intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đóng góp của phóng sự và tiểu phẩm Ngô Tất Tố đối với Văn học Việt Nam 1930 - 1945

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:133

264
lượt xem
51
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đóng góp của phóng sự và tiểu phẩm Ngô Tất Tố đối với Văn học Việt Nam 1930 - 1945 bao gồm những nội dung về Ngô Tất Tố với thể văn phóng sự, tiểu phẩm trong văn học Việt Nam hiện đại (1930 - 1945); những đóng góp của phóng sự và tiểu phẩm Ngô Tất Tố đối với Văn học Việt Nam (1930 1945).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đóng góp của phóng sự và tiểu phẩm Ngô Tất Tố đối với Văn học Việt Nam 1930 - 1945

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHAN THỊ MỸ HẠNH ĐÓNG GÓP CỦA PHÓNG SỰ VÀ TIỂU PHẨM NGÔ TẤT TỐ ĐỐI VỚI VĂN HỌC VIỆT NAM 1930 - 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
  2. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngô Tất Tố được coi là một trong những cây bút xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945. Tài năng của ông được bộc lộ trên nhiều phương diện: sáng tác, khảo cứu, dịch thuật… Ring ở mảng sáng tác, ông bộc lộ tài nămg trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, tiểu phẩm báo chí… Với thể loại nào, ơng cũng đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng bao thế hệ độc giả. Chính vì thế suốt sáu thập kỉ qua, thân thế và sự nghiệp sáng tác của ông đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình và biết bao thế hệ sinh viên, học viên. Tuy vậy, việc nghiên cứu văn chương Ngô Tất Tố chưa thật toàn diện, sự hiểu biết của các thế hệ độc giả về ông cũng chưa đầy đủ: Người ta hầu như mới chỉ biết và quan tâm nhiều đến một nhà tiểu thuyết Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Lều chng mà chưa biết hoặc ít quan tâm đến một nhà phóng sự Ngô Tất Tố với Việc làng, Tập án cái đình, một nh tiểu phẩm Ngô Tất Tố với hàng trăm thậm chí hàng ngàn bài báo sắc sảo và có giá trị văn học. Gần đây, khi cc tập Ngô Tất Tố chuyện người đương thời và Ngô Tất Tố tiểu phẩm báo chí của nhà xuất bản Hội nhà văn ra mắt độc giả, không ít người giật mình: hĩa ra tất cả những gì đ biết về Ngơ Tất Tố mới chỉ l một gĩc nhỏ; tc phẩm của ơng như lâu nay đ biết chỉ chiếm khoảng một phần mười so với văn nghiệp phong phú, đồ sộ của ông. Trong phần tác phẩm của Ngô Tất Tố mới ra mắt độc giả ấy, phóng sự và nhất là tiểu phẩm chiếm một số lượng lớn. Việc tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về ơng nhất l mảng phĩng sự, tiểu phẩm vì vậy sẽ gip chúng ta vẽ lên một bức chân dung văn học đúng, đủ trung thực và sâu sắc về nhà văn- nhà báo Ngô Tất Tố. Trước đây, sách giáo khoa văn học ở trường phổ thông đ đưa tác phẩm Tắt đèn (Phổ thông cơ sở), Lều chng (Phổ trông trung học) vào giảng dạy, đọc thêm. Hiện nay sách Ngữ văn 11 lại giới thiệu thêm với công chúng học đường phóng sự Việc lng của Ngô Tất Tố (bài đọc thm: Nghệ thuật băm thịt gà). Đó là một sự bổ sung rất kịp thời và cần thiết. Điều đó càng cho thấy những người giáo viên văn học ở trường phổ thông như tác giả luận văn này cần phải đọc, tìm hiểu cập nhật về Ngơ Tất Tố v sự nghiệp văn chương của ông, kịp thời bổ sung những gì chưa biết, để việc giảng dạy tốt hơn. Đó cũng chính là lí do chúng tôi chọn “Đóng góp của phóng sự và tiểu phẩm Ngô Tất Tố đối với văn học Việt Nam 1930-1945” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
  3. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Việc nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp Ngô Tất Tố tính đến nay đã cĩ nhiều thành tựu với một bề dày đáng quý, rất thuận lợi cho tất cả những ai đến sau muốn tìm hiểu su về ơng. Có thể điểm qua một số bài viết và những công trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố từ sau năm 1930 trở về đây để thấy rõ điều đó. Theo trục thời gian, chng tơi tạm chia lịch sử nghiên cứu về Ngô Tất Tố, trong đó có phóng sự và và tiểu phẩm thành ba chặng đường: trước 1945, 1945-1975 v sau 1975. Trước 1945 Tuy thời kì ny chưa có nhiều công trình nghin cứu ring, nhưng sáng tác văn học và báo chí của Ngô Tất Tố ngay từ năm 1931 đ được đánh giá rất cao. Tiu biểu l cc ý kiến của Vũ Trọng Phụng, v cơng trình nghin cứu Vũ Ngọc Phan. Vũ Trọng Phụng trong bài giới thiệu về tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã gọi Ngơ Tất Tố l “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám làng nho”. (Báo Thời vụ số ra ngày 31.01.1931) Trong “Nhà văn hiện đại”(1938-1940) Vũ Ngọc Phan khi giới thiệu bảy mươi chín nhà văn Việt Nam tham gia sáng tác bằng chữ quốc ngữ từ cuối thế kỉ XIX đến đầu những năm 40 của thế kỉ XX cũng đ dnh cho Ngơ Tất Tố một vị trí vẻ vang. Ơng gọi Ngơ Tất Tố l “một tay kì cựu trong làng văn làng báo Việt Nam” “cĩ ĩc ph bình, cĩ trí xt đoán, có tư tưởng mới”, v nhấn mạnh: “… về đường văn nghệ ông đã theo kịp cả những nhà văn thuộc phái tân học xuất sắc nhất. Ngô Tất Tố là một nhà nho mà viết được những thiên phóng sự và những thiên tiểu thuyết theo nghệ thuật Tây phương và ông đã viết bằng một ngòi bút đanh thép, làm cho phái tân học phải khen ngợi”. Nhận xét này của Vũ Ngọc Phan đã khẳng định tư tưởng mới mẻ, tiến bộ và tài năng nghệ thuật của Ngô Tất Tố. Tuy nhiên trong khi giới thiệu tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Ngọc Phan chỉ giới thiệu “Việc làng”, “Lều chõng” và một số công trình khảo cứu khác, không đề cập đến những bài văn ngắn của Ngô Tất Tố. Từ năm 1945 đến năm 1975 Năm 1954, trên tạp chí Văn nghệ (số 54). Nguyên Hồng đã có bài viết xúc động về nhà văn, nhà tiểu thuyết lão thành Ngô Tất Tố. Nguyên Hồng đã ghi nhận những đóng góp tích cực của Ngô Tất Tố trong việc phản ánh đúng sự thật đời sống của người nông dân nơi luỹ tre xanh. Ông viết: “Người nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố, chưa ánh lên cái sức đấu tranh nhưng sự thống khổ của họ đem phơi bày ra đã được một phần nào thật, thật trên cái đen tối của chế độ tàn bạo và ruỗng nát lúc bấy giờ”[33, tr.44].
