bản ca dao. Kết cấu chủ yếu trong ca dao cổ truyền là kết cấu theo lối đối thoại. Hầu hết ca dao về tình yêu nam nữ là hình thức trao đổi tình cảm giữa nam và nữ. Trai gái ở nông thôn thường gặp gỡ, tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong những khi cùng nhau lao động, trong những ngày hội hè, vui xuân. Hình thức thể hiện tập trung của sự giao duyên đó là những cuộc hát đối đáp nam nữ. Ví dụ: Đối đáp hai vế : - Vào vườn hái quả cau non Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên. Hai má có hai đồng tiền Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa. - Anh đà có vợ con chưa Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào. Mẹ già anh để nơi nao Để em tìm vào hầu hạ thay anh. Đối đáp một vế : - Hỡi cô cắt cỏ một mình Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
  17. Cô còn cắt nữa hay thôi Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng. Song song đó là kết cấu trần thuật: Đói lòng ăn hột chà là / Để cơm nuôi mẹ mẹ già yếu răng;…Bên cạnh đó, ca dao cổ truyền cũng hay sử dụng kết cấu đối lập: Tưởng rằng chị ngã em nâng / Ai ngờ chị ngã, em bưng miệng cười;… và kết cấu đối ngẫu tâm lý: Lên non mới biết non cao / Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy;… kết cấu thu hẹp dần hình tượng: Anh đi anh nhớ quê nhà / Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương / Nhớ ai dãi nắng dầm sương / Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao;… Ca dao không chỉ bắt gặp những cách nói trau chuốt, mượt mà, ý nhị, đầy chất thơ: Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng / Tre non đủ lá đan sàn nên chăng? / Đan sàng thiếp cũng xin vâng / Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?; Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu / Anh thấy em nhỏ xíu, anh thương…mà còn gặp những lời nói bình dân, đầy tính khẩu ngữ: Gánh cực mà đổ lên non / Còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo; Chồng con là cái nợ nần / Chẳng thà ở vậy nuôi thân béo mầm; Giàu thì thịt cá cơm canh / Khó thì lưng rau đĩa muối, cúng anh tôi đi lấy chồng;… Một số hình ảnh trong ca dao cổ truyền đã trở thành biểu tượng. Các nhà nghiên cứu đã kết luận “ trong ca dao, người dân lao động Việt Nam đã mượn đời sống con cò để biểu hiện đời sống của mình” [ 32, 339]. Các hình ảnh thuyền biển, trúc mai, mận đào,…tượng trưng cho đôi lứa yêu nhau… Ca dao hiện đại sử dụng nhiều thể thơ khác nhau: lục bát: Bao giờ hết cỏ Tháp Mười / Thì dân Nam mới hết người đánh Tây…, song thất lục bát: Chiếc khăn xanh viền quanh chỉ đỏ / Bàn tay nhỏ thêu họ thêu tên / Anh vào nhập ngũ Tây Nguyên / Trao khăn em tặng tình yêu kết tình… và thể hỗn hợp: Gió đánh cành tre / Gió đập cành tre / Chị ra mặt trận em về tải thương / Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Xót tình cá nước thì thương nhau cùng / Gió đánh cành hồng / Gió đập cành hồng / Chị về gặt lúa nuôi chồng thương binh / Chồng em vì nước hi sinh / Cánh tay mất nửa, mối tình còn nguyên... Ca dao hiện đại kế thừa phổ biến các dạng kết cấu của ca dao cổ truyền: kết cấu đối thoại và trần thuật, kết cấu đối lập và đối ngẫu tâm lý, kết cấu thu hẹp dần hình tượng và miêu tả trực tiếp. Kết cấu đối thoại chủ yếu là kết cấu một vế: Con ơi con ngủ cho say, Mẹ đi phục kích canh hai mẹ về.
