intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

97
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải gồm có 3 chương trình bày về các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải; hình tượng người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải; tác giả và người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH -------------------------------- HÀ HUY DŨNG NGƯỜI KỂ CHUYỆNTRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI Chuyên ngành: Lí luận Văn học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH. LÊ NGỌC TRÀ Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
  2. LỜI CẢM ƠN Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của GS.TSKH Lê Ngọc Trà, cùng sự đóng góp ý kiến của các Giáo sư – Tiến sĩ phản biện, các bạn đồng nghiệp, chúng tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quí báu đó. Dù đã hết sức cố gắng, nhưng vì khả năng và thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của các Giáo sư – Tiến sĩ và các bạn đồng nghiệp. Người thực hiện
  3. MỞ ĐẦU 1- Lí do chọn đề tài Nguyễn Khải là nhà văn sáng tác rất thành công ở nhiều thể loại: truyện, tiểu thuyết, kịch, kí, tạp văn và dường như ở thể loại nào cũng được đông đảo bạn đọc đón nhận. Trong các tác phẩm của ông thường thể hiện những mảng hiện thực rộng lớn có ý nghĩa tiêu biểu cho hiện thực đời sống cách mạng của đất nước. Đánh giá lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, trong sự vận động và phát triển, thành tựu của văn xuôi Việt Nam thời chống Mĩ, thời kì đổi mới, giới nghiên cứu phê bình luôn đặt Nguyễn Khải ở vị trí hàng đầu của lớp nhà văn cách mạng. Ông là một trong những người khơi nguồn cho văn xuôi tự sự Việt Nam thời kì đổi mới với cảm hứng “tinh thần dân chủ và nhân bản”. Tác phẩm của ông phản ánh được những tìm tòi thể nghiệm, những trăn trở của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Nguyễn Khải tự nhận mình là “giọt nắng nhạt” nhưng trang viết của ông luôn đậm nồng hơi thở cuộc sống, kịp thời đem đến cho người đọc nhiều lí giải đúng đắn và khêu gợi suy nghĩ về những vấn đề xã hội đang đặt ra trong cuộc sống. Vương Trí Nhàn viết: “Ông là một trong những nhà văn dẫn đầu của thời đại (…). Muốn tìm hiểu con người thời đại trong tất cả cái hay cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cch nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải.” [91, tr.121]. Nguyễn Khải sớm định hình một dòng viết “đón bắt những vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống hôm nay, của cái ngày mai rất gần”. Ông không ngừng tự vượt lên chính mình “tự làm mới mình” trong hành trình lao động nghệ thuật. Một nhà văn có quan niệm “nghệ thuật là khoa học thể hiện lòng người”, nên các sáng tác của ông đều có những đóng góp đáng kể trong tiến trình phát triển văn xuôi hiện đại. Để truyền tải quan điểm nghệ thuật của mình, Nguyễn Khải đã thay đổi sâu sắc từ diện mạo đến tâm lí nhân vật, nhất là người kể chuyện. Nhân vật người kể chuyện dưới ngòi bút của Nguyễn Khải mang dáng dấp hình tượng con người nhà văn, nhà báo say sưa khám phá những bí ẩn cuộc đời. Theo ông đây là “cuộc tìm kiếm mãi mãi” không ngừng nghỉ và hấp dẫn của sáng tạo văn học. Có lẽ vì thế mà nhà văn Nguyễn Khải là người được trao rất nhiều giải thưởng văn học. Ngay từ tác phẩm vào nghề, truyện vừa Xây dựng (1952) được giải khuyến khích về truyện ngắn và kí 1951 – 1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam. Truyện ngắn Một cặp vợ chồng (1960) giải nhất cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn học 1959 - 1960. Tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm (1982) giải A, giải thưởng về văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam 1985. Truyện ngắn Đất mỏ (1996) đoạt giải thưởng của Báo Văn nghệ 1997. Truyện ngắn Đàn bà (1997) là truyện nhận giải nhất cuộc thi truyện ngắn và kí, giải Cây bút vàng do Bộ nội vụ và Hội Nhà văn Việt Nam đồng tổ chức năm 1998. Tập Truyện ngắn và tạp văn, giải B Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1999. Đặc biệt ngày 01 tháng 09 năm 2000, nhà văn Nguyễn Khải được Chủ tịch nước kí quyết định
  4. phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt II) với chùm tác phẩm Gặp gỡ cuối năm, Xung đột, Cha và Con và … Ngày 21 tháng 09, tại Băng Cóc (Thái Lan) Nguyễn Khải nhận giải thưởng Văn học ASEAN năm 2000. Hơn nữa, Nguyễn Khải là nhà văn có quá trình sáng tác lâu dài, có uy tín và được khẳng định trong dư luận. Chọn một tác giả có vị trí hàng đầu của đội ngũ nhà văn cách mạng cùng với những tác phẩm nổi tiếng của ông để nghiên cứu đã nói lên được tính thiết thực của đề tài. Nghiên cứu Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải, xét về mặt ý nghĩa lí luận là góp phần tìm hiểu thi pháp Nghệ thuật trần thuật - một hiện tượng đang được các nhà nghiên cứu lí luận, phê bình văn học hiện nay quan tâm. Ý nghĩa lí luận thiết thực nhất là góp phần khắc phục sự nhầm lẫn phổ biến về tác giả và người kể chuyện hay nhân vật người kể chuyện xưng “tôi” … Tính cấp thiết của đề tài được xác định là “Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại. Mặc dù trong suốt thế kỉ qua các nhà lí luận, phê bình từ nhiều khuynh hướng tiếp cận khác nhau đã vật lộn với vấn đề này, nhưng cho đến nay nó vẫn còn là một vấn đề đòi hỏi tiếp tục xem xét, nghiên cứu.” [100, tr. 116]; về ý nghĩa thực tiễn: đề tài góp phần tìm hiểu toàn diện hơn về sáng tác của Nguyễn Khải – một nhà văn xuất sắc của thời kì đổi mới; về ý nghĩa sư phạm: đề tài sẽ làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên trong việc tìm hiểu tác giả Nguyễn Khải. Đây là những lí do để tôi chọn đề tài này. 2- Lịch sử vấn đề nghiên cứu Nghiên cứu về Nguyễn Khải và các sáng tác của Nguyễn Khải từ trước cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu. Chúng ta có thể kể một số nhà nghiên cứu và phê bình quen thuộc gắn liền với các sáng tác của Nguyễn Khải như Lại Nguyên Ân, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Thị Huệ, Đoàn Trọng Huy, Chu Nga, Vương Trí Nhàn, Đào Thuỷ Nguyên, Huỳnh Như Phương, Trần Đình Sử, Bích Thu, Đinh Quang Tốn ... Tuy nhiên, các tác giả trên mới chủ yếu đi sâu vấn đề Nguyễn Khải với những chặng đường văn học gắn với dân tộc và thời đại; sức chinh phục của các sáng tác của Nguyễn Khải đối với độc giả cũng như và chuyện văn chuyện đời của ông. Hầu như cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về “Người kể chuyện” trong sáng tác của Nguyễn Khải. Nếu có thì cũng chỉ là một vài ý kiến lẻ tẻ về phương thức trần thuật, về giọng điệu, về ngôn ngữ kể chuyện, về ngôi kể của chủ thể kể chuyện. Chúng ta có thể điểm qua một số nhận định về phương diện này trong nghệ thuật trần thuật của nhà văn Nguyễn Khải trong sáng tác qua các thời kì như sau: Về phương thức trần thuật: Đây là vấn đề được bàn tới nhiều nhất trong giới nghiên cứu phê bình khi nói về nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Khải. Ngay từ những năm đầu của thâp niên 60 của thế kỉ trước, khi Nguyễn Khải mới bắt đầu cho ra mắt những tác phẩm đầu tay, bắt đầu xác định vị trí của mình trên văn đàn, GS. Nguyễn Văn Hạnh (1964) trong