  4. Nguyên Hồng cũng cho rằng, nhân cách, con người và thái độ đấu tranh không mệt mỏi của Ngô Tất Tố đáng để cho người đời sau học tập. Ông khẳng định: “Cái hình ảnh Ngô Tất Tố dứt khoát với thù địch, không đội giời chung với thù địch, cái hình ảnh đôi mắt kính vằng vặc say mê cúi xuống những dòng chữ rắn rỏi rõ ràng, miết lên những trang giấy giang vàng ngà trên bàn tre làm việc, hình ảnh đó chúng ta luôn tưởng nhớ, xót xa thương tiếc, quyết tâm học tập và nguyện sát cánh nhau chặt hơn nữa, làm việc nhiệt tình tận tụy, quyết thắng”[33, tr.48]. Đó chính là tinh thần mà Ngô Tất Tố để lại cho đồng nghiệp và những thế hệ sau. Bài viết của Nguyên Hồng đã khẳng định sự ảnh hưởng của Ngô Tất Tố đối với các đồng nghiệp. Trên tạp chí Văn nghệ số 8 năm 1958, Bùi Huy Phồn cũng có những đánh giá rất khách quan về Ngô Tất Tố qua phóng sự “Việc làng”. Bùi Huy Phồn cho rằng lập trường giai cấp của Ngô Tất Tố còn mơ hồ cho nên còn một số hạn chế nhỏ trong “Việc làng”. Ông cũng cho rằng sự hạn chế này không lấy gì làm lạ, vì Ngô Tất Tố vốn xuất thân từ một nhà nho. Bùi Huy Phồn cũng khẳng định đóng góp lớn nhất của “Việc làng” là đã phản ánh một cách chân thực đời sống của người dân quê, những nỗi thống khổ về tinh thần mà khó ai có thể nhìn thấy được. Từ xưa đến nay người ta chỉ thấy người nông dân bị bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị, ít ai thấy được nỗi khổ của người nông dân dưới gánh nặng của hủ tục. Năm 1961, trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3, Nguyễn Đức Đàn, qua phân tích một số tác phẩm của Ngô Tất Tố trước 1945, đã chỉ ra “sự sáng tạo nghệ thuật của Ngô Tất Tố có một ý nghĩa vị nhân sinh rõ rệt” [33, tr.65]. Nguyễn Đức Đàn đi đến kết luận “Bao giờ ông – tức Ngơ Tất Tố - cũng đứng về phía những người bị đày đọa, bị áp bức. Chính nhờ đó mà nhà văn đã vẽ lên được bức tranh chân thực của xã hội đương thời. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, ngòi bút Ngô Tất Tố dám dũng cảm tố cáo những cái xấu xa thối nát của xã hội, xây dựng những hình tượng đẹp đẽ về người lao động cùng khổ đã là một thành công lớn” [33, tr.66] Năm 1962, trên tạp chí Văn nghệ số 61, Nguyễn Đức Bính cũng viết bài bàn về con người và văn chương Ngô Tất Tố. Trong đó ông có đề cập đến phóng sự “Việc làng”, và các tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố. Nguyễn Đức Bính tiết lộ “Quyển Việc làng ra đời năm 1940. Nhưng có thể tác giả đã nhẩm từ lâu, trong những buổi nhàn đàm với anh em ở toà soạn tờ báo Hàng Da”. Ông còn cho rằng “Nếu có ai cho rằng đó là một tập văn kí sự ghi lại những tệ tục ở nông thôn thì thật chưa hiểu được dụng ý của người viết. Mặc dù lời văn có khi nặng tích chất khách quan của kẻ quan sát hiện thực, nhưng nên tìm ở trong đó
  5. một tấm lòng nói thay cho nhiều tấm lòng” [33, tr.69]. Bàn về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Đức Bính khẳng định: “Ngô Tất Tố có một lối viết mới, độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi đậm đà, khi duyên dáng, nhưng đặc biệt là dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý nhị”[33, tr.77]. Trong quyển “Lịch sử văn học Việt Nam” tập 5 (1930-1945), xuất bản tại Hà Nội năm 1973, Nguyễn Đăng Mạnh khi phê bình “Lều chõng” và “Việc làng”, đã phân tích một số đặc điểm nội dung cũng như nghệ thuật của phóng sự “Việc làng”. Ông nhìn nhận ở Ngô Tất Tố một “lòng cảm thương sâu sắc đối với người nông dân”, “càng thông cảm với người nông dân bao nhiêu , Ngô Tất Tố lại càng căm ghét bọn cường hào địa chủ bấy nhiêu”. Về nghệ thuật, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: cả tập phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố tuy quanh đi quẩn lại chủ yếu là nạn xôi thịt, nhưng với lối kể chuyện linh hoạt, người đọc không thấy đơn điệu. Cuối cùng ông kết luận “Việc làng là một tập án đanh thép về hủ tục và nạn cường hào ở nông thôn Việt Nam”. Nhìn chung ở giai đoạn này, Người ta nhắc nhiều đến tiểu thuyết và phóng sự của Ngô Tất Tố. Mảng văn tiểu phẩm chưa được đi sâu vào nghiên cứu. Từ sau năm 1975, người ta mới bắt đầu chú ý tới những bài văn ngắn này của ông. Sau 1975 Năm 1977, Nhà xuất bản văn học Hà Nội in “Ngô Tất Tố- Tác phẩm” Phan Cự Đệ chủ biên. Đây là công trình đầu tiên giới thiệu một cách tương đối toàn diện về Ngô Tất Tố và những thành công của ông trên các lĩnh vực: báo chí, sáng tác văn học, nghiên cứu dịch thuật… Riêng ở lĩnh vực báo chí, tác giả đã có công sưu tầm và giới thiệu 112 bài báo của Ngô Tất Tố được viết trong khoảng thời gian từ 1929-1943. Trong cơng trình ny, Phan Cự Đệ, cũng như nhiều nhà nghiên cứu hồi bấy giờ nhận xét đánh giá cịn nặng ci nhìn soi xt nhân thân, quan điểm lập trường của Ngô Tất Tố. Tuy vậy, đáng chú ý là nhà nghiên cứu đ khẳng định: Ngô Tất Tố, với tư cách l “người bạn đường tin cậy của giai cấp công nhân”, luôn đứng trên quyền lợi của dân tộc, của quần chúng bị áp bức, luôn xuất phát từ một tấm lòng yêu nước thương dân mà sáng tác. Về nghệ thuật, Phan Cự Đệ đánh giá cao nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Ngô Tất Tố: “… bất cứ lúc nào có điều kiện, Ngô Tất Tố sẵn sàng sử dụng những đòn đánh thẳng vào mặt đối phương, không kiêng nể và ông phân biệt rất rõ lối đả kích và trào lộng đả kích để đánh địch. Lối hài hước và trào lộng hài hước là để giải quyết những vấn đề mâu thuẫn