  18. Kết cấu trần thuật chủ yếu thuật lại tội ác của kẻ thù: Cắc bụp, cắc bụp, xòa, Ba thằng giặc Pháp bắt gà bắt heo. Cắc bụp, cắc bụp, xèo, Ba thằng giặc Pháp bắt heo, bắt gà. Kết cấu đối lập: Ban ngày em học trường này, Ban đêm đến lượt mẹ thầy của em. Ban ngày nắng rực khăn em, Ban đêm mát dịu ánh đèn sáng soi. Đảng đem ánh sánh ban ngày, Soi lên cuộc sống cả hai: trẻ già. Kết cấu thu hẹp dần hình tượng: Cái cò cái vạc cái nông, Nhặt cỏ ruộng đồng tát nước dùm tao. Mồ hôi càng đổ tạt rào, Khoai lúa thu vào càng trội hơn lên. Tất cả cho Tổng động viên, Phản công thắng lợi mau yên nước nhà. Kết cấu đối ngẫu tâm lý: Bể đông có lúc vơi đầy, Mối thù đế quốc có ngày nào quên. Ca dao hiện đại sử dụng nhiều hình ảnh: tự nhiên, thực vật, động vật và nhân tạo. Đặc biệt, một số hình ảnh nhân tạo trong đời sống sinh hoạt thường nhật như: súng, cờ, thuyền…xuất hiện với tần số cao. Tuy nhiên phổ biến nhất vẫn là hình ảnh tự nhiên. Ngôn ngữ ca dao hiện đại có sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương, ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường. Cách kết hợp ấy tạo ra nhiều bài hay, đẹp, thi vị: Đêm nay bóng núi nghiêng che / Anh canh, em gặt có ông trăng hiền sáng soi; Phá Tam Giang nối đàng ra Bắc / Đèo Hải Vân hướng mặt vào trong; Trị Thiên đò dệt sang ngang / Dệt thương, dệt nhớ, dệt đàng núi sông;…
  19. Ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại không chỉ bấy nhiêu giá trị nghệ thuật. Do phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ điểm xuyết vài giá trị cơ bản có liên quan trực tiếp đến đề tài, làm nền cho việc nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ. 1.2. Ca dao về Bác Hồ 1.2.1. Khái niệm Ca dao về Bác Hồ là những bài ca dao do nhân dân khắp mọi miền đất nước sáng tác về Bác từ sau cách mạng tháng Tám. Đây là một bộ phận của ca dao hiện đại. Ở đây, người viết quan niệm ca dao về Bác là mảng ca dao bao gồm những bài ca trực tiếp bộc lộ tình cảm của nhân dân đối với Bác: Có ai về chốn quê nhà / Gửi lời chúc thọ Cha già mến yêu; Đếm sao cho hết vì sao / Kể sao hết được công lao Bác Hồ;… và cả những bài ca gián tiếp nói đến Bác, tức nói về sự việc khác nhưng có liên hệ tới Bác: Hôm qua anh đến chơi nhà / Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi bừa / Thấy em mải miết xe tơ / Thấy cháu i-tờ ngồi học bi bô / Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ / Cả nhà yêu nước thi đua phen này;… Qua bộ phận ca dao về Bác, người thưởng thức có thể cảm nhận được lòng kính yêu, lòng biết ơn, nỗi mong chờ, tình cảm thủy chung, niềm tin son sắt của nhân dân đối với Bác. Bên cạnh đó, người đọc cũng bắt gặp một số nội dung khác tuy không trực tiếp hướng về Bác nhưng cũng có liên hệ đến Bác. Tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ - người lãnh tụ kiệt xuất của Đảng và của dân tộc, trước hết bắt nguồn từ lòng kính yêu, tự hào và biết ơn sâu sắc về những công lao vô cùng to lớn của Bác. Công ơn to lớn ấy được nhân dân ta so sánh với những gì thiêng liêng nhất, kỳ vĩ nhất trong thiên nhiên nhiên vũ trụ: Núi cao là núi Thái Sơn / Ơn cao nghĩa cả là ơn Cụ Hồ; Đếm sao cho hết vì sao / Kể sao cho hết công lao Bác Hồ; Cụ Hồ ơn đức biết bao / Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời;… Nhân dân biết ơn Bác bởi tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác dành cho đồng bào. Bác đã từng