  5. bài “Vài ý kiến về tác phẩm của Nguyễn Khải”, Tạp chí Văn học, số 9. GS.viết: “tác giả có nhiều lúc bỏ lối tả mà chạy theo lối kể” [57, tr. 61]. Cũng bàn về vấn đề này, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn (1996) trong bài “Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách mạng từ sau 1945”, đã phát hiện: “Vẫn thích lối kể hơn tả. Vẫn không để ý nhiều tới cốt truyện, cái hình dáng của câu chuyện, mà tập trung vào việc làm nổi bật nhân vật, một kiểu người, một cách sống. Vẫn có một giọng văn vừa tự nhiên, vừa duyên dáng, cái duyên dáng dân dã, chứ không phải do làm điệu làm dáng mà có. Dẫu sao, cho đến hôm nay, tương ứng với các nội dung nhân bản kia, giọng văn ấy mới trở nên hiền hoà thuần thục như chưa bao giờ nó từng có” [57, tr. 119]. Các nhà nghiên cứu và phê bình đều nhận thấy Nguyễn Khải sử dụng lối kể hơn lối tả và đây là nét phong cách “vừa dân dã vừa hiện đại”, được coi như tự làm mới mình. Về giọng điệu kể chuyện: Nguyễn Khải - nhà văn hàng đầu của văn xuôi tự sự Việt Nam lại tự làm mới mình ở giọng điệu tường thuật. Trong bài “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn...”, GS. Trần Đình Sử phát hiện: “Để ý trong mạch văn của tác giả sẽ thấy ở giọng người kể chuyện... có khá nhiều giọng nói khác xen vào” [57, tr. 81]. Lại Nguyên Ân cũng khẳng định “có cái do người kể chuyện nói, có cái do những giọng khác nói” [57, tr. 82]. Nhận xét “Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải”, Đoàn Trọng Huy viết: “Nhà văn thường đứng ở nhiều góc độ, nhiều bình diện để tả và kể. Không chỉ kể bằng giọng của mình, bằng lời của người dẫn chuyện, tác giả còn biết biến hóa thành nhiều giọng điệu, phong phú khác nhau” [57, tr. 93]. Nhà nghiên cứu GS. Lê Ngọc Trà (1994) trong bài viết: “Văn học Việt Nam những năm mở cửa: Vai trò và thách thức”, đã nhận xét: “giọng người kể chuyện vẫn thông minh, lôi cuốn như trước đây, nhưng mỗi ngày một mềm mại, uyển chuyển hơn. Trong cái nói đi đã có cái nói lại, bên cạnh sự tự tin đã có cái tự chế giễu mình, cuộc sống đã được nhìn từ nhiều phía khác nhau (...). Bản thân lời kể chuyện cũng giàu chất suy tư hơn, cái nghĩ đã thấm đượm nỗi buồn của người nhận ra ý nghiã của thời gian và quy luật của đời sống” [139, tr. 22]. Bích Thu (1997) ở bài viết “Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải những năm tám mươi đến nay”, có phát hiện: “nhân vật người kể chuyện xưng “tôi” xuất hiện khá nhiều. Ở đó người kể chuyện và nhân vật tỏ ra bình đẳng “bằng vai phải lứa”, cùng tham dự vào cuộc đối thoại, cùng triết lí, tranh biện về một vấn đề, một hiện tượng nào đó trong cuộc sống xã hội gắn với bước chuyển biến của hoàn cảnh lịch sử, của thời đại” [57, tr. 123]. Chúng ta có thể nói, Nguyễn Khải là một nhà văn có giọng điệu riêng không ai sánh được mà cũng không ai học được. Về ngôn ngữ kể chuyện: Nguyễn Khải là người đặt nền móng về sự cách tân văn xuôi tự sự Việt Nam “đa thanh”, “đa giọng điệu”. Lê Thành Nghị (1985) với bài viết “Gặp
  6. gỡ cuối năm”, một tiếng nói nghệ thuật khẳng định cuộc sống” đã khẳng định “Một trong những biểu hiện tài năng của Nguyễn Khải là nghệ thuật kể chuyện, là cách sử dụng ngôn ngữ đối thoại đầy thuyết phục (...), trong đó tiếng nói của người dẫn truyện – người “vắng mặt” trong cuộc gặp gỡ, như tiếng nói của một thầy phù thuỷ cao tay đang điều khiển âm binh trước mặt” [57, tr. 335]. Về ngôi kể của chủ thể ke chuyện: Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định nhân vật “tôi” là một sáng tạo riêng, đặc sắc của Nguyễn Khải về kiểu con người tự ý thức trong văn học những năm đổi mới. Đinh Quang Tốn (1998) trong bài “Nguyễn Khải với Hà Nội”, có nhận xét: “Tác giả lại dùng phương pháp kể chuyện ngôi thứ nhất (tôi) làm cho người đọc cuốn hút, hấp dẫn như tất cả những chuyện đó là có thực, từ những chuyện trong cuộc đời tác giả, xung quanh tác giả mà tác giả đều chứng kiến, chỉ kể lại mà thôi” [57, tr. 376]. Nguyễn Thị Bình (1998) trong bài “Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết”, đã phát hiện: “Có một người kể chuyện đóng vai tác giả là nhà văn, nhà báo, là “Chú Khải”, “Ông Khải”... cùng với rất nhiều chi tiết tiểu sử như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng của văn chương. Người ấy biết lắng nghe, biết thán phục, đồng thời cũng biết “bợp tai” thiên hạ. Người ấy biết tự thú, biết khiêm nhường, đặc biệt là biết rõ chỗ non kém của mình” [141]. Gần đây, Lê Thị Hồ Quang (1999) có bài viết “Nhân vật “tôi”trong truyên ngắn Nguyễn Khải từ sau 1980” đã đưa ra nhận xét: “Đó là mot cái “tôi” đầy ý thức, luôn tự phân tích, xét nét và không ngần ngại “chường mặt” trên trang viết”, “Cho nên, trong tác phẩm, nhân vật “tôi” hiện lên như một con người già dặn, từng trải tuổi đời, tuổi nghề, nhưng lại rất “trẻ” trong cách nhìn đời, nhìn người” [109, tr. 117]. Vương Trí Nhàn khẳng định: “trong những trường hợp thành công nhất của mình, Nguyễn Khải hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi người mọi buồn vui khi quan sát việc đời. Đó là một phong cách vừa dân dã vừa hiện đại” [57, tr. 120]. Nhìn chung, những ý kiến nhân xét trên về các phương diện khác nhau của nghệ thuật trần thuật chỉ mới dừng lại ở mức độ đánh giá khái quát, chưa có lí giải một cách triệt để và hệ thống. Đặc biệt chưa có công trình nghiên cứu nào về người kể chuyện dưới góc độ thi pháp học. Tuy nhiên, những ý kiến đánh giá trên là những gợi ý qúi báu cho chúng tôi trong việc xác định một khuynh hướng tiếp cận mới đối với đề tài “Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải”. Đó là hướng tiếp cận theo đặc trưng thể loại. Với hướng tiếp cận này, chúng tôi muốn góp một tiếng nói vào sự khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khải trong nền văn xuôi hiện đại nước nhà. 3- Mục đích nghiên cứu Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại.