  6. trong nội bộ nhân dân. Nụ cười của Ngô Tất Tố không phải là sự chế giễu lạnh lẽo vô tình, không phải là thái độ bông phèng “lùng tùng xoè” như nhóm Tự lực văn đoàn, cũng không phải là sự đả kích đôi khi vô chính phủ theo quan điểm hư vô chủ nghĩa của Vũ Trọng Phụng, mà đây là một sự phê phán xã hội đứng trên lập trường một người trí thức yêu nước. Chính lập trường đó đã tạo nên tiếng cười của Ngô Tất Tố, có nội dung xã hội sâu sắc, lành mạnh, lạc quan và nói chung lúc nào cũng nhằm trúng đích, bắn chính xác vào kẻ thù của dân tộc và của quần chúng bị áp bức bóc lột” [17, tr.57]. Năm 1978, Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản công trình “Lịch sử văn học Việt Nam” của Nhóm tác giả Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác. Trong đó có một chương viết về “Ngô Tất Tố- nhà báo” do Nguyễn Đăng Mạnh biên soạn. Nguyễn Đăng Mạnh đã nêu khái quát cuộc đời làm báo của Ngô Tất Tố, và cũng đi đến những nhận xét rất tích cực “Nhìn chung, qua những bài bình luận, bút chiến, phóng sự, ta thấy Ngô Tất Tố thực sự là một nhà báo hăng hái và chân thành chiến đấu cho những yêu cầu cải cách dân chủ thật sự vì lợi ích của nhân dân lao động. Những việc ông làm, những điều ông đấu tranh như thế đã khiến ông gần với cách mạng” [24, tr.201]. Nhìn chung, trong chương viết về Ngô Tất Tố, Nguyễn Đăng Mạnh đã đi vào nhận xét những thành tựu, những ưu khuyết điểm của nhà báo Ngô Tất Tố về nội dung tư tưởng, chưa đi vào phân tích giá trị nghệ thuật trong các tiểu phẩm của ông. Năm 1987-1988, khoa Ngữ văn-báo chí, trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành và lưu hành nội bộ giáo trình “Văn học Việt nam 1930-1945” (2tập) do Trần Ngọc Hồng biên soạn. Phần viết về Ngô Tất Tố cĩ đề cập đến thành tựu của Ngô Tất Tố qua hai tác phẩm “Việc làng” và “Tắt đèn” không thấy đề cập đến các tác phẩm báo chí. Năm 1993, Nhà xuất bản văn học cho in “Tuyển tập Ngô Tất Tố” (2 tập) do Phan Cư Đệ sưu tầm tuyển chọn, Trương Chính sắp xếp và giới thiệu. Trong lời giới thiệu về Ngô Tất Tố, Trương Chính cũng đồng tình với quan điểm của Phan Cư Đệ cho rằng Ngô Tất Tố đã vượt qua mọi sự ràng buộc của tư tưởng Nho giáo, là “một người có tư tưởng độc lập, không chịu nhắm mắt theo những thành kiến của cổ nhân”. Ông cũng đi đến nhận định Ngô Tất Tố là một nhà nho yêu nước, thương dân “Phú quý không ham, nghèo hèn không đổi dạ, uy quyền không thể khuất phục”. Ngoài ra, Trương Chính còn phân tích để chỉ ra quan niệm tiến bộ, nghiêm túc của Ngô Tất Tố trong nghề báo. Trương Chính không quan tâm nhiều đến những hạn chế trong tư tưởng của Ngô Tất Tố mà chủ yếu tập trung làm nổi bật những quan niệm tiến bộ của nhà nho Ngô Tất Tố, và khẳng định những thành công của ông về nội
  7. dung cũng như nghệ thuật. Theo Trương Chính thì tiểu phẩm của Ngô Tất Tố gần với tạp văn của Lỗ Tấn. Đến năm 1999, nhà xuất bản giáo dục tái bản lần ba công trình “Văn học Viêt Nam 1900-1945”. Trong đó có chương XIII viết về Ngô Tất Tố do Phan Cự Đệ phụ trách. Phan Cự Đệ đi phân tích từ tư tưởng tiến bộ của một nhà nho nghèo yêu nước đến những tác phẩm tiêu biểu cho thành công của Ngô Tất Tố trên con đường nghệ thuật. Ông giới thiệu về các tác phẩm phê bình, về tiểu thuyết “Tắt đèn”, về các phóng sự “Việc làng” và “Tập án cái đình”, và về các tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố . Ở phần viết về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, Phan Cự Đệ đã khẳng định những đóng góp lớn lao của Ngô Tất Tố về nội dung cũng như nghệ thuật. Về nội dung Phan Cự Đệ viết “Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố dường như làm thành một bộ sử biên niên của xã hội Việt Nam những năm từ trước 1930 cho đến hồi đại chiến lần thứ hai” [21, tr.395]. Về nghệ thuật thì “các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vừa mang tính chất của một bài bình luận chính trị, bình luận xã hội nhưng đồng thời cũng là một tác phẩm văn học. Do đó nó vừa phải có sức thuyết phục logic, có căn cứ và lập luận chặt chẽ, vừa phải xây dựng được những hình tượng và có một sức truyền cảm mạnh mẽ, sâu sắc đối với người đọc” [21, tr.395]. Và, “phong cách châm biếm trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là sự kết hợp hài hoà cái thâm thuý của một nhà nho trí thức với cái vui hồn hậu, lạc quan, tính chiến đấu mạnh khỏe của văn học dân gian” [21, tr.400]. Hai tập phóng sự “Việc làng” và “Tập án cái đình” cũng được Phan Cự Đệ đánh giá cao. Ơng đặc biệt khẳng định giá trị hiện thực vào tính chiến đấu của nó “Trong hai phóng sự “Tập án cái đình” và “Việc làng”, Ngô Tất Tố tìm cách phơi trần những sự thật xấu xa về các hủ tục ở nông thôn, xem đó là một cái gì vô lý “quái gở”, “mọi rợ” và đặt chính quyền thực dân trước nhiệm vụ phải giải quyết” [21, tr.409] Nhìn chung, với bi viết ny, Phan Cự Đệ đã đưa ra được một cái nhìn khái quát toàn bộ văn nghiệp của Ngô Tất Tố, chỉ ra một cách tương đối thỏa đáng những thành công, hạn chế trong tư tưởng chính trị cũng như về hình thức thể hiện trong sng tc của nhà văn. Xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc đến nghệ thuật viết tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, năm 1983, trên tạp chí Văn học số 6, Lê Thị Đức Hạnh viết bài “Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố”. Trong bi viết ny, với lưu ý “những bài viết này chưa ai nghiên cứu kĩ, chưa được chú ý nhiều về nghệ thuật, nhất là nghệ thuật trào phúng”, Lê Thị Đức Hạnh cho rằng: “những tiểu phẩm của ông (Ngô Tất Tố) rất giàu tính nghệ thuật, là sự kết hợp nhuần
  8. nhuyễn giữa lý trí và hình tượng thông qua những sự kiện, những tài liệu cụ thể, tạo nên một sức thuyết phục mạnh”. Trong khi đi sâu phân tích nghệ thuật trào phúng trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, tác giả bài báo khẳng định: “… Ngô Tất Tố rất già dặn trong việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều thủ pháp nghệ thuật khi đề cập đến các vấn đề của xã hội đương thời. Ông biết khai thác đề tài bằng cách đối lập một hiện tượng nào đó với khát vọng mong muốn của nhân dân. Ông biết tô đậm những mâu thuẫn của hiện thực và khi thể hiện chúng thì thông qua một ngôn ngữ giàu hình ảnh, đậm đà chất trữ tình nên ông đã tạo được một hiệu quả phê phán lớn. Sự thông minh hóm hỉnh là một đặc trưng quan trọng của nghệ thuật trào phúng cũng thấy bộc lộ qua từng câu, từng chữ, có khi trong toàn bài, đã làm cho văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố để lại những ấn tượng khó quên trong lòng người đọc” [33, tr.423-424]. Cũng nói riêng về tiểu phẩm, năm 1998, trên tạp chí Văn học số 11, Hà Minh Đức viết bài “Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố”. Bàn về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, Hà Minh Đức đánh giá cao tính thời sự, và tính luận chiến của nó: “Ngô Tất Tố không viết tiểu phẩm để in trong sách hoặc trong tạp chí hàng tháng, nhiều tháng mà chủ yếu là in trên báo hàng ngày, hàng tuần với tinh thần thời sự ứng chiến” [33, tr.444]. Hà