intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật trong ký của Hà Minh Đức

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

22
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đi sâu vào tìm hiểu cuộc sống, con người được phản ánh trong các tác phẩm và nghệ thuật viết ký của ông. Từ đó, đóng góp một phần nhỏ vào việc khám phá một khía cạnh mới của một tác giả từ lâu đã quen thuộc trên lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Đồng thời góp phần tìm hiểu một cái nhìn mới về thể loại ký trong cảm quan của một nhà phê bình văn học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật trong ký của Hà Minh Đức

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ PHƢƠNG NGA THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG KÝ CỦA HÀ MINH ĐỨC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Đức Phƣơng Hµ néi - 2010
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4 3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5 4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp ........................................................ 5 4.2. Phương pháp thống kê, phân loại ........................................................ 5 4.3. Phương pháp lịch sử - xã hội ............................................................... 5 5. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 5 CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ KÍ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KÍ CỦA HÀ MINH ĐỨC.................................................................................... 7 1.1. Khái lược về kí ...................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm thể loại ......................................... 7 1.1.2. Thể kí trong văn học Việt Nam ................................................... 11 1.2. Hành trình sáng tác kí của Hà Minh Đức ......................................... 15 CHƢƠNG 2: CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG KÍ CỦA HÀ MINH ĐỨC ................................................................................................................ 20 2.1. Thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật ký Hà Minh Đức ......... 20 2.2. Đề tài nhà trường, thầy cô, bạn bè .................................................... 22 2.2.1. Hình bóng chân thực của con người và của một thời ................ 22 2.2.2. Những triết lý về cuộc sống ........................................................ 28 2.3. Đề tài những miền quê đất nước và nước ngoài ............................... 32 2.3.2. Những cảm nhận về nước Mỹ ..................................................... 39 2.4. Đề tài chuyện đời thường ................................................................... 45
  3. CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT KÝ HÀ MINH ĐỨC ............................... 55 3.1. Chất hiện thực và hư cấu trong các tác phẩm ký của Hà Minh Đức .. 55 3.1.1. Mối quan hệ giữa chất hiện thực và hư cấu trong thể loại ký .. 55 3.1.2. Biểu hiện của chất hiện thực và hư cấu trong ký của Hà Minh Đức ........................................................................................................... 56 3.2. Về ngôn ngữ, giọng điệu .................................................................... 59 3.2.1. Ngôn ngữ, giọng điệu phê bình, bình luận ................................. 60 3.2.2. Ngôn ngữ, giọng điệu trữ tình, lãng mạn ................................... 62 3.2.3. Ngôn ngữ, giọng điệu dí dỏm, hài hước ..................................... 65 3.3. Không gian, thời gian trong tác phẩm kí Hà Minh Đức .................. 69 KẾT LUẬN ................................................................................................... 74
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học Việt Nam từ sau năm 1975 có nhiều khởi sắc, đổi mới về cả phương diện nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Ở hầu hết các thể loại đều có những đổi mới, đóng góp vào sự phát triển chung của văn học dân tộc. Đặc biệt, bối cảnh đất nước đã hoàn toàn giải phóng không có nghĩa là con người đã hết những mối lo và cuộc sống đã mất đi những điều thú vị bất ngờ hay những hoàn cảnh éo le tác động đến chính bản thân con người. Ngược lại, trong hoàn cảnh đặc biệt này, cuộc sống của con người càng trở nên đa dạng, nhiều màu vẻ. Nếu như trong thời kỳ trước, khi đất nước còn chìm trong cảnh khói lửa chiến tranh, cả dân tộc đều hướng đến một mục tiêu cao cả nhất: đấu tranh giải phóng đất nước thì sau khi giải phóng, mỗi người lại trở về với cuộc sống riêng và những lo toan riêng của mình. Bởi thế, nhu cầu mọi mặt của xã hội con người đã có nhiều thay đổi và văn học đã nhanh chóng nắm bắt được sự thay đổi đó. Đề tài được quan tâm nhất của văn học giai đoạn này chính là đời sống con người thời kỳ hậu chiến. Những vấn đề về quyền sống cá nhân và những gì trước đây bị gác lại thì nay đã được các tác giả khơi gợi lại. Con người lo lắng cho bản thân mình và tự thể hiện mình nhiều hơn. Điều này đã dẫn đến một yêu cầu tất yếu dành cho nghệ thuật nói chung, đó là sự phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc đời. Văn học cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Đối với văn học, những thể loại có ưu thế lớn về việc phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc sống với tất cả những gì đang diễn ra có cơ hội và điều kiện để phát triển một cách mạnh mẽ. Và, đây chính là cơ hội cho kí được khẳng định ưu thế riêng của mình so với các thể loại văn học khác.