  7. GS. L Ngọc Tr viết: “ Chủ thể tường thuật là một mặt của vấn đề tác giả trong văn học. Nghiên cứu vấn đề người kể chuyện vừa tạo điều kiện để nhận thức quá trình cá thể hoá và cá nhân hoá trong sáng tạo văn học, vừa mơ ra cách tiếp cận với sự thể hiện của ý thức nghệ thuật, với cái nhìn của nhà văn trong tác phẩm” [135, tr. 155]. Nghiên cứu người kể chuyện trong tác phẩm Nguyễn Khải nhằm tìm hiểu các hình thức chủ thể kể chuyện, hình tượng người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả. Nghiên cứu “Người kể chuyện” cả về phương diện lí luận, vừa ứng dụng phân tích tác phẩm và qua đó, một lần nữa khẳng định tài năng Nguyễn Khải trong việc kế thừa và cách tân hình thức người kể chuyện trong văn xuôi tự sự. 4- Đối tượng nghiên cứu Luận văn tiến hành khảo sát 88 truyện ngắn và 13 tiểu thuyết, và xem đây là đối tượng khảo sát chính. Ngoài ra, chúng tôi chọn tìm những tác phẩm kí, tạp văn tiêu biểu của ông để làm rõ vấn đề nghiên cứu. 5- Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ nghiên cứu Người kể chuyện chứ không nghiên cứu toàn bộ nghệ thuật trần thuật trong sáng tác Nguyễn Khải. 6- Nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện đề tài, người viết hướng tới việc giải quyết các vấn đề cơ bản sau: - Tìm hiểu khi niệm người kể chuyện, lm r nội hm khái niệm này và xem đó là chìa khĩa để mở đối tượng nghin cứu, nhận diện nĩ trong tác phẩm Nguyễn Khải. - Khảo st thống k, miu tả hình tượng người kể chuyện từng truyện và tiểu thuyết của Nguyễn Khải, trên cơ sở đó đưa ra ý kiến bình luận, đánh giá phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khải. 7- Phương pháp nghiên cứu Thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, người viết sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: 7.1. Phương pháp hệ thống Khối lượng tác phẩm của Nguyễn Khải rất nhiều, chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống. Phương pháp này là một trong những phương pháp bao trùm trong thi pháp học. Đây là một trong những phương pháp cơ bản trong nghiên cứu thi pháp học. Sử dụng phương pháp này, chúng tôi tiến hành tìm hiểu truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải như là những chỉnh thể nghệ thuật thống nhất giữa yếu tố nội dung và nghệ thuật. Hơn nữa, khi sử dụng phương pháp này, chúng tôi muốn khái quát các hình thức chủ thể người kể chuyện thành một mô hình, trong đó có sự thống nhất hữu cơ các yếu tố, từ đó, giúp người đọc nhận thức vấn đề người kể chuyện đầy đủ, toàn diện và khoa học hơn. 7.2. Phương pháp thống kê, phân loại
  8. Đề tài bao quát toàn bộ văn xuôi tự sự của Nguyễn Khải, do đó chúng tôi vận dụng phương pháp thống kê kết hợp với phương pháp phân loại, nhằm chỉ ra các loại hình người kể chuyện và đặc điểm hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm, theo đó, chỉ ra những thành công và hạn chế của nhà văn về người kể chuyện trong các giai đoạn sáng tác. Vận dụng phương pháp này, chúng tôi sẽ đưa ra được những cứ liệu chính xác, cụ thể làm tăng thêm sức thuyết phục cho vấn đề nghiên cứu đặt ra trong đề tài. Việc tập hợp cc tc phẩm theo năm xuất bản, ngôi kể. v.v nhằm đáp ứng mục đích yêu cầu của từng chương, từng mục trong luận văn, giúp cho sự nhận xt, đánh giá vấn đề có cơ sở khoa học hơn. 7.3. Phương pháp so sánh, phân tích Để khẳng định được nét đổi mới, riêng biệt và đặc sắc của hình tượng người kể chuyện trong sáng tác của Nguyễn Khải, luận văn tiến hành so sánh giữa các sáng tác của nhà văn Nguyễn Khải trong từng giai đoạn, so sánh sáng tác của Nguyễn Khải với các sáng tác của môt số nhà văn tên tuổi Việt Nam cùng thời. Kết hợp với phương pháp phân tích, luận văn phát hiện ra những nét độc đáo của người kể chuyện trong sáng tác của Nguyễn Khải. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp này và có kết hợp với một số phương pháp khác để làm rõ cac luận điểm đặt ra trong luận văn. 8- Đóng góp của luận văn Nghin cứu người kể chuyện trong truyện v tiểu thuyết Nguyễn Khải dưới góc độ thi php học v tự sự học theo hướng tiếp cận xuất pht từ đặc trưng thể loại, sẽ gip cho việc pht hiện và khẳng định phong cch tc giả một cách có cơ sở khoa học. Đồng thời từ góc độ nghin cứu ny, người nghin cứu sẽ có điều kiện cắt nghĩa, lí giải thấu đáo cch xy dựng người kể chuyện trong thể loại tự sự, cụ thể l chỉ ra cc hình thức chủ thể kể chuyện, hình tượng người kể chuyện v mối quan hệ giữa tc giả và người kể chuyện trong tc phẩm Nguyễn Khải. Luận văn sẽ gip cho bạn đọc hiểu thêm về ci nhìn, lập trường, tâm lí, quan điểm xã hội của nhà văn đối với đời sống. Lí thuyết tự sự là một bộ phận không thể thiếu trong nghiên cứu văn học, ngày càng được quan tm, thì luận văn này sẽ góp phần nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự, là cơ sở để những cơng trình nghin cứu sau làm tư liệu tham khảo. 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn sẽ được triển khai trong ba chương: Chương 1 : Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải. Chương 2: Hình tượng người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải. Chương 3: Tác giả và người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải.
  9. Chương 1: CC HÌNH THỨC XUẤT HIỆN CỦA CHỦ THỂ KỂ CHUYỆNTRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI 1.1. KHÁI NIỆM NGƯỜI KỂ CHUYỆN Văn học là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Mỗi tác phẩm văn học là một mảng hiện thực đời sống muôn màu của con người, được thể hiện qua cái nhìn, qua cảm nhận đánh giá mang tính chất chủ quan của nhà văn. Tác phẩm văn học bao giờ cũng chứa đựng một thái độ tư tưởng, lập trường quan điểm và sự sáng tạo nào đó của nhà văn đối với đời sống. Mỗi thể loại văn học đều có những nguyên tắc riêng trong việc tái hiện và chiếm lĩnh hiện thực. Trong tác phẩm trữ tình, đó là nguyên tắc chủ quan - “nguyên tắc tái hiện và thuyết phục người đọc” [72, tr. 732]. Ngược lại, trong tác phẩm tự sự, nguyên tắc khách quan lại là nguyên tắc cốt lõi. Nguyên tắc khách quan trong tác phẩm tự sự góp phần quan trọng trong việc xác lập hệ giá trị của tác phẩm. Tác phẩm tự sự từ đầu đến cuối do tác giả viết, nhưng lại được kể từ một người nào đó. Người đứng ra kể trong tác phẩm tự sự được gọi bằng các tên như người trần thuật, người thuật chuyện, người dẫn chuyện, người kể chuyện, chủ thể trần thuật, chủ thể kể chuyện ... 1.1.1 Khái niệm Người kể chuyện là sản pham sáng tạo của nhà văn, là phương tiện quan trọng để thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình. Theo Lê Bá Hán: “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có the là hình tượng của chính tác giả, dĩ nhiên không nên đồng nhất với tác giả ngoài đời, có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra, có thể là một người biết câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có mot hoặc nhiều người kể chuyện” [123, tr. 221]. Cùng quan niệm trên, GS. Lê Ngọc Trà viết: “Người kể chuyện là thuật ngữ chỉ nhân vật đóng vai trò chủ thể của lời kể chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [135, tr. 153]. Trong bất kỳ tác phẩm nào cũng có người kể chuyện. Anh ta có mặt khắp mọi nơi, ở mọi lúc để giới thiệu nhân vật, để kể lại các sự kiện và thể hiện chiều sâu tâm lí nhân vật. Anh ta có thể quan sát nhân vat từ nhiều góc độ, khi đứng bên ngoài (điểm nhìn hướng ngoại), khi thâm nhập vào nội tâm nhân vật (điểm nhìn hướng nội), để sau đó rút ra ý nghĩa nhân sinh cho câu chuyện. GS. Lê Ngọc Trà nhấn mạnh: “Người kể chuyện và tác giả không phải là một. Không nên đồng nhất người kể chuyện với tác giả, ngay cả khi tác giả xưng “tôi” đứng ra trần thuật câu chuyện và hoàn toàn đứng ngoài sự vận động của các sư kiện, các tình tiết” [135, tr. 153]. Có nghĩa là, khi tác giả hòa nhập vào nhân vật đến mức quên cả bản thân, thì người kể chuyện và tác giả vẫn không phải là một - Người kể chuyện là sản phẩm sáng tạo của nhà