Minh Đức cũng ghi nhận tinh thần thương yêu dân và đấu tranh với những thế lực bóc lột đàn áp nhân dân. Tác giả nhận định sự phê phán, đả kích của Ngô Tất Tố là không chạy theo từng việc nhỏ mà “có cái nhìn bao quát vào bức tranh chung của xã hội, nhìn vào bản chất của các hiện tượng”. Năm 2001, Nhà xuất bản giáo dục đã xuất bản quyển sách “Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm” do Mai Hương và Tôn Phương Lan tuyển chọn và giới thiệu. Quyển sách đã tập hợp tương đối đầy đủ những bài viết, những lời giới thiệu v những bài phê bình, nghiên cứu về nhà văn- nhà báo-nhà dịch thuật Ngô Tất Tố. Trong đó có bài viết “Ngô Tất Tố tài năng và tấm lòng” của Mai Hương, thể hiện lòng mến phục và trân trọng đối với Ngô Tất Tố. Đáng chú ý l ý kiến giải thích về văn tài và động cơ viết văn của Ngô Tất Tố: “… Vượt lên mọi hư danh, cám dỗ, Ngô Tất Tố “đã biết đánh đổi cơm áo để lấy cái quyền viết theo chỉ thị của trái tim mình”, trái tim chỉ thuộc về đất nước mà ông hết lòng yêu thương, chỉ thuộc về nhân dân mà ông thiết tha gắn bó. Chính đó là cái lõi để tạo nên tài năng lớn, đa dạng nơi ông” [33, tr.30-31] Nhìn chung dù viết dưới dạng bài báo, bài nghiên cứu, phê bình hay bài giới thiệu, dù phân tích các tác phẩm tiểu thuyết, phóng sự, tiểu phẩm hay dịch thuật, phê bình, các nhà
  9. nghiên cứu đều có sự nhìn nhận, đánh giá thống nhất với nhau ở quá trình phát triển tư tưởng, quá trình lao động, sáng tạo, và quá trình đấu tranh không mệt mỏi vì nhân dân và dân tộc của nhà văn lão thành Ngô Tất Tố. Tất cả mọi lời nhận định đều khẳng định tài năng về mọi mặt của Ngô Tất Tố và những cống hiến to lớn của ông đối với nền văn học dân tộc, với việc bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hoá vốn có của đất nước. Một số hạn chế trong tác phẩm và tư tưởng của ông nếu được vạch ra, không hề làm giảm đi lòng yêu mến và sự cảm phục của các đồng nghiệp và của các thế hệ độc giả từ xưa đến nay. Tìm hiểu lịch sử nghin cứu vấn đề, ta nhân thấy: Thứ nhất, chưa có một công trình nghiên cứu riêng, sâu về các mảng sáng tác của Ngô Tất Tố. Phần lớn các sách thường chỉ sưu tầm và biên tập lại những bài viết trên các báo, tạp chí hay một bài nghiên cứu nhỏ về Ngô Tất Tố. Thứ hai, thnh tựu nghin cứu về sự nghiệp văn chương, báo chí của Ngô Tất Tố tính đến nay đ kh dy dặn, phong ph. Giới nghin cứu cng ngy, cng mở rộng, khơi sâu nhiều mặt giá trị trong sự nghiệp viết văn của ông, càng khẳng định thêm vị trí quan trọng của ông trong lịch sử văn chương và báo chí Việt Nam 1930-1945. Việc cơng bố, in ấn cc cơng trình nghin cứu về ơng trước thời đổi mới, trong một thời gian dài không tiến triển được bao nhiêu. Có những cuốn sách về Ngô Tất Tố nhan đề tuy khác nhau nhưng nội dung bên trong cũng chỉ là những bài viết cũ của các nhà phê bình quen thuộc. Mảng văn được nghiên cứu nhiều và sâu nhất là tiểu thuyết, cụ thể là tác phẩm “Tắt đèn”, “Lều chõng”. Với thể loại phóng sự, phần lớn các nhà nghiên cứu cũng chỉ xoay quanh phóng sự “Việc làng”, còn “Tập án cái đình” và một số phóng sự khác chỉ được nói chung chung. Riêng mảng văn tiểu phẩm, chiếm số lượng lớn trong văn nghiệp của Ngô Tất Tố, hầu như chưa được đầu tư nghin cứu một cách xứng đáng ngoài những bài nghiên cứu của Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Thị Đức Hạnh, Trương Chính, Phan Cự Đệ, Vũ Quần Phương, Hà Minh Đức được in trong nhiều tuyển tập nghiên cứu về Ngô Tất Tố. Thực tế đó cho thấy việc nghiên cứu về phóng sự và tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vẫn là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khi thực hiện đề tài này chng tơi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
  10. - Phương pháp so sánh: đặt các sáng tác của Ngơ Tất Tố trong sự đối chiếu so sánh với các nhà văn khác nhất là các nhà văn cng thời với ông để tìm ra những đóng góp tích cực của tiểu phẩm và phóng sự Ngô Tất Tố. - Phương pháp hệ thống: đặt tiểu phẩm và phóng sự Ngơ Tất Tố trong trong tồn bộ sự nghiệp sáng tác của ông cũng như trong bối cảnh văn xuôi nghệ thuật Việt Nam 1930-1945 để nghiên cứu, đánh giá đúng và đủ hơn về đóng góp của ông. - Phương pháp loại hình được sử dụng để nghiên cứu phĩng sự, tiểu phẩm của Ngơ Tất Tố từ gĩc nhìn thể loại. Tất cả những quan điểm, những phương pháp được vận dụng nghiên cứu đề tài đều đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật Mác-Lênin để nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách khách quan và khoa học. 4. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI Mặc dù tài năng của Ngô Tất Tố thể hiện trên nhiều bình diện nhưng đề tài chỉ hướng vào tìm hiểu những tác phẩm thuộc hai thể loại tiểu phẩm và phóng sự của ông. Về phóng sự, chủ yếu tìm hiểu tập phóng sự “Việc làng”, “Tập án cái đình”, để thấy được cái nhìn của Ngô Tất Tố về nông dân và nông thôn Việt Nam. Về tiểu phẩm, số lượng tác phẩm mới tìm thấy của ông rất nhiều. Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát các tiểu phẩm tiêu biểu trong ba quyển sách “Ngô Tất Tố tiểu phẩm báo chí”, Ngô Tất Tố chuyện người đương thời” của nhà xuất bản Hội nhà văn, xuất bản năm 2005, và“Ngô Tất Tố toàn tập”, tập 1, và chủ yếu là những tác phẩm được sáng tác trước 1945. 5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Thông qua việc nghin cứu tiểu phẩm và phóng sự, hai mảng thể loại còn chưa được nhà phê bình quan tâm nhiều, chúng tôi muốn thêm một lần khẳng định lại vị trí của ông trên văn đàn bằng cách chỉ ra những đóng góp có ý nghĩa tích cực trong việc phát triển thể loại phóng sự và tiểu phẩm nói riêng, phát triển ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật nói chung. 6. KẾT CẤU LUẬN VĂN Ngoài Mở đầu, Kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương. Chương1: Ngô Tất Tố v thể văn phóng sự, tiểu phẩm trong văn học Việt Nam hiện đại (1930-1945). Chương này xác định vị trí của Ngô Tất Tố cùng với các thể loại sáng tác, phê bình, dịch thuật đặc biệt là hai thể loại phóng sự và tiểu phẩm trên văn đàn Việt Nam. Từ đó có cái nhìn khái quát về những đóng góp của ông trong quá trình phát triển và hoàn thiện của văn học Việt Nam ở giai đoạn 1930-1945.