  5. 2 1.2. Từ trước đến nay, nói đến Hà Minh Đức, bao giờ người ta cũng nghĩ ngay đến hình ảnh của một nhà nghiên cứu, phê bình văn học xuất sắc thời hiện đại. Không nhiều người trong chúng ta biết rằng bên cạnh vai trò là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học, ông còn là một nhà văn, nhà thơ với sức sáng tạo khá dồi dào, tác giả của bốn tập thơ và năm tập bút kí có giá trị và gây được tiếng vang trên văn đàn văn học Việt Nam hiện đại. Năm 1999, khi tập kí đầu tiên của ông mang tên Vị Giáo sư và ẩn sĩ đường ra đời thực sự đã gây được tiếng vang lớn trong dư luận bởi một giọng văn thâm trầm, sâu sắc, giản dị và giàu xúc cảm, với những phát hiện tinh tế và những liên tưởng độc đáo. Các tác phẩm kí tiếp theo ra đời không chỉ đáp ứng được những nhu cầu của con người trong một xã hội mới mà còn tiếp nối được những thành công của những tác phẩm đầu tay, ghi dấu ấn tên tuổi tác giả Hà Minh Đức trên văn đàn với thể loại ký. Đặc biệt, Ba lần đến nước Mỹ đã được đánh giá là một tác phẩm viết khá thành công ở một đề tài khó về một đất nước đa dạng, nhiều màu vẻ mà ai cũng có thể hiểu phần nào, song để nắm bắt được bản chất của nó thì dường như là điều không phải ai cũng có thể làm được. Như vậy, có thể nói, không chỉ thành công trên lĩnh vực nghiên cứu văn học, Hà Minh Đức còn rất thành công trong vai trò là một tác giả sáng tác. Tuy nhiên, điều này ngoài những người thực sự quan tâm đến văn học hay nói đúng hơn là ngoài những chuyên gia, những nhà nghiên cứu, ít ai biết đến. Chính vì vậy, mặc dù có giá trị lớn song các tác phẩm ký của ông vẫn chưa được nghiên cứu, tìm hiểu và giới thiệu đến bạn đọc một cách có hệ thống. Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Thế giới nghệ thuật trong ký của Hà Minh Đức với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé
  6. 3 của mình vào việc khẳng định những giá trị cơ bản của tác phẩm ký Hà Minh Đức trong sự vận động, phát triển của thể loại. 2. Lịch sử vấn đề Những sáng tác kí của Hà Minh Đức thời kỳ này là sự kế thừa, tiếp nối và góp phần hiện đại hóa một thể loại không còn xa lạ với độc giả nói chung. Đây cũng là sự so sánh, đối chiếu với các tác giả cùng thời. Đồng thời, những sáng tác kí của ông đã khắc phục những hạn chế mà thơ ca hay văn xuôi không đáp ứng được trước những nhu cầu ngày càng đa dạng của cuộc sống con người. Mặc dù vậy, như đã nói, các sáng tác kí của Hà Minh Đức còn khá xa lạ với bạn đọc và các công trình nghiên cứu về các tác phẩm kí của ông còn rất ít và chưa có tính hệ thống. Hầu hết chỉ là những bài báo mang tính chất giới thiệu, đánh giá về các tác phẩm khi mới ra đời. Chúng ta có thể kể ra một số bài báo tiêu biểu đánh giá về các tác phẩm kí của Hà Minh Đức như: Bài bình luận của Trần Khánh Thành Bản lĩnh của một ngòi bút trong Ba lần đến nước Mỹ (Báo Văn Nghệ - tháng 4/2001) về tập Ba lần đến nước Mỹ. Tác giả khẳng định đây là tác phẩm của một người có bản lĩnh. Tác phẩm có sức hấp dẫn do tìm được cách tiếp cận vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau hòa trộn với cách viết giàu xúc cảm. Bài viết Một lần đọc Ba lần đến nước Mỹ của Đỗ Quang Hạnh (Báo Lao Động - Tháng 10/2000) khẳng định đây là một cuốn sách đáng đọc. Tác giả đã ghi chép một cách chân thực cảm nghĩ công việc trong những lần đến với nước Mỹ. Bởi yêu thơ và làm thơ nên mỗi trang viết của ông đều có chất văn, giàu cảm xúc Bài viết của Lưu Khánh Thơ về tập Người của một thời đăng trên báo Công an nhân dân có tính chất giới thiệu về tác phẩm trong lần xuất