  10. văn. TZ. Todorov chỉ rõ đặc điểm “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng (...) không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đong thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật nhân danh cuốn sách được kể có vị trí hoàn toàn đặc biệt” [87, tr. 116]. Thực chất kể chuyện là hoạt động hội thoại giữa người kể chuyện và người nghe kể. Người kể co thể kể về mình (kể về ngôi thứ nhất), hoặc kể về người khác (ngôi thứ ba), cũng có thể kể về ngôi thứ hai (kể về người nghe). Người kể chuyện xuất hiện trong tác phẩm có nhiều dạng, hoặc vô hình hoặc lộ diện với nhiệm vụ dẫn dắt, miêu tả và kể lại diễn biến đầu đuôi câu chuyện. Anh ta như là chiếc cầu nối tạo mối quan hệ trung gian giữa nhân vật - người kể chuyện - độc giả. Người kể có thể dừng mạch kể để phân tích, bình luận những thay đổi của hoàn cảnh, diễn biến tâm lí của nhân vật. Người kể chuyện có vai trò lớn “Trong tác phẩm tự sự, vấn đề người kể chuyện có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhờ hình thức tường thuật, tác giả có thể trực tiếp phát biểu những cảm nghĩ, nhận xét của mình về nhân vật, về sự kiện được mô tả và về cuộc đời chung” [135, tr. 154]. Truyện có nhiều chủ thể kể chuyện, có vai trò không giống nhau. Đó là ý đồ của nhà văn trong việc mở rộng điểm nhìn. Từ nhiều góc độ nhìn khác nhau về nhân vật, về sự kiện sẽ tạo điều kiện cho độc giả ít bị lệ thuộc vào cái nhìn, cũng như lập trường quan điểm của tác giả. Vì thế, truyện kích thích đến mức cao nhất khả năng cảm thụ “nghiền ngẫm độc lập” của độc giả, hơn nữa tránh được lối kể đơn điệu, cố định, ít đổi giọng trong suốt tác phẩm. 1.1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện Trong tác phẩm tự sự, chủ thể kể chuyện có thể xuất hiện dưới các hình thức sau: 1/. Chủ thể kể chuyện kiểu “khách quan hóa” với ngôi kể thứ ba (vô nhân xưng); 2/. Chủ thể kể chuyện kiểu “chủ quan hóa” với ngôi kể thứ nhất (lộ diện). Kể chuyện kiểu “khách quan hóa” với ngôi kể thứ ba, chủ thể hoàn toàn ở ngoài cốt truyện, không thuộc vào thế giới của các nhân vật truyện, mà chỉ thực hiện nhiệm vụ theo dõi nhân vật, dẫn dắt, đứng sau hành đông để quan sát và kể lại, không trực tiếp tham gia vào sự kiện, biến cố truyện. Do tính chất hướng ngoại của nhân vật nên điểm nhìn của chủ thể kể chuyện hầu hết là từ bên ngoài. Chủ thể kể chuyện xuat hiện ở ngôi thứ ba luôn có một vị trí tốt nhất để theo dõi dẫn dắt nhân vật. Nhân vật ít có những cơ hội để phát biểu, suy ngẫm hoặc hồi tưởng. Chủ thể kể chuyện chi phối toàn bộ tác phẩm từ lời dẫn chuyện, cách kể, cách tả đến cả lời trữ tình ngoại đề. Chẳng hạn, chủ thể kể chuyện trong truyện dân gian, lời kể của chủ thể chiếm phần lớn so với lời của nhân vật. Người kể chuyện có thể thêm bớt ít nhiều lời kể về nhân vật, sự kiện, biến cố mà không ảnh hưởng đến cốt truyện, từ đó tạo nên tính dị bản của truyện. Người nghe phải tưởng
  11. tượng rất nhiều để hình dung đầy đủ về cuộc đối thoại của nhân vật. Người kể vừa là người truyền đạt, vừa diễn xướng tác phẩm, vừa là đồng tác giả, vừa là người tham gia sáng tạo lại. Người kể trực tiếp giao lưu với người nghe. Người nghe vừa là người thưởng thức, vừa là người tham gia vào quá trình sáng tạo tiếp. Người kể và người nghe gần gũi đồng cảm với nhau. Chủ thể kể chuyện trong truyện dân gian không để lại bất kì một dấu vết nào của riêng mình mà hòa mình vào tập thể. Với văn học viết, truyện kể từ ngôi thứ ba về cơ bản tác giả vẫn sử dụng phương thức trần thuật khách quan kiểu “vô nhân xưng”. Trong truyện kể ngôi thứ ba tác giả vẫn cố giấu mình, mặc dù câu chuyện là sản phẩm của chính mình. Tuy nhiên thông qua chủ thể kể, người đọc vẫn nhận thấy được thái độ, tư tưởng tình cảm của tác giả thể hiện ở các mức độ đậm nhạt khác nhau. Cái nhìn của chủ thể kể luôn hướng ngoại theo nhân vật. Chủ thể kể chuyện là người biết hết mọi chuyện, luôn theo dõi nhân vật, sự kiện nhưng không tham gia trực tiếp vào câu chuyện. Chẳng hạn Truyện Kiều của Nguyễn Du là truyện được kể ở ngôi thứ ba. Câu chuyện xoay quanh nhân vật Thúy Kiều suốt 15 năm lưu lạc. Lời kể của chủ thể kể chuyện ẩn mình dưới dạng “vô nhân xưng” là chủ yếu, chỉ dành rất ít ỏi cho Vương Quan kể về Đạm Tiên, kể về Thúy Kiều và Thúy Kiều tự kể về mình. Toàn truyện là lời kể của chủ thể kể chuyện vô hình suy gẫm về thân phân Thúy Kiều. Ngược lại, kể chuyện kiểu “chủ quan hóa” với ngôi kể thứ nhất “xưng tôi” thì chủ thể kể chuyện lại chủ động thực hiện nhiệm vụ dẫn chuyện, có thể tự đứng ra kể chuyện mình, kể chuyện người khác, hoặc cùng tham gia kể chuyện với các nhân vật, hoặc chủ động ủy quyền cho nhân vật tự kể. Chủ thể kể chuyện được cá thể hóa. “Tôi” chủ thể kể chuyện là một trong các nhân vât của truyện, là người bình luận từ bên trong, đồng thời cũng là người tham gia sự việc đang diễn ra. Điểm nhìn của chủ the kể chuyện hầu hết hướng nội do tính chất hướng nội của nhân vật. Ở vị trí điểm nhìn này, nhân vật được soi rọi từ bên trong, chủ thể kể dễ dàng tái hiện sinh động thế giới tâm hồn nhân vật, chủ động đối thoại để nhân vật phải nói lên ý nghĩ của mình. Khi chủ thể kể chuyện hướng nội xưng “tôi” ngôi thứ nhất thì điểm nhìn của chủ thể kể chuyện và nhân vật trùng nhau, người kể trở thành nhân vật chính của truyện. Người đọc khó phân biệt rõ ràng nhân vật nói hay người kể chuyện nói. Trường hợp chủ thể kể chuyện đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện thì người kể chuyện chỉ là một hình tượng giả định, được tác giả sử dụng làm người trung gian tưởng tượng ra giúp người đọc về cái được miêu tả. Chủ thể kể luôn giữ vai trò trung gian của một người đã chứng kiến sự việc, hạn chế tới mức tối đa việc bộc lộ cảm xúc để tạo điều kiện cho câu chuyện được kể mang tính khách quan. Trường hợp chủ thể kể chuyện xưng “tôi” kể lại một câu chuyện mà trong đó anh ta vừa là người dẫn chuyện vừa là một nhân vật thì cái “tôi” của người kể có mức độ cá thể hóa cao. Tác giả nhập vào chủ thể “tôi” với vai trò người dẫn, vừa đóng vai nhân vật xuất hiện cùng với các nhân vật khác trong truyện, vừa chứng kiến