  11. Chương 2: Những đóng góp của phóng sự Ngô Tất Tố đối với văn học Việt Nam (1930-1945). Chương này nhằm khẳng định những đóng góp của Ngô Tất Tố trên bình diện phóng sự về mặt nội dung và nghệ thuật. Chương 3: Những đóng góp của tiểu phẩm Ngô Tất Tố đối với Văn học Việt Nam (1930-1945). Chương này nhằm khẳng định đóng góp của Ngô Tất Tố trên bình diện văn tiểu phẩm về nội dung và nghệ thuật. Trong ba chương vừa nêu, chương ba tương đối phức tạp vì số lượng tác phẩm nhiều và cũng có nhiều vấn đề mới cần được giải quyết, nên chúng tôi đầu tư kĩ hơn và dành số trang nhiều hơn.
  12. Chương 1 NGÔ TẤT TỐ VÀ THỂ VĂN PHÓNG SỰ, TIỂU PHẨM TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (1930-1945) Ngô Tất Tố trong lòng độc giả Việt Nam là một con người mẫu mực, nghiêm túc trong cuộc sống cũng như trong hoạt động văn học. Đặc biệt trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật ông nổi tiếng là một người đa tài. Nhắc đến Ngô Tất Tố là nhắc đến một nhà nho lão thành với tư tưởng tiến bộ, một nhà văn, một nhà báo, một nhà nghiên cứu, phê bình, dịch thuật xuất sắc. Ngô Tất Tố tham gia vào nhiều lĩnh vực sáng tác và ở lĩnh vực nào cũng tạo được tiếng vang, được sự đồng tình ủng hộ của độc giả và đồng nghiệp. Năm 1923, ông bắt đầu con đường hoạt động văn học với tác phẩm dịch từ Trung văn: Cẩm Hương Đình, in tại Tản Đà tu thư cục (do Tản Đà mở từ năm 1922 tại 58 phố Hàng Bông). Trong thời gian này, văn học nước ta đang tiến dần đến sự hiện đại hoá toàn diện. Đây là giai đoạn giao thời của văn học, và từ đây Ngô Tất Tố đã có bước song hành cùng sự phát triển của nền văn học. Tài năng của ông ngày càng pht triển, chín muồi. Ơng trở thnh một trong những cây bút kì cựu của giai đoạn văn học 1930-1945, có nhiều đóng góp quan trọng, được bạn bè đồng nghiệp cng cc thế hệ độc giả yêu mến. Vị trí của ông đã được khẳng định trong văn học Việt Nam hiện đại (1930-1945) như là một nhà văn, nhà báo xuất sắc, một nhà tiểu thuyết lớn, một nhà khảo cứu phê bình, dịch thuật đầy tài năng: 1.1. Ngô Tất Tố - nhà văn, nhà báo xuất sắc trong văn học Việt Nam (1930- 1945) 1.1.1. Một nhà báo với ngòi bút chiến đấu sắc bén Nhắc đến sự nghiệp văn chương của Ngô Tất Tố trước hết là nhắc đến một Ngô Tất Tố – nhà báo. Với mảng thành tựu xuất sắc về tạp văn tiểu phẩm. Năm 1926, ông chính thức bước vào nghề báo và liên tục xuất hiện trên các báo An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phổ thông, Đông phương, Công dân, Hải Phòng tuần báo, Tương lai, Thời vụ, Hà Nội tân văn, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba… với các bút danh như : Phó chi, Thôn dân, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà, Xứ Tố, Lộc Đình, Thục Điểu, Tuệ Nhỡn, Đạm Hiên, Thuyết Hải, Hy Cừ, Xuân Trào… Sự xuất hiện của Ngô Tất Tố trên báo chí đã gây được sự chú ý của nhiều độc giả, họ bắt đầu quan tâm đến những bài báo ngắn trên các mục “Nói mà chơi”, “Nói hay đừng”… Với
  13. cái nhìn sắc sảo, ngòi bút tài năng và một trái tim nhân hậu, ông đã tạo ra những sản phẩm có giá trị vừa mang tính chiến đấu vừa mang tính giáo dục, được dư luận xã hội cũng như các đồng nghiệp đánh giá cao. Vũ Trọng Phụng đã giới thiệu về Ngô Tất Tố “Ngô Tất Tố là một nhà báo về phái Nho học, và là một tay ngôn luận xuất sắc, trong đám nhà nho. Làng báo bắc Kì, Trung Kì, Nam kì, cũng như độc giả, hẳn không ai mà lại không biết đến danh tiếng người ra đời từ khi thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu chủ trương An Nam tạp chí và đã viết nhiều bài đại luận, khảo cứu, bút chiến, phê bình, nhiều truyện lịch sử rất có giá trị, trong nhiều tuần báo và tạp chí cả Nam lẫn Bắc. Với cái sự được đời hoan nghênh ấy Ngô Tất Tố chẳng cần ai giới thiệu nữa…” [33, tr.409] Qua lời giới thiệu của Vũ Trọng Phụng, nhà báo Ngô Tất Tố hiện lên là mot con người hoạt động rộng. Không chỉ rộng về không gian, từ Nam chí Bắc, mà còn rộng về phạm vi hoạt động báo chí, ông có thể viết ở nhiều thể loại. Trước hết phải kể đến phóng sự, một thể loại báo chí giàu chất văn chương. Ở thể loại này Ngô Tất Tố đã tham gia một cách nhiệt tình và khẳng định được tên tuổi mình qua hàng loạt những tác phẩm có giá trị. Năm 1935, ơng viết phóng sự “Dao cầu thuyền tán” đăng trên báo Công dân. Ngòi bút của ông đã không ngần ngại phanh phui tất cả những ung nhọt của xã hội. Chính vì vậy cũng trong năm này, chính phủ cấm không cho ông viết Hải Phòng tuần báo, bắt ông dời hiệu thuốc về quê và trục xuất ông khỏi các thành phố lớn. Năm1939, ông cho đăng phóng sự “Tập án cái đình” trên báo Con ong. Năm 1940, đăng phóng sự “Việc làng” trên báo Hà Nội tân văn. Với hai tập phóng sự này, Ngô tất Tố thực sự là nhà báo hiểu biết sâu sắc về đời sống người nông dân với biết bao nhiêu nỗi vất vả cơ cực. Bùi Huy Phồn đã khẳng định đóng góp của “Việc làng” là giúp cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về nỗi khổ của người nông dân. Ơng viết: “Chúng ta chỉ mới biết rằng người nông dân bị bóc lột về kinh tế và áp bức về chính trị. Rằng cuộc cách mạng chống đế quốc và phong kiến đã giải phóng cho người nông dân thoát khỏi quan hệ sản xuất cũ. Nhưng còn điều mà chúng ta ít chú ý là, cũng nhờ có cách mạng người nông dân còn được giải phóng thoát khỏi trăm ngàn thứ hủ tục nó trói buộc, đè nén họ hàng ngàn vạn năm.” [33, tr.336] Nói như vậy là Bùi Huy Phồn đã công nhận Ngô tất Tố là người góp phần hoàn thiện cái nhìn toàn diện về đời sống cuả người nông dân, có nghĩa là khẳng định vị trí không thể thiếu của thiên phóng sự “Việc làng”.