  7. 4 bản. Tác giả đã đánh giá tập kí này đã hoàn thiện những mục đích ban đầu được đưa ra, không chỉ tái hiện cuộc sống và những con người một thời mà còn thể hiện được bản chất cuộc sống. Bài viết Bút kí và hồi kí thời kỳ đổi mới của Lý Hoài Thu (vienvanhoc.org.vn) đã xem xét những đặc trưng, những thành tựu của bút kí và hồi kí văn học trong hoàn cảnh lịch sử mới. Ở đó, tác giả đã dẫn ra các tập kí của Hà Minh Đức như những dẫn chứng tiêu biểu cho những giá trị của thể loại trong thời hiện đại. Ngoài ra còn có thể kể đến các bài viết của Đào Duy Hiệp và một số tác giả khác mang tính chất giới thiệu về các tập ký khi mới xuất bản. Như vậy, có thể nói, các bài viết này đã nêu bật được những đặc trưng tiêu biểu và quan trọng nhất trong các tác phẩm kí của Hà Minh Đức là đã phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc đời, nắm bắt được bản chất của cuộc sống với lối viết giản dị, chân thực nhưng cũng giàu chất thơ. Tuy nhiên, sự nhìn nhận, đánh giá còn chưa thật cụ thể và hệ thống. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Với việc chọn đề tài Thế giới nghệ thuật trong ký của Hà Minh Đức, chúng tôi muốn đi vào việc tìm hiểu cuộc sống, con người được phản ánh trong các tác phẩm và nghệ thuật viết ký của ông. Từ đó, đóng góp một phần nhỏ vào việc khám phá một khía cạnh mới của một tác giả từ lâu đã quen thuộc trên lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Đồng thời góp phần tìm hiểu một cái nhìn mới về thể loại ký trong cảm quan của một nhà phê bình văn học. Từ đó, có thể tìm hiểu một cách hoàn thiện và đầy đủ hơn về thể loại ký trong thời hiện đại. 3.2. Phạm vi nghiên cứu
  8. 5 Phạm vi nghiên cứu là các tác phẩm ký của Hà Minh Đức. Tuy nhiên, có sự so sánh, đối chiếu với các tác giả trước đây và các tác giả cùng thời để có cái nhìn tổng thể và toàn diện hơn. Các tập kí của Hà Minh Đức được khảo sát trong luận văn: - Vị giáo sư và ẩn sĩ đường (NXB Văn Học, 1999). - Ba lần đến nước Mĩ (NXB Văn Học, 2000). - Tản mạn đầu ô (NXB Văn Học, 2002). - Đi một ngày đàng (NXB Văn Học, 2004). - Người của một thời (NXB Văn Học, 2009). 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp thống kê, phân loại; Phương pháp lịch sử - xã hội. 4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp Đây là phương pháp quan trọng nhất. Phương pháp này giúp cho việc nghiên cứu, phân tích các vấn đề, các chi tiết về cả nội dung và nghệ thuật. Từ đó, khái quát nên những ý nghĩa nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc. 4.2. Phương pháp thống kê, phân loại Phương pháp này giúp cho việc tìm hiểu những khía cạnh về cuộc sống và con người được tác thể hiện trong tác phẩm. 4.3. Phương pháp lịch sử - xã hội Phương pháp này cho thấy những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm kí Hà Minh Đức có sự kế thừa từ truyền thống và không nằm ngoài dòng chảy chung của thể loại kí trong văn học hiện đại Việt Nam. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, luận văn gồm ba chương:
  9. 6 Chương1: Khái lược về ký và hành trình sáng tác ký của Hà Minh Đức Chương 2: Cuộc sống và con người trong ký của Hà Minh Đức Chương 3: Nghệ thuật ký Hà Minh Đức