  12. vừa tham gia nói chuyện với các nhân vật truyện. Trường hợp chủ thể kể chuyện xưng “tôi” vừa kể chuyện vưa bình luận thì chủ thể kể chuyện không phải là nhân vật truyện, anh ta chỉ song song đồng hành với nhân vật chính, gần gũi với nhân vật chính, đôi khi nhập vào đời sống nhân vật để suy tưởng. Có thể nói, trong tác phẩm tự sự, chủ thể kể chuyện xưng “tôi” với ngôi thứ nhất (lộ diện) xuất hiện với nhiều kiểu dạng khác nhau. Chính kiểu trần thuật “chủ quan hóa” với ngôi thứ nhất xưng “tôi”, lời của chủ thể kể chuyện làm cho tác phẩm tư sự trở nên đa thanh, đa giọng điệu. 1.2. CÁC HÌNH THỨC XUẤT HIỆN CỦA CHỦ THỂ KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI 1.2.1. Người kể chuyện ẩn, không lộ diện (truyện kể từ ngôi thứ 3, vô nhân xưng) 1.2.1.1. Không bình luận và trữ tình ngoại đề Nguyễn Khải đã kế thừa sáng tạo hình thức kể chuyện vô nhân xưng truyền thống. Phương thức tự sự này rất chú trọng sự gợi ý, không chấp nhận lối nói trực tiếp, công khai. Truyen kể từ ngôi thứ 3, ít để nhân vật tự thể hiện mình mà phải thông qua sự dẫn dắt của một nhân vật người kể trung gian. Các nhân vật, các sự kiện, biến cố trong tác phẩm dần dần được hiện hình từ lời kể của người ke chuyện. Người kể là người ngoài cuộc nhưng laị biết hết, hiểu hết tất cả mọi sự. Người kể không thuộc vào thế giới truyện kể mà chỉ quan sát, kể lại, kiêm vai trò dẫn dắt, điều khiển, tổ chức diễn biến hành động cho nhân vật. Do không tham gia trực tiếp vào biến cố truyện nên điểm nhìn của người kể hết sức linh hoạt, không bị hạn chế bởi thời gian, không gian nghiêm ngặt nào. Người kể dễ dàng di chuyển điểm nhìn từ nhân vật này đen nhân vật khác. Khoảng cách giữa người kể và nhân vật luôn được rút ngắn tối đa. Truyện chủ yếu là lời kể của người kể chuyện, lời của nhân vật ít có điều kiện bộc lộ. Vì vậy, truyện được kể có phần giảm đi tính sinh động, chân thực. Người kể chuyện phải truyền tải hết quan điểm, tư tưởng tình cảm, thái độ của tác giả vào thế giới nhân vật trong truyện nên sự hiện diện của người kể với tư cách là bóng dáng của tác giả, vì the người đọc ít nhiều bị áp đặt bởi thiên kiến chủ quan của tác giả. Cơ hội “đồng sáng tạo” của người đọc bị hạn chế. Lời của chủ thể kể chuyện chủ yếu là độc thoại, một giọng duy trì từ đầu đến cuối truyện, khó tránh khỏi sự nhàm chán cho người đọc. Trong hầu hết truyện kể ở ngôi thứ ba của Nguyễn Khải, người kể nói rõ với độc giả mọi điều. Đó là những khó khăn buổi đầu xây dựng cơ sở cách mạng, hợp tác hóa nông nghiệp tại vùng nông thôn Thiên chúa giáo được thể hiện qua các truyện Xây dựng, Nằm va, Đơn độc, Một chặng đường. Truyện Xây dựng (1951) có cốt truyện đơn giản, ít tình tiết, lời kể mang tính chất thông báo ngắn gọn về nhân vật Thắng và hành động của nhân vật này mà thôi. Người kể vừa quan st vừa đóng vai trò dẫn dắt v kể lại những gì thấy được. Hay ở truyện Nằm vạ (1956), với lối nu vấn đề, truyện cho thấy một kiểu dạng giáo dân mù quáng, tiếp tay cho bọn phản động, tìm cách phá hoại chế độ mới. Hoặc truyện Đi tới (1958) là chuyện có lối kể theo diễn biến tâm lí, lối
  13. tự sự hay rẽ ngang khi trình bày vấn đề. Cũng hình thức chủ thể kể chuyện kiểu “khách quan hóa”, tiểu thuyết Một chặng đường (1961 - 1963) lại sử dụng lối kể chuyện khách quan đảo lộn trình tự thời gian kết hợp lối kể rẽ ngang, giúp cho người đọc có được ấn tượng về một chặng đường kháng chiến chống thực dân Pháp, đấu tranh với những thế lực phản động đội lốt tôn giáo để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Hiện thực cuộc đấu tranh chống Mĩ cứu nước được thể hiện rất sinh động trong truyện Đi tới, Đường trong mây, Ra đảo… Trong tiểu thuyết Đường trong mây (1969) chủ thể kể tỏ thái độ ngợi ca những chiến công thầm lặng của cán bộ và chiến sĩ công binh làm nhiệm vụ mở đường, từ đó hướng người đọc cùng cắt nghĩa những vấn đề đạo đức lối sống, niềm tin và lí tưởng của con người trong hoàn cảnh chiến tranh. Trong tiểu thuyết Ra đảo (1970) người kể tập trung quan sát nhân vật ở điểm nhìn hướng nội để làm nổi bật tâm lí chịu đựng những khó khăn gian khổ cũng như niềm lạc quan của quân dân vùng Vĩnh Linh. Ở tác phẩm này, người kể đã chú ý khai thác diễn biến tâm lí nhân vật, nhưng chưa đi sâu mổ xẻ thế giới nội tâm nhân vật. Truyện Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (1993) là truyện kể ở ngôi thứ ba nhưng lại trao cho nhân vật quyền kể chuyện. Đây là truyện kể có nhiều cách tân so với lối kể chuyện truyền thống. Chủ thể kể chuyện vẫn tỏ thái độ khách quan, chủ động trao điểm nhìn và quyen trần thuật cho nhân vật: Sư già kể, ông đại t kể. Người kể thản nhiên ghi lại những điều chứng kiến, không bộc lộ trực tiếp tư tưởng tình cảm của mình đối với nhân vật. Do đó, hiện thực được phản ánh hoàn toàn cĩ tính khách quan và gây được ấn tượng cho người đọc. 1.2.1.2. Có bình luận và trữ tình ngoại đề Nếu ở hình thức người kể chuyện ẩn dạng không bình luận, trữ tình ngoại đề, người kể chuyện không để lộ mình, thì ở dạng có bình luận ngoại đề người kể lại không giấu mình qua lời bình luận, trữ tình ngoại đề. Tất nhiên, người kể vẫn không lộ diện rõ ràng như người kể chuyện “xưng tôi”. Hình thức người kể chuyện ẩn, không lộ diện dưới dạng có bình luận, trữ tình ngoại đề đã khẳng định cá tính sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Khải. Điểm chung của chủ thể kể chuyện là một mặt cố tách mình ra khỏi diễn biến câu chuyện, nhưng mặt khác, khi cần thiết lại hòa mình với nhân vật để khám phá thế giới nội tâm của nhân vật. Cũng có khi người kể tự ý rút lui cho nhân vật tự tìm đến với độc giả. Điểm nhìn của tác giả và nhân vật hòa làm một. Lời kể được vận dụng linh hoạt: khi thì lời nửa trực tiếp của tác giả phát biểu theo tâm trạng, cảm xúc suy nghĩ của một nhân vật, khi thì lời phát biểu gần như là lời của nhân vật. Ở trường hợp này, lời tác giả và lời nhân vật trùng nhau, khó phân biệt rạch ròi, bởi cách nói cũng đặc trưng cho nhân vật đó. Hình thức kể chuyện như thế làm cho người đọc cùng hòa mình với những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật. Người đọc cảm nhận được rõ tài nghệ của người kể khi mô tả diễn biến đời sống tâm lí nhân vật. Tuy nhiên, hình thức kể chuyện này vẫn bộc lộ tính hạn chế của nó: lời văn
  14. vẫn khô khan, thái độ người kể vẫn lạnh lùng, xa cách. Hai mươi hai tác phẩm Nguyễn Khải sử dụng ngôi kể thứ ba có bình luận, trữ tình ngoại đề đã giúp người đọc nắm bắt kịp thời những vấn đe như: Niềm tin tôn giáo trong Một đứa con chết, Xung đột, Cha và con và…, Điều tra về một cái chết. Trong truyện Một đứa con chết (1959) chủ thể kể xoay quanh sự kiện giáo dan hành hương về đất Thánh xin ơn đại xá của đức Chúa Lời. Người kể kín đáo thể hiện sự xót xa cho nhân vật qua lời trữ tình ngoại đề: “Trông nét mặt rúm ró của họ không ai tin được rằng trong giấc ngủ nặng nề kia họ lại có thể mơ tưởng ra một cái gì đẹp đẽ hơn, cao xa hơn, có lẽ họ chẳng mơ thấy cái gì hết. Vì khi xác thịt đầy đọa nhiều quá, bị ê chề nhiều quá thì con người ta cũng chẳng còn có linh hồn” [62, tr. 38]. Đó là dòng cảm xuc rất thật của chủ thể kể chuyện. Câu chuyện cĩ sức thức tỉnh người đọc về niềm tin tôn giáo. Trong tiểu thuyết Xung đột (1959 - 1961) người kể đã giúp cho người đọc thấy được những khó khăn trên con đường đưa nông thôn đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lồng vào đó là thái độ chống mê tín tôn giáo và niềm tin tôn giáo. So với tiểu thuyết Một chặng