  14. Nguyễn Đức Đàn và Phan Cư Đệ cũng đã khẳng dịnh vị trí của Ngô Tất Tố ở thể loại phóng sự: “Ngô Tất Tố vốn xuất thân nho học. Nhưng đối với một thể loại mới mẻ như thể loại phóng sự, Ngô tất Tố đã không tỏ vẻ bỡ ngỡ chút nào. Trái lại ngòi bút của ông khi nào cũng vững vàng, chắc chắn, lời văn bao giờ cũng bình dị, sáng sủa và cô đúc. Việc làng đã góp phần làm cho tên tuổi Ngô Tất Tố càng có thêm uy tín trong làng văn Việt nam” [33, tr.361] Một thể loại báo chí khác cũng góp phần làm nên thành công của toàn bộ văn nghiệp của Ngô Tất Tố đó chính là thể loại tiểu phẩm. Bàn về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, nhà nghiên cứu Lê Thị Đức hạnh nhận xét: “Chưa nói tới các lĩnh vực khác, chỉ riêng ở văn tiểu phẩm cũng đã thấy rõ được tính chất phong phú và đa dạng trong ngòi bút của Ngô Tất Tố. Ông vừa có tài “viết mỗi ngày một chuyện” lại vừa có tài viết mỗi bài một kiểu”. Vì thế qua hơn một trăm bài báo của ông, không thấy có sự đơn điệu trùng lặp. Trái lại độc giả dễ bắt gặp những thú vị bất ngờ” [33, tr.424] Phan Cự Đệ cũng đánh giá cao văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố: “Toàn bộ tiểu phẩm của Ngô tất Tố làm thành một bức tranh rộng lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam những năm trước cách mạng Tháng tám, nó đã cung cấp cho chúng ta những tài liệu quý giá về văn học, sử học, xã hội học, dân tộc học (phong phú nhất là những tài liệu về nông thôn và nông dân Việt Nam)” [33, tr.434] Có thể nói trên lĩnh vực báo chí, Ngô Tất Tố đã tung hoành ngang dọc, viết hết mình, chiến đấu hết mình. Ngày nay trên lĩnh vực ny Ngô Tất Tố được nhắc tên như một trong những người đi tiên phong, có cống hiến to lớn cho sự nghiệp báo chí Việt Nam. 1.1.2. Một nhà tiểu thuyết lớn Không chỉ khẳng định mình trên lĩnh vực báo chí, Ngô Tất Tố còn gây được ấn tượng khó phai trong lòng độc giả bằng những trang tiểu thuyết đậm chất hiện thực. Nhắc đến nhà tiểu thuyết Ngô Tất Tố là không thể không nhắc đến “Tắt đèn” cuốn tiểu thuyết đã làm rơi nước mắt bao thế hệ người đọc. Có thể nói ai đã từng đọc Tắt đèn thì không bao giờ có thể quên được không khí náo động, căng thẳng, ngột ngạt của làng Đông Xá trong vụ thuế, dưới thời Pháp thuộc: cổng làng bị đóng chặt, việc đồng áng bị đình đốn, dân làng bị dồn lại và bọn cường hào bắt đầu đốc thuế bằng gậy gộc, cùm kẹp, giữa tiếng thúc dục dồn dập của “mõ cá trên cột đình”, “trống cái dưới xá đình”. Người nông dân đầu óc căng thẳng chạy ngược chạy xuôi vay nợ, cầm đồ, “bán vợ, đợ con” hoặc kêu khóc thảm thiết. Sau luỹ tre xanh, làng Đông Xá êm đềm lặng lẽ bỗng trở thành chiến trường.
  15. Vũ Trọng Phụng, nhà văn cùng thời với Ngô tất Tố đã khẳng định: “Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội (…) một áng văn hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy” [33, tr.200] Hồng Chương cũng khẳng định vị trí của Ngô Tất Tố qua “Tắt đèn”: “Với Tắt đèn, với cuốn tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa duy nhất đó của ông, Ngô Tất Tố cũng đã xứng đáng được liệt vào hàng các đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam” [33, tr.242] Nguyễn Đăng Mạnh khi nói về tác phẩm “Tắt đèn” cũng không ngần ngại khẳng định: “Tắt đèn là một trong những thành tựu nghệ thuật xuất sắc nhất trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước cách mạng” [33, tr.271] Sự thành công của tiểu thuyết “Tắt đèn” có lẽ không còn ai phải bàn cãi, nhưng còn một tác phẩm cũng không kém phần tiêu biểu của Ngô Tất Tố đó chính là tiểu thuyết phóng sự “Lều chõng”, một tác phẩm miêu tả những bi kịch của những người trí thức thời phong kiến. Khác với “Tắt đèn”, ở “Lều chõng”, Ngô Tất Tố miêu tả một cách thẳng thắn, chân thực việc giáo dục và chế độ thi cử của phong kiến vào lúc suy tàn. Và sự ra đời của “Lều chõng” đã góp phần hoàn thiện cái nhìn đầy đủ, toàn diện của Ngô Tất Tố về xã hội. Đó là cái nhìn nhân hậu trước bao nỗi đắng cay cơ cực của người nông dân, cái nhìn cương trực, thẳng thắn vạch trần mọi ung nhọt của xã hội phong kiến thối nát, bảo thủ lỗi thời. Đáng quý là ở chỗ người có cái nhìn tiến bộ đó lại từng là một môn đệ của Khổng -Mạnh, của một nền Hán học lâu đời. “Tắt đèn” và “Lều chõng” cho đến nay đã khẳng định được sức sống bền bỉ vượt qua mọi sự thử thách của thời gian, chinh phục biết bao thế hệ độc giả của biết bao thời đại. Những thiên tiểu thuyết như thế đ khẳng định một cách vững chắc vị trí đầy vinh dự của Ngô Tất Tố trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945. 1.1.3. Một nhà khảo cứu, phê bình, dịch thuật tài năng Ngoài việc viết báo và sáng tác Ngô Tất Tố còn là một trong những nhà văn giu nhiệt tâm đối với công tác nghiên cứu. Chẳng những ông nghiên cứu văn học mà còn có công nghiên cứu cả triết học nữa. Ông nghiên cứu Mặc Tử, Lão Tử một cách công phu và thận trọng. Những cái hay và cái dở của các học thuyết được phân tích một cách su sắc, cắt nghĩa sng r. Ông không những am hiểu về triết học mà ông còn có khả năng áp dụng chúng để phân tích nhận định về hiện thực xã hội Việt Nam. Trong tác phẩm “Mặc Tử”, ông ca ngợi quan niệm phi nhạc, phi nho, phi mệnh, và một số quan điểm chính trị của Mặc Tử. Trong
  16. tác phẩm “Lão Tử”, Ngô Tất Tố lại giơi thiệu cho ta thấy r vũ trụ quan và nhân sinh quan của Lão Tử. Sau khi giới thiệu tác giả có nhận định, biểu dương những điểm tiến bộ và phê phán những điểm thoái hoá tiêu cực. Giá trị của những công trình này là ở chỗ Ngô Tất Tố không đóng khung trong việc khảo cứu các học thuyết cổ như xu hướng của nhiều nhà khảo cứu lúc bấy giờ, thường chỉ biết giới thiệu học thuyết một cách sách vở, mà ở đây tác giả biết vận dụng những kiến thức mới về triết học để phê phán, nhận định. Về phê bình văn học, Ngô Tất Tố viết khá nhiều, từ phê bình các nhân vật đến phê bình các tác phẩm của thời đại. nhưng phần nhiều là những bài ngắn đăng trên báo chí, in thành sách thì chỉ có quyển “ Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim” Đọc “Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim” chúng ta thấy Ngô Tất Tố quả là một cây bút phê bình sắc sảo và có tính chiến đấu. Lập luận của ông rất chặt chẽ, thái độ rất cương quyết. Trong đoạn đầu tác giả xác định rõ: “Với một cuốn sách có quan hệ đến tư tưởng học thuật của một dân tộc, không ai được phép vì nể tác giả mà nể luôn cả sai lầm trong sách để di ngộ cho người đời sau”. Xuất phát từ thái độ cương quyết ấy, có nhiều đoạn Ngô Tất Tố phê phán Trần Trọng Kim rất mạnh, ông cho rằng Trần Trọng Kim đã