  10. 7 CHƢƠNG 1 KHÁI LƢỢC VỀ KÍ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KÍ CỦA HÀ MINH ĐỨC 1.1. Khái lƣợc về kí 1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm thể loại Bakhtin từng nói: “Trong văn học, các thể loại luôn được đặt trong mối quan hệ bình đẳng về giá trị nghệ thuật song mỗi thể loại là sự thể hiện một thái độ thẩm mỹ với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người”. Từ trước đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau khi xem xét lịch sử phát triển của văn học. Trong đó, một số ý kiến cho rằng lịch sử phát triển của văn học chính là lịch sử ra đời của các thể loại. Bởi vì mỗi thời đại có những đặc điểm lịch sử khác nhau nên cũng đặt ra các yêu cầu khác nhau với các tác giả sáng tác. Vì thế, không chỉ nội dung phản ánh mà hình thức của các tác phẩm cũng phải thay đổi để phù hợp với nội dung, cũng là đáp ứng những nhu cầu khác nhau của thời đại và con người. Ý kiến trên của Bakhtin cũng có thể nói là sự đồng ý với quan điểm: lịch sử văn học là lịch sử ra đời của các thể loại. Chính vì vậy, không thể khẳng định rằng thể loại nào hiện đại và quan trọng hơn thể loại nào, mà chỉ có thể khẳng định rằng trong một giai đoạn lịch sử nhất định, thể loại nào phù hợp hơn. Như vậy, có thể nói, mỗi thời đại đã sản sinh ra dạng thức văn học mang đặc tính của nó. Trong đó, kí văn học là dạng thức văn học mang đặc tính thời đại của chúng ta: bận rộn, đa dạng và nhiều biến hoá.
  11. 8 Có thể nói, kí là tên một nhóm thể tài nằm ở phần giao thoa giữa văn học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại), chủ yếu là văn xuôi tự sự. Xét về mặt từ vựng, ký là sự ghi chép những điều trông thấy, những điều được chứng kiến, mắt thấy tai nghe hay những sự thật, việc thật. Bởi vậy, xét về mặt lịch sử, ký ra đời từ rất sớm. Trước khi có báo chí đã có các tác phẩm ký, chẳng hạn các tác phẩm ký của văn học Trung Quốc hay với xã hội Nga vào giữa thế kỉ XIX có nhiều hỗn loạn, chế độ nông nô sụp đổ, quý tộc suy đồi, tầng lớp hạ lưu bị bần cùng hoá, ký là một trong những thể loại chủ đạo của văn học. Trong xã hội Anh đầu thế kỉ XVIII, khi các tạp chí đăng những bài phác họa chân dung và cảnh sinh hoạt với mục đích châm biếm đã trở thành ngọn nguồn cho sự nở rộ của thể loại ký. Xã hội càng hiện đại, ký càng trở nên quan trọng bởi vì nó bắt kịp và đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng, từng ngày. Xét về mặt phân loại, có thể chia ký thành nhiều loại khác nhau, trong đó, các thể loại chính có thể kể đến là: ký sự, hồi ký, bút ký, tuỳ bút. Trong đó, ký sự là một thể của kí thiên về tự sự, ghi chép các sự kiện hay kể lại câu chuyện vừa mới xảy ra. Ký sự có cốt truyện hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh, cũng là loại thể có các yếu tố trữ tình xen lẫn với chính luận, yếu tố phi cốt truyện không nhiều. Ký sự là bức tranh toàn cảnh trong đó sự việc và con người đan chéo, những gương mặt nhân vật không thực sự rõ nét. Bút kí là một thể loại của ký, nằm trung gian giữa ký sự và tuỳ bút. Bút ký thiên về ghi lại những cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe trong các chuyến đi. Bút ký tái hiện con người và sự việc một cách phong phú, sinh động, qua đó, biểu hiện khá trữ tình khuynh hướng cảm nghĩ của tác giả, có màu sắc trữ tình.