đường thì Xung đột, có nhiều thành công hơn về khả năng mổ xẻ tâm lí nhân vật, xây dựng được nhiều nhân vật có tính cách rõ ràng. Tuy nhiên, người kể thường lấn át nhân vật, áp đặt một lối nghĩ, khi vấn đề được giải quyết thì nhân vật thường bị bỏ quên, có xu hướng mờ nhạt dần sau các sự kiện biến cố của truyện. Người kể ít quan tâm đến những biến cố của câu chuyện, chỉ thuật lại cảnh ngộ của các nhân vật một cách khách quan theo nguyên tắc không tham gia vào chuyện của bất cứ nhân vật nào. Nhưng đôi lúc khó giữ được cảm xúc của mình trước nhân vật nên đã đưa ra lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề: “Năm năm chờ đợi và năm năm đã đi qua. Nước da của Huệ nhạt tái, quầng mắt thâm đen, bàn tay gầy guộc, run rẩy và mớ tóc xanh mượt của tuổi xanh cũng không còn nữa (…) chị bước chân vào nhà tu với những khát vọng trần tục, nay ngọn lửa của hi vọng bắt đầu tàn rụi, thì còn đâu sức mạnh chịu đựng khổ ải ngày thêm nặng nề” [48, tr. 216]. Từ lời trữ tình thương tâm kia, người đọc hiểu rõ hơn bi kịch của nhân vật Huệ. Về niềm tin tôn giáo trong nhân vật Mẫn, qua lời bình luận sắc sảo: “Tôn giáo và văn hóa quả thực có nhiều điều không thể đứng cạnh nhau được. Chẳng lẽ lại giảng là trái đất vuông, qua lớp mây xanh kia là thiên đàng, có Chúa và thiên thần ngự trị, hoặc dưới lòng quả đất này là xứ sở tung hoành của quỷ Lu – xi – phe. Chẳng lẽ nói cây lúa mọc lên là do ý Chúa, chứ không phải là do sự phát triển biện chứng của nó. Chẳng lẽ nói con người ta là đất bụi hèn hạ, chứ không phải là sinh vật cao quí. Chẳng lẽ khuyên người ta nhẫn nhục chịu đựng, chứ không phải là dũng cảm đấu tranh. Một đằng dìm con người xuống, một đằng nâng con người lên. Một đằng mê muội con người, một đằng làm cho con người trở nên sáng suốt, biết sống một cách có ý thức. Và có thể lấy thêm hàng nghìn ví dụ khác về sự đối lập không sao dung hòa được” [48, tr. 281]. Người đọc sẽ hiểu nhân vật Môn hơn qua lời trữ tình ngoại đề: “Ngày hôm nay với bao khó khăn và hi vọng! Một trật tự cũ bị tháo tung ra và một trật tự mới đang được tổ chức lại. Những thói quen cũ bi sụp đổ và những thói quen mới
  15. đang hình thành. Phá hủy và xây dựng. Chấm dứt và mở đầu. Có lẽ sau này người ta không phải băn khoăn nhiều lắm tới miếng ăn hàng ngày, người ta không sống bon chen, ích kỉ (…) vụ mùa sang năm cũng nên tổ chức một buổi liên hoan mừng thắng lợi một năm xây dựng hợp tác xã lắm chứ! Sẽ phải huy động một đội kèn đồng của ông Tạo chơi mở đầu một bài thật hoành tráng, mạnh mẽ, thật vang dội, ca ngợi sự vinh quang của Đảng, của nhân dân xứ Hỗ và chào mừng các thế hệ mai sau” [48, tr. 306]. Ở tiểu thuyết Cha và con và … (1979) người kể lại sử dụng điểm nhìn kết hợp vừa hướng nội vừa hướng ngoại: “Ngày khó khăn đầu tiên”, “Năm khó khăn đầu tiên” cha Thư luôn phải đối đầu với cha già Quản hạt, phải làm việc với Chánh trương, phải tiếp xúc với những đoàn thể cua xứ đạo nửa chính nửa tà, phải đối đầu với một bộ phận giáo dân luôn chống đối nhà nước. Có lúc Cha thất bại đã hóa ra người trầm lặng và buồn bã. Sau một năm, Cha quyết định trực tiếp “nói chuyện với những người đã vác khổ giá”, Cha đã tìm được cách hóa giải. Cha lấy giáo dân làm chúa của mình, làm người chỉ bảo của mình. Cha đã tìm được cách chung sống: “đi với giáo hữu tuân theo ý muốn của giáo hữu là nền tảng, là cội nguồn, cách mạng cũng từ đó mà có. Hội thánh cũng từ đó mà có, bổn phận linh mục cũng từ đó mà có” [48, tr. 604]. Người đọc được hòa niềm vui cùng cha Thư, thấu hiểu được thông điệp của tác giả: “Ý của dân là hiệu lệnh của thiên chúa, cái gì dân bảo phải là phải, cái gì không phải tức là không phải”. Còn trong tiểu thuyết Điều tra về một cái chết (1986) lại kể về một số nhân vật có thật trong lịch sử đạo Cao Đài. Vận dụng lối kể chuyện “vô nhân xưng”, lối dẫn chuyện đảo trật tự thời gian, đặc biệt thành công ở cách đặt điểm nhìn soi từ trong nhân vật, kết hợp với lối kể rẽ ngang trong miêu tả tâm lí nhân vật đã tạo cho truyện có những biến cố bất ngờ, gợi được cảm xúc cho người đọc: “Tôi chỉ muốn làm một việc có ích để cứu đạo, cứu đời, để đạo với đời được hòa làm một”. Người tường thuật ở ngôi thứ ba, nhưng nhiều đoạn truyện lại ủy thác cho nhân vật kể: ông Bảy Tiêu, Hai Gáo, Năm Sạng, Sáu Lưu, Tư Tốn … tự kể về mình. Qua lời kể của nhân vật, chuyện nhơ nhớp của Hội Thánh, tội ác của những kẻ cầm đầu giáo hội được bóc tran. Cuộc sống mới và sự hồi sinh trên nông trường Điện Biên được thể hiện cảm động trong tập truyện Mùa lạc. Truyện Mùa lạc (1959) tiêu biểu cho sự cách tân ngôi kể thứ ba của Nguyễn Khải. Người kể chuyện vô hình đã nhập vai vào thế giới nội tâm nhân vật, đứng cùng bình diện với các nhân vật khác trong tác phẩm. Điểm sáng tạo đáng nói trong tác phẩm này là việc di chuyển điểm nhìn của tác giả linh hoạt, nhuần nhuyễn. Nhân vật có tiếng nói riêng vừa sắc sảo vừa mang cá tính độc đáo. Người kể không chỉ trần thuật theo con mắt của người ngoài cuộc chứng kiến, rồi kể lại mà cịn di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật, nhập vai cùng nhân vật để kể. Từ lối kể chuyện nêu vấn đề, khai thác đường dây tâm lí, đảo trật tự trần thuật: hiện tại – quá khứ – hiện tại nên truyện đã tái hiện rất sinh động cuộc sống mới. Nông trường Điện Biên l nơi chị Đào có được tình yêu và hạnh phúc: “Nhưng khi gập lá thư lại thì một cảm giac êm đềm
  16. cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kì lạ dào dạt không thể nén lại nổi, khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mí mắt lại như đã mọng đầy nước chỉ định trào ra” [62, tr. 129]. Lời ngoại đề thấm đẫm chất trữ tình đã diễn tả được chiều sâu thế giới tâm hồn, thức tỉnh con người tự vượt qua chính mình. Truyện Đứa con nuôi (1960) là truyện kể về hoàn cảnh đứa trẻ mồ côi. Người kể dõi theo câu chuyện của hai bác cháu, rồi đưa ra lời bình luận: “Nó kể cái câu chuyện không lấy gì làm vui ấy với vẻ mặt bình thản. Đối với nó những hành động tàn nhẫn của người khác không có gì là lạ lùng, họ vốn là như thế, còn nó, nó sinh ra để mà chịu đựng và chỉ ước sao mau lớn lên, khỏe mạnh ra để chịu đựng được bền bỉ hơn. Ở đời này làm gì có được mấy người tốt, còn đời nó thì chắc là không thể sung sướng như người khác được”. Mạch kể dồn nén nhiều sự kiện chi tiết, nhiều đoạn trữ tình ngoại đề đan xen làm cho giọng điệu truyện giàu chất trữ tình: “Nó ở với chị thấm thoắt được gần bốn tháng. Nó đã đem lại cho cuộc sống cô quạnh của chị những niềm vui chưa từng có. Bây giờ nó lại đi, và một mình chị ở lại cái gian buồng nhỏ bé này, cái gian buồng mà bất cứ nhìn vào chỗ nào cũng thấy dấu vết con bé để lại.” [62, tr. 243]. Người kể đã để hé lộ nhiều thái độ tình cảm với nhân vật của truyện, mà lẽ ra (ở ngôi kể thứ ba) người kể phải giấu mặt. Qua người kể chuyện, người đọc nhận ra nhà văn đã nâng niu biết nhường nào tình thương yeu con người. Trong Chuyện người tổ trưởng máy kéo (1959) chủ thể kể chuyện đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó định kiến và ích kỉ là thói xấu ở đời, cần đấu tranh loại bỏ. Không như các truyện khác, truyện này kết hợp vừa kể vừa tả nên câu chuyện rất sinh động. Người