nói:“ Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [ 17, 20]. Cùng với lòng biết ơn sâu sắc, nhân dân ta cũng yêu thương Bác vô vàn, xem Bác như người Cha trong đại gia đình, tự hào vì dân tộc ta có Bác: Tháp Mười đẹp nhất bông sen / Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ; Cụ Hồ là đuốc sáng soi / Nhắc đến tên Cụ muôn người yêu thương; Cây quế Thiên Thai mọc trên núi đá / Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm / Tên Bác Hồ thơm hơn hương quế, hương trầm / Nhìn ra phương Bắc mà thương Bác
  20. Hồ; Dù ai đi đông đi tây / Mỗi năm tháng chín nhớ ngày mồng ba / Dù ai đi gần đi xa / Chớ quên ngày giỗ Cha già kính yêu;… Lòng biết ơn lãnh tụ và mối quan hệ gắn bó với lãnh tụ tất nhiên dẫn đến một niềm tin mãnh liệt vào lãnh tụ. Nhân dân tin tưởng vào sự dẫn dắt, sụ lãnh đạo sáng suốt của Người: Cụ Hồ yêu nước thương dân / Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù / Giặc Tây, giặc đói, giặc mù / Cả ba thứ giặc Bác Hồ vượt qua; Sóng thần thì mặc sóng thần / Có Cha bẻ lái, có dân chống chèo; Dân cày mà có Bác Hồ / Như thuyền có lái, như cờ gió bay;… Sức khỏe của Bác là mối quan tâm sâu sắc của toàn dân ta. Đó là một lẽ tự nhiên như chúng ta quan tâm , chăm sóc đến sức khỏe của ông bà, cha mẹ mình. Song, Bác là linh hồn của dân tộc, là người cầm lái con thuyền dân tộc nên mối quan tâm đến sức khỏe của Bác còn thể hiện lòng yêu nước của chúng ta. Vì thế, mối quan tâm ấy còn tăng gấp bội: Đường ra Việt Bắc / Xa lắc, xa lơ / Ai đi tôi gửi bức thư mấy hàng / Chúc Hồ Chủ tịch anh khang / Lãnh đạo dân tộc trên đường đấu tranh; Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe, vui tươi / Dắt dìu kháng chiến, giành độc lập cho người Việt Nam; Chúng con ở bốn phương trời / Quay về hướng Cụ muôn lời chúc mong / Dài lâu như suối như sông / Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con;… Kính yêu Bác, mong Bác mạnh khỏe sống lâu, hi vọng có một ngày nào sẽ được gặp Bác… Đó là tình cảm, nguyện vọng chung của toàn dân ta. Nhưng có lẽ niềm mong mỏi ấy tha thiết nhất ở đồng bào miền Nam. Nhân dân miền Nam khao khát được gặp Bác trong ngày thống nhất đất nước: Đêm nằm con thấy chiêm bao / Thấy Hồ Chủ tịch đã vào nơi đây; Ngày mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón Bác thỏa tình ước mong; Mong ngày độc lập Cụ vô / Thỏa lòng mong đợi, ước mơ đêm ngày; Miền Nam nhớ Bác vô cùng / Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa;… Như đã nêu trên, ca dao về Bác có những bài trực tiếp nói lên tình cảm của nhân dân đối với Bác nhưng cũng có những bài nói về sự việc khác, qua đó gián tiếp nói về Bác. Ca dao về Bác cũng nói nhiều đến anh bộ đội Cụ Hồ. Nhân dân ca ngợi anh bộ đội Cụ Hồ cũng là ca ngợi Bác: Đồng bào trông thấy hoan hô / Hoan hô anh lính Cụ Hồ ngoan ghê / …Cụ Hồ dân kính, dân yêu / Nên anh bộ đội dân chiều dân thương; Ai về yên Dưỡng, Hoành Mô / mà xem quân lính Cụ Hồ sang sông / Đêm ngày mê mải chiến công / Thoáng trông như có cả chồng em kia; Hôm qua sinh nhật Cụ Hồ / Bộ đội đánh thắng ăn to hai đồn;… Tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng cũng được đề cập đến trong bộ phận ca dao này. Tuy nhiên, tình yêu ấy trong ca dao về Bác không thấy có sự cấm đoán của giai cấp thống trị, không có những quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” …gây nên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2