xuyên tạc Nho giáo, và thứ nho giáo mà Trần Trọng Kim ca ngợi không phải là Nho giáo mà là “Trần Trọng Kim giáo”!. Nếu chúng ta đặt tác phẩm phê bình này của Ngô Tất Tố vào hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ thì sẽ thấy nó có những tác dụng tốt. Nó vạch cho mọi người thấy dụng tâm của Trần Trọng Kim và chân giá trị của “nhà học giả” ấy. Như vậy với ngòi bút sắc sảo vốn có, Ngô Tất Tố đã tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu, phê bình một cách tự tin và có hiệu quả. Vẫn cái bản lĩnh hơn người của mình ông đã thực sự chinh phục độc giả bằng những luận điểm sắc bén, thông minh. Chưa dừng lại ở đó, tài năng của ông còn được bộc lộ một cách rõ rệt trong lĩnh vực dịch thuật. Với vốn Hán học uyên thâm, ông đã tham gia dịch các tác phẩm thơ chữ Hán thời Lý Trần, và thơ Đường, các bản dịch của ông hiện nay thường được đưa vào Sách Giáo Khoa của học sinh cơ sở cũng như học sinh trung học và được coi là những bản dịch chuẩn mực. Ông không chỉ đơn thuần dịch cu chữ thơ mà ông còn dịch được cả cái hồn cái thần của thơ. Thơ ông dịch, vì thế là thơ dịch xuất phát từ trái tim, chứa đựng tình cảm chứ không đơn thuần là một bản dịch nghĩa khô khan. Đánh giá về sự nghiệp dịch giả của Ngô Tất Tố Trần Thị Băng Thanh cho rằng: “Làm thơ, viết văn để lại dấu ấn đã khó, nói chi đến dịch. Vậy mà có thể nói Tản Đà và Ngô Tất
  17. Tố là những dịch giả đã để lại được những dấu ấn của phong cách cá nhân. Điều đó cũng hiếm và chính là cống hiến riêng, lớn của hai ông” [33, tr.518]. Nhìn tổng thể sự nghiệp của Ngô Tất Tố, người ta không thể không thán phục trước một ngòi bút đa tài, mạnh mẽ và bền bỉ như vậy. Sự nghiệp của Ngô Tất Tố đã dành cho ông một vị trí xứng đáng trong nền văn học nước nhà. 1.2. Phóng sự và một số đặc điểm chung từ gĩc nhìn thể loại 1.2.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của phóng sự 1.2.1.1. Sự ra đời của phóng sự Phóng sự là một thể loại báo chí mà ngay từ khi nó ra đời đã làm chấn động công chúng báo chí, còn các nhà cầm quyền thì ra lệnh đóng cửa các toà soạn báo vì tính chất nguy hiểm của những bài phóng sự. Leonard Ray Teel-Ron Tay đã viết : “Phóng sự có thể là vị trí quyến rũ hơn cả trong nghề báo” [Dẫn theo 20, tr.7], còn GS, TS Karel Storkal( Tiệp Khắc) lại cho rằng: “Phóng sự là một trong những thể loại báo chí được người đọc yêu thích nhất và cũng là một trong những thể loại khó nhất đối với người viết” [Dẫn theo 20, tr.7] Quan trọng, hấp dẫn như vậy nhưng phóng sự lại xuất hiện trên báo chí rất muộn. Không phải có báo chí là có thể loại phóng sự. Nhiều tài liệu nghiên cứu về báo chí truyền thông đã cho rằng thể loại phóng sự ra đời đầu tiên ở Châu Au vào cuối thế kỉ XIX, gắn liền với cuộc thắng lợi vì tự do báo chí dài suốt ba thế kỉ và sự phát triển vượt bậc của tư tưởng dân chủ, tiến bộ ở các nước phương Tây. Có thể nói là do sự biến động của xã hội: kinh tế nhảy vọt, khoa học kĩ thuật phát triển. Nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng, họ đã bắt đầu chán ngấy sự hư cấu và khát khao những điều chân thực về những mối quan hệ xã hội phức tạp, về những bất công ngang trái trong xã hội đương thời. Cùng với sự tham gia tích cực của các nhà văn vào địa hạt báo chí đã thúc đẩy thể loại phóng sự ra đời trên thế giới vào cuối thế kỉ XIX. Ở Việt Nam, Phóng sự ra đời muộn hơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng phóng sự bắt đầu manh nha từ những tác phẩm có tính chất người thực, việc thực như “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia Văn Phái. Hoặc phóng sự xuất hiện cùng với sự xuất hiện của báo chí. Trong công trình nghiên cứu “Phóng sự báo chí” của nhà xuất bản Lí luận chính trị lại cho rằng: Phóng sự chỉ có thể xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỉ XX, mặc
  18. dù báo chí Việt Nam có từ năm 1865, với những lí do rất khách quan có tính thuyết phục cao như sau: Thứ nhất : Vào những năm 30 của thế kỉ XX, lợi dụng chính sách “Pháp -Việt đuề huề” của chính phủ Pháp, hàng loạt thanh niên trí thức đã lên đường du học tại các nước Nhật, Pháp. Trong đó có không ít những người làm nghề báo, và những trí thức Tây học đó khi trở về nước đã mang trong mình những tư tưởng tiến bộ của phương Tây, như Hoàng Tích Chu, Đỗ Văn, Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình Bích…. Họ đã cùng nhau thực hiện một cải cách quan trọng trong nghề báo: áp dụng vào Việt Nam lối viết báo và cách trình bày báo hiện đại đã học được từ châu Âu, với lối hành văn gọn gàng, sáng sủa của người Pháp, khác với lối văn biền ngẫu, chứa nhiều điển tích Trung Hoa. Phóng sự “Tôi kéo xe” của Tam Lang Vũ Đình Chí được coi là một tác phẩm mở đầu cho lối viết này, được đăng trên tờ Đông Tây vào tháng 8, 1932, do Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn, hai người có công lớn trong việc thay đổi diện mạo báo chí nước ta. Đặc biệt Hoàng Tích Chu đã cho ra đời hàng loạt bài báo có thông tin thời sự nóng bỏng, tư liệu chính xác, mặc dù “lúc ban đầu độc giả xem đó là lố lăng, không thích hợp nhưng lần hồi, họ làm quen được và xem đó là lối viết thích hợp trên báo chí, nhiều người lại bắt chước Hoàng Tích Chu” [51, tr.126-127]. Cuộc thay cũ, đổi mới này đã tạo điều kiện cho các thể loại báo chí mang phong cách hiện đại du nhập dần vào Việt Nam, trong đó có Phóng sự. Năm 1942, nhà nghiên cứu phê bình Vũ Ngọc Phan đã viết: “Ở nước ta, nghề viết báo là một nghề mới có, nên những thiên phóng sự xứng đáng với cái tên của nó, cũng chỉ mới ra đời trong vòng mươi năm trở lại đây” [45, tr.520]. Nguyễn Đăng Mạnh cũng nhận xét: “Vào đầu những Năm 30 của thế kỉ này ( tức thế kỉ XX ) cùng với sự phát triển mạnh mẻ của báo chí, một thể văn mới ra đời; thể Phóng sư”[41, tr.63] Thứ hai, lịch sử dân tộc ta vào những năm 30, của thế kỉ XX dồn dập những biến cố dữ dội. Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn 1929-1939, những cuộc khủng bố cách mạnh hết sức tàn bạo của bọn đế quốc, sự bất công của xã hội đã đẩy người dân nghèo vào tình trạng hết sức bi thảm. Thực trạng xã hội với hình ảnh cùng quẫn của tầng lớp tiểu tư sản và dân nghèo thành thị; sự “phất” lên của những tên quan lại, địa chủ theo Pháp… là mảng đề tài hiện thực nóng bỏng, được các nhà văn lựa chọn để “mổ xẻ”, bằng “một lối tả thực như văn kí sự, trào phúng như văn châm biếm, cảm người ta như văn tiểu thuyết, mà trong lại bao gồm tất cả lối bút chiến về việc, nói tóm lại dùng cái lối tạo nên một thể linh hoạt và có hiệu lực vô cùng: thể Phóng sư” [45, tr.519].