kể tâm sự với độc giả, con người không dễ vượt qua những định kiến và sự ích kỉ vẫn thường có, nhất là tuổi trẻ khi nhìn vào quá khứ của người khác. Doãn phải vất vả lắm mới bỏ được mặc cảm xấu về Thoa. Được lí trí mách bảo, Doãn kịp nhận ra tình yêu chân thành Thoa dành cho mình. Tình yêu của Doãn Thoa chớm nở thì tổ máy của Dỗn lại lên đường, buổi chia tay lưu luyến hơn mọi lần, nhất là đối vơi Thoa: “Thoa quay về đi rất chậm, vừa ngắm nghía những miếng đất in hình mắt xích bị cày bật lên trắng xốp, dấu vết còn lại của những người vừa đi, như ở đấy có hơi thở, có tiếng nói, một khuôn mặt, một nụ cười. Chị về nằm vật ra giường, nước mắt ứa ra ướt lạnh hai mang tai” [62, tr. 122]. Lời trữ tình ngoại đề đ tạo ra được một điểm nhấn khiến người đọc cảm nhận được tình cảm rất chân thật cũng như nỗi buồn vui của nhân vật. Truyện Một cặp vợ chồng (1960) là truyện tiêu biểu cho lối dẫn chuyện bằng đường dây tâm lí của Nguyen Khải. Có thể nói, đây là sự kế thừa nghệ thuật kể chuyện xuất sắc từ Nam Cao. Các nhà phê bình đánh giá rất cao “tài năng phân tích tâm lí” của cây bút trẻ Nguyễn Khải trong tác phẩm này. Truyện kể về Giao, một y tá đẹp trai, anh thích được vợ chiều chuộng, nhưng lại không có trách nhiệm gì đến đời sống riêng tư của vợ. Vấn đề do đâu Giao có thái độ lạnh lùng
  17. đối với Thi: “Anh ưa thích cùng một lúc đạt được nhiều mục đích…”. Phải chăng “tuổi trẻ có nhiều việc cần phải làm, nhiều mục đích phải vươn tới? Anh muốn mình thuộc về mọi người và mọi người phải yêu mến mình. Anh sống vì triển vọng đẹp đẽ, chứ không thể sống vì vợ, vì hạnh phúc riêng lẻ.” [62, tr. 58]. Người kể phê phán Giao thiếu chín chắn với lời mỉa mai: “Anh ưa được hưởng thụ mà không muốn mình phải trả lại, anh mong muốn người khác san sẻ cho mình nhiều tình yêu thương, nhiều sự săn sóc, nhưng bản thân anh tính toán chi li và hết sức tằn tiện san sẻ cho người khác” [53, tr. 111]; đối thoại với bạn đọc: “Ôi chao! Một con người trai trẻ, nhiều tài năng và đầy triển vọng như anh lại là một thằng ích kỉ thật sao?” [53, tr. 122]. Truyện Tầm nhìn xa (1963) được mở đầu bằng cách nêu vấn đề. Năm 1959, một công trường lấy 160 mẫu đất thuộc xã Đồng Tiến để xây dựng nhà máy bị xã viên phản ứng: “Nông dân sống vì đất chứ không sống vì tiền” [62, tr. 245]. Từ đây, người kể chuyện ẩn mình dõi theo con người phĩ chủ nhiệm đầy mưu mẹo, xảo trá. Tuy Kiền làm những chuyện động trời, khiến cán bộ thiếu tỉnh táo vạ lây, nhưng: “Tuy Kiền vẫn tiếp tục sống cuộc đời vui vẻ và vô tư lự của mình”. Người kể không hề xuất đầu lộ diện, vẫn vô can trước những sự kiện biến cố truyện. Cách dẫn dắt nhân vật vào những tình huống, vào những ngã rẽ, buộc nhân vật tự mình biểu lộ tính cách đến chân thực. Điểm mới của truyện l việc vận dụng lời độc thoại đan xen với đối thoại, lời bình “Nhưng các anh đừng có nghĩ rằng sở dĩ tôi phải bám lấy cái chức vụ hiện nay để tiện bề xà xẻo đâu. Chính cái chức vụ này nó buộc tôi nhiều chứ, dù có làm gì, nói gì cũng phải nghĩ tới mình còn là anh phó chủ nhiệm… Sở dĩ tôi phải lăn vào với hợp tác xã, vì tôi không thể ngồi đấy mà nhìn anh em khác hoạt động được. Cơm ăn đủ rồi, áo đủ mặc rồi, con cái nhà cửa đề huề, thật tình chẳng phải ao ước gì nhiều nữa, chỉ còn mong được đóng góp cho phong trào, cho xã, được hoạt động cùng với các anh. Nó là nguồn vui của tôi, sống chết cũng phải gắn bó với nó. Trừ phi các anh bảo với tôi rằng: Mày là thằng tham ô, là thằng phá hoại, chúng tao không cần đến mày!” thì tôi đành phải lạy các anh lui về giữ nhà, trông con…” [62, tr. 274]. Truyện dựng lại toàn cảnh hiện thực nông thôn miền Bắc những năm đầu đi lên xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp. Người kể thẳng thắn phê phán đầu óc tư hữu của các cán bộ nông thôn. Vì đây là nguyên nhân đẻ ra tình trạng con người đặt lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích tập thể, lợi ích làng xã được coi trọng hơn lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội. Nó sẽ là trở lực lớn, nguy hại không nhỏ cho cuộc sống mới. Trong truyện Nguồn vui (1960) kể về đội trưởng Nông Kí Lâm, người lãnh đạo tài năng nhưng rất giản dị, hồn nhiên: “Nguồn vui cũng giản dị, hồn nhiên và trung thưc như chính bản thân anh”. Đặt điểm nhìn vào nhân vật, người kể diễn tả tâm trạng niềm vui mùa gặt của Nông Kí Lâm: “Một cảm giác khoan khoái, nhẹ nhàng như một người bị trói lâu ngày nay được buông thả, tự do vùng vẫy” [62, tr. 195]. Nguồn vui ấy có từ “Tình đoàn kết quân dân còn quí hơn cả nông trường này các đồng chí ạ. Có tình đoàn kết sẽ có tất cả, để mất nó thì chắc chắn sẽ mất
  18. hết” [62, tr. 200]. Vấn đề người bộ đội phục viên được đặt ra trong truyện Người trở về (1963). Trong tác phẩm này, lời trữ tình ngoại đề và lời bình luận của người kể lại như lời bày tỏ thái độ tiếc nuối cho nhân vật. Khang qu tự mn với điều anh từng trải, dẫn đến cách nhìn quê hương rất khắt khe, thiếu sự hiểu biết, thiếu sự cảm thông cần thiết. Ngay cả đối với người yêu anh cũng có cách nhìn nhận, ứng xử như vậy. Để khi nhận ra anh mới hối hận: “con người đẹp đẽ ấy đã thoát khỏi hai bàn tay hờ hững của anh mà bay đi xa rồi, không bao giờ anh có thể tìm lại được nữa, sao mà ngu ngốc và tự phụ thế, hở Khang ơi!”. Quan sát đường đi nước bước của nhân vật, người kể vui mừng về sự thức tỉnh của Khang “Bây giờ thì anh đã trở về nơi chôn rau cắt rốn rồi” [55, tr. 239]. Truyện kết thúc có hậu mang lại niềm vui trong lòng người đọc. Tc giả chủ động khai thc tâm lí “Người trở về” để người đọc suy tư. Tựa đề “Người trở về” vừa hướng tới nhân vật trung tâm lại vừa gợi ra một hiện tượng xã hội ở thời điểm ấy. Người lính sau khi rời qun ngũ, trở về với cuộc sống đời thường: “bắt nhịp vào nếp sống của xung quanh không đến nỗi quá vất vả”. Có thể nói, tác giả đã xử lí nghệ thuật một cách khéo léo, tạo được ấn tượng đặc biệt cho người đọc về Người trở về. Trong tiểu thuyết Chủ tịch huyện (1971) người kể đặt ra vấn đề: phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực chỉ đạo của người cán bộ nông thôn trong tình hình mới. Người kể tỏ thái độ khách quan nhưng giọng điệu lại tâm tình gợi cảm: “Chúng ta đánh giặc đã nhiều đời nên giặc đến ai cũng đánh được, đánh rất thạo rất quen (…) sản xuất nhỏ thì quen nhưng theo một qui mô lớn thì chưa quen, chưa làm bao giờ nên chưa quen” [48, tr. 434]. Tác phẩm này có hạn chế giống tiểu thuyết Xung đột, đó là người kể thường nói hết biết hết, thậm chí nói thay cho nhân vật, nên nhân vật chưa thật sự sinh động. Bao trùm lên truyện Đất mỏ (1995) là một giọng kể buồn của người kể. Một gia đình công nhân mỏ, sống quanh năm im lặng và buồn: “Là một gia đình nhưng không có cái vui cái buồn chung, không có sự tính toán chung nên cũng không có câu chuyện chung ngoài sự góp lại thành một món lương hưu của ông bố, lương tháng cua người con và tiền lãi buôn bán vặt của người mẹ” [54, tr. 15]. Tùng, người con trai duy nhất, làm nghề thợ lò lại hẩm hiu về đường vợ con. Người kể lướt qua tình cảnh của bố mẹ để tập trung soi chiếu vào tâm hồn cô đơn buồn tủi của Tùng. Anh đã cố gắng ngỏ lời yêu thương với một cô gái bỏ quê lên mỏ tìm việc làm nhưng bị từ chối: “Em chưa yêu ai bao giờ nhưng em vẫn không thể yêu anh, không thể làm vợ anh” [54, tr. 22]. Cơ yêu Tùng nhưng không thể chung sống với Tùng, vì người thợ mỏ, cái vui cái buồn đều có thể biết trước. Kết truyện là một nỗi buồn khó tả. Người kể diễn tả cụ thể tâm trạng nhân vật Lượm dằn vặt giữa tình yêu với thực tế đời sống người thợ mỏ: “Với phụ nữ, sự lựa chọn hình như chỉ được có một lần (…). Em không hối tiếc đã rời nhà đi đến đất mỏ. Nhưng em sẽ ân hận suốt đời nếu em bằng lòng ở lại đây mãi mãi” [54, tr. 23]. Lời độc thoại của Lượm về sự lựa
  19. chọn, diễn ra gấp gáp ở cuối truyện, trong một không gian mờ tối, lặng lẽ của ngôi nhà, làm người đọc thương cảm cho những số phận, những cuộc đời rất thật ở đất mỏ, thấy được tâm trạng ngậm ngùi cảm thông của tác giả. Trong các truyện Một thời gió bụi, Bạn viết cũ, Người của nghề … người kể kết hợp lời trữ tình và bình luận rất hóm hỉnh. Đây là nhóm truyện thể hiện rõ nét sự cách tân của Nguyễn Khải trong cách nghĩ cũng như trong cách viết. Trong truyện Người của nghề (1991), người kể tỏ ý mĩa mai: “Trong thế giới vật chất Tú là nguyên soái, trí tuệ sáng láng, hành động táo bạo nói năng sắc bén. Nhưng khi bước sang thế giới trừu tượng, cái thế giới của triết học, của văn học thì sự có mặt của anh luôn luôn thừa” [53, tr. 274]. Bởi Tú về trung ương là cốt đe trở thành một nhà văn với khát vọng: “chỉ cần viết vài cuốn sách để đời là hả rồi. Mình chết đi nhưng sách vẫn còn đấy, con cháu vẫn đọc được những tâm sự của ông cha, chức vụ nào, tiền bạc nào sánh được” [53, tr. 278]. Vì không tự biết mình nên Tú đã vỡ mộng. Tú là người không có năng lực làm báo và không bao giờ trở thành nhà văn được. Trong truyện Một thời gió bụi (1991) người kể hướng tới sự lí giải thời thế: “Năm 55 tuổi, Tú, người phụ trách trang văn nghệ của một tờ báo ngành xin nghỉ hưu. Anh còn khỏe mạnh nhưng mệt mỏi vì không tìm ra chỗ đứng trong cuộc tranh luận sôi nổi những vấn đề cấp bách ngoài xã hội cũng như của ngành, của cơ quan báo” [53, tr. 289]. Nhân vật tự biết mình là vật cản của một dòng chảy: “Tao cũng giống như một thứ đồ vật đã cũ, để thì thừa nhưng bỏ đi lại thiếu”. Với cách liên tục giao cho các nhân vật một phóng viên trẻ, vợ anh, con trai anh, con gái anh, con dâu anh, bác Trung, cháu Thành, cháu Huy, chú Đồi … theo dõi và đối thoại với nhân vật chính, làm tăng thêm điểm nhìn cho truyện. Với cách thay đổi điểm nhìn linh hoạt, tác giả đã tạo được ấn tượng mới trong lối kể chuyện của mình. Lối kể chuyện đó không buộc người đọc lệ thuộc vào quan điểm chủ quan của tác giả, trái lại nó kích thích sự suy gẫm: “con cháu trời đánh thánh vật, vặt cả đầu tổ tiên để lấy vàng”, “lòng tham lam đời nào cũng có nhưng xưa kia còn biết sợ thần thánh. Bây giờ thần thánh đã chết cả, đền miếu tan hoang nên con cháu mặc sức làm càn” [53, tr. 298]. So với truyện Người của nghề, chất suy tư, triết lí, chiêm nghiệm của tác giả trong truyện ny su sắc hơn, mang tính thời sự hơn. Ở truyện Bạn viết cũ (1998) điểm nhìn của người kể cũng rất linh hoạt nhằm diễn tả niềm vui của nhân vật khi nhận được giải nhì, một giải trao cho truyện ngắn hay của báo năm 1960. Giọng điệu người kể trong truyện này khi bình thản tự tin, khi trầm buồn, khi lại chiêm nghiệm. Bằng cách hóa thân vào nhân vật đại diện, lời người kể cũng là lời của nhân vật: “Tờ báo của các anh ấy mà, nó gói gém nhiều đời người, nhiều đời văn lắm đấy. Những đời văn thăng trầm, vất vả của một cai nghiệp làm người. Không có những cuộc đời ấy đổ vào cho báo làm sao nó sống được tận hôm nay” [53, tr. 229] tạo được ấn tượng mạnh về người kể. Trong những truyện Lạc thời, Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười … người kể có
  20. nhiều suy xét sâu sắc khi quan sát sự đời, kết hợp lời bình luận với lời trữ tình ngoại đề đ tác động mạnh mẽ đến người đọc. Trong truyện Lạc thời (1994), tác giả đặt nhân vật vào tình huống có tính kịch. Người kể chăm chú quan sát và tỏ thái độ rất phức tạp, vừa có phần bất bình vừa có phần chấp nhận hành vi của nhân vật. Trước hành động của ông Trắc, người kể lấy làm tiếc cho chuyện đã xẩy ra: “Sao lại thế nhỉ”, và bình luận: “lẽ ra ông chỉ đến chào bọn nhà văn, hẹn với chủ tịch huyện xin được gặp lại vào một bữa khác rồi ra về thì rất đẹp, đúng phép tắc, không làm phiền ai và nhất là không làm nhục mình”, “lẽ ra ông không nên có mặt buổi sáng hôm đó ở ủy ban huyện”, “Người không mời tự nhiên đâm bổ vào... Ông là người có lỗi, đúng thế!”, “Xưa nay ông nhẫn nhục cam chịu, đã chịu gần hết một đời người nhiều sự bất công thì có thể chịu nốt vài năm cuối cho nó trọn vẹn một con người tử tế…” (…) “không có tác phẩm để lưu lại cho hậu thế chí ít cũng để lại cái tiếng tốt. Sao thế nhỉ? Tại sao ông lại có cách cư xử ngược ngạo trái hẳn với bản tính đến thế nhỉ?” [53, tr. 417]. Hàng loạt câu hỏi đặt ra có sức hút người đọc cùng tham gia bình luận về nhân cách con người. Tiểu thuyết Một cõi nhân gian bé tí (1989) kể về những người thất bại: “Thất bại ở chiến trường, thất bại ở tuổi già, thất bại vì sự cô đơn lúc cuối đời thất bại không do mình gây ra mà do những ràng buộc vớ vẩn từ quá khứ”. Người kể có khi trao cho nhân vật quyền kể chuyện theo chính kiến của riêng mình. Lại có khi hòa mình với nhân vật, dùng lời nửa trực tiếp để diễn tả tâm trạng của nhân vật mà cũng là tâm trạng của người kể: “Người bị quản chế tại quê đưa mắt nhìn lơ láo khắp lượt, toàn người lạ, lạ đất lạ người. Vậy nơi nào là quen, chẳng một nơi nào hết. Một đời người lưu lạc khắp nơi, chẳng nơi nào là thật sự gắn bó, nơi nào cũng là nhờ là tạm. Về hẳn ở quê sống với con cháu chưa hẳn là thân thuộc. Chẳng có ai thực sự chờ ông ở đó cả” [49, tr. 371]. Khi cố ý đảo lộn trình tự trần thuật, kết hợp với lối kể rẽ ngang, đặc biệt là kiểu lơi thoại độc quyền làm cho nhân vật tự họa về mình sắc nét. Người đọc cảm nhận được sự đau xót của nhân vật: “Tao gây ra mọi tội lỗi, thì giết tao đi! Tao già rồi có chết cũng đáng” [49, tr. 461]. Cũng có khi lời kể lại mang một giọng điệu triết lí chiêm nghiệm: “Sống cái kiếp người cũng lạ, có người được đủ mọi đằng, có người lại hỏng hết mọi đằng (…). Sướng nhất là cái anh không nghĩ, thiên hạ chê là ngu đan, mặc xác thiên hạ, miễn là lúc nào cũng hả hê, cũng sung sướng là được (…). Sướng nhất là cái thằng ngu, càng ngu càng sướng” [49, tr. 452]. Qua đó, người kể muốn nói với chúng ta, mỗi người phải biết lựa chọn cái gì và phải có khả năng thích ứng với thời thế. Truyện Nơi về (1995) kể về tình cảnh của một đại tá cách mạng về hưu. Một người có nhiều chục năm ăn rất đói, mặc rất rách nhưng niềm vui thì bất tận. Vui vì đồng đội, vì viết báo: “Viết sau cơn sốt rét, viết sau ngày phá vây, viết lúc hành quân, viết lúc nằm bệnh viện trông con ốm”. Ông chỉ mới biết đến cái buồn từ ngày vợ mất, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Đời ông chỉ mong: “Con trai ông sẽ là sĩ quan chuyên nghiệp, con gái lớn là cán bộ khoa học…” [54, tr. 38]. Nào ngờ thời thế đổi thay. Về già, cha con càng ở với nhau càng lạ. Bởi vì cuộc sống giữa cha và
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2