  19. Thứ ba: Vào những năm 30 của thế kỉ XX, nền giáo dục quốc gia đã được phát triển một bước đáng kể. Các trường học phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đó là điều kiện tốt để tạo ra một lượng độc giả lớn của báo chí Việt Nam. Công chúng báo chí không còn hứng thú với tiểu thuyết lãng mạn như Bên bờ sông Hương hay Hồn bướm mơ tiên nữa. Họ đòi hỏi phải có những tác phẩm báo chí vừa phản ánh cụ thể chính xác về hiện thực cuôc sống đa dạng, bề bộn, vừa gợi cảm xúc trong lòng người đọc. Điều đó thúc đẩy phóng sự ra đời và nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí “ là đứa con đầu lòng của nghề viết báo”. Như vậy, có the khẳng định phóng sự Việt Nam ra đời từ khoảng những năm 30 của thế kỉ XX do hoàn cảnh biến động của lịch sử thúc đẩy, có sự tham gia của các nhà văn vào địa hạt báo chí và do công chúng báo chí đòi hỏi. 1.2.1.2. Qu trình phát triển của phóng sự Việt Nam Ngay từ khi ra đời phóng sự đã tồn tại bằng một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Nó len lỏi vào đời sống con người, làm đảo lộn, tạo nên những “cú sốc” trong công chúng báo chí. Theo từng thời kì lịch sử phóng sự ngày càng phát triển và ngày càng được hiện đại hoá. Có thể xác định ba giai đoạn phát triển của phóng sự như sau: Giai đoạn từ 1932-1945 Sự phát triển của phóng sự giai đoạn này được đánh dấu bằng tác phẩm phóng “Tôi kéo xe” của Tam Lang Vũ Đình Chí, đăng lần đầu trên tạp chí Đông Tây. Ở giai đoạn này, phóng sự vừa ra đời đã đạt tới đỉnh cao về nội dung và hình thức, thể loại. Tuy nhiên do đặc điểm của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, và tình hình báo chí phức tạp của những năm này, phóng sự ở giai đoạn này chia thành nhiều khuynh hướng khác nhau: Khuynh hướng thứ nhất : Ca ngợi chế độ thực dân bảo hộ, làm tan rã tinh thần chống ngoại xâm của một bộ phận công chúng thanh niên. Phóng sự “Tôi buôn lậu” đăng trên báo Dân nói, Sài Gòn, tháng hai năm 1938, của Đồng Phương, mô tả việc tác giả bám theo những đám buôn lậu vượt biên khá rùng rợn, hoặc những phóng sự mang tính chất mua vui rẻ tiền, khơi gợi thị hiếu thấp hèn, đầu độc tâm hồn trong trẻo của thanh niên, đến nỗi khiến Ngô Tất Tố phải thốt lên: “Họ không cần thuốc mê, chỉ dùng những văn thơ khêu gợi để đầu độc những óc ngây thơ của phụ nữ” [Dẫn theo 20, tr.26]. Khuynh hướng thứ hai: Phản ánh cuộc sống bần cùng của người lao động, đề cập đến nhưng bất công trong xã hội. Có thể nói rằng trong bối cảnh xã hội ngột ngạt của những năm 1930-1945, các phóng sự của Trọng Lang như: Trong làng chạy (1935), Hà Nội lầm than (1937) Làm dân (1938); Tam Lang với Tôi kéo xe (1932); Vũ Trọng Phụng với hàng
  20. loạt tác phẩm như: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934), Dân biểu và dân biếu (1935), Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Một huyện ăn tết (1938); Ngô Tất Tố với Việc làng(1940), Tập án cái đình (1939); Nguyễn Đình Lạp với Ngoại ô, Ngỏ hẻm, Thanh niên trụy lạc (1937-1938), Những vụ án tình (1938)… đã phản ánh phần nào nỗi thống khổ của một dân tộc thuộc địa. Tuy nhiên, những tác phẩm kể trên vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định về mục đích và tính khuynh hướng, chưa tìm được biện pháp giải quyết vấn đề thực tiễn. Khuynh hướng thứ ba: Là khuynh hướng của báo chí cách mạng. Những nhà phóng sự theo khuynh hướng này hoạt động bí mật, làm nhiệm vụ chính là tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, lí tưởng cách mạng, khơi gợi lòng yêu nước và kêu gọi nhân dân tham gia cách mạng. Cùng với cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, thể loại phóng sự trên báo chí cách mạng đã thực sự bám sát cuộc chiến đấu của quân và dân ta, cổ vũ và kịp thời động viên tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Giai đoạn từ 1945 đến những năm 80 của thế kỉ XX Phóng sự được coi là một trong những thể loại báo chí hàng đầu, là tấm gương phản chiếu bức tranh chân thực của thời đại qua các dấu mốc lịch sử trọng đại với những bài viết có chiều sâu và có tác dụng giáo dục cao. Đại hội Đảng (1986) đã mở ra một thời kì phát triển mới của dân tộc, xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển dần sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là cơ hội tốt để phóng sự thể hiện vai trò mũi nhọn của mình. Giai đoạn từ sau đại hội Đảng lần thứ VI (1986) Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI với chủ trương mở cửa và chính sách đổi mới, dân chủ hoá đời sống chính trị. Phóng sự đã thể hiện rõ vai trò xung kích của mình luôn có những vị trí trang trọng trên trang nhất của nhiều tờ báo. Những nhà làm phóng sự trong giai đoạn này đã mang đến cho công chúng những thiên phóng sự lớn, thực sự có giá trị, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng. Như vậy, mới chỉ mới khoảng hơn 70 năm có mặt tại Việt Nam thế nhưng thể loại phóng sự đã nhanh chóng ổn định, trưởng thành và không ngừng vận động, phát triển trước sự đổi thay của lịch sử, cuộc đời. 1.2.2. Khái niệm phóng sự 1.2.2.1. Thuật ngữ phóng sự Theo tác phẩm “Phóng sự báo chí” (Nxb Lí luận chính trị) thì thuật ngữ phóng sự, tiếng Anh là reportage, có nghĩa là truyền đạt, báo tin, thông báo. Được bắt nguồn từ gốc Latinh- Repor- có nghĩa là giành được cái gì đó trong chuyến đi. Người trung Quốc dùng danh động
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2