  12. 9 Hồi ký là sự ghi lại diễn biến của câu chuyện, nhân vật theo bước đi của thời gian qua sự hồi tưởng của con người. Hồi ký là những ghi chép có tính chất suy tưởng của cá nhân về quá khứ. Sự kiện trong hồi ký có thể do tác giả tưởng tượng thêm. Tùy bút là một dạng khá đặc biệt của ký. Cũng là sự biểu hiện và phản ánh hiện thực cuộc đời, đặc biệt là những sự vật, hiện tượng hay những sự kiện đã và đang diễn ra, song ở thể loại tùy bút, người nghệ sĩ khá tự do trong việc biểu hiện cái tôi cá nhân riêng biệt và độc đáo của mình thông qua các thủ pháp nghệ thuật, việc điều chỉnh và sử dụng ngôn từ. Tùy bút nghiêng hẳn về phía trữ tình với điểm tựa là cái tôi cá nhân của tác giả. Như vậy, có thể nói, mặc dù bao gồm nhiều tiểu loại khác nhau song một điểm chung có thể thấy ở ký đó là những yêu cầu về chất hiện thực và nhiệm vụ nắm bắt được hơi thở của thời đại. Trước đây, ký thường bị xem nhẹ. Một số quan niệm cho rằng những nghệ sĩ không thể sáng tác các thể loại khác thì mới đi vào viết ký. Tuy nhiên, sự tồn tại và phát triển không ngừng của kí đã khẳng định điều ngược lại hoàn toàn. Trong quá trình viết ký, để viết được hay là điều cực kì khó khăn bởi vì tác giả vừa phải phản ánh một cách chân thực về hiện thực được chứng kiến, vừa phải tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn cho độc giả. Về đặc trưng nghệ thuật của ký cũng còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, ký là một thể loại nằm giữa văn học và báo chí. Chính vì vậy, nó vẫn bao gồm đặc trưng của cả hai thể loại này. Có thể nói, ký có mối liên hệ chặt chẽ, sâu xa với hiện thực xã hội. Nguyên tắc tiếp cận và phản ánh cuộc sống là cơ sở để tìm hiểu đặc điểm của thể loại ký. Ký quan tâm đến đời sống ở nhiều chiều, nhiều đặc tính. Nguyên tắc tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả là yêu cầu quan
  13. 10 trọng của thể loại này. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là kí loại bỏ hoàn toàn sự hư cấu của tác giả. Ở ký, sự hư cấu cần được kiểm soát và vận dụng có chừng mực, hợp lí. Giá trị của tác phẩm kí không nằm ở chỗ tác phẩm đó hư cấu nhiều hay ít mà là việc tác giả vận dụng hư cấu đó như thế nào để truyền tải tư tưởng đến người đọc, người nghe. Chính vì những đặc trưng hết sức quan trọng ấy, kí đã vượt qua báo chí, trở thành một thể loại văn học vừa chính thống, vừa mang tính tư tưởng cho thời đại. Đọc các tác phẩm kí văn học, chúng ta có thể thu nhận được nhiều hơn những đặc tính của thời đại, của hiện thực xã hội đang diễn ra bởi khả năng lôi cuốn và thu hút người đọc của kí là điều không c ần phải khẳng định thêm. Ngay trong ý thức của các nhà văn khi sáng tác bằng thể loại kí, chắc hẳn đều xác định được điều này bởi nếu không, tác phẩm kí không hơn gì sự ghi chép một cách đơn thuần về những gì đang diễn ra xung quanh con người. Ký cho phép tái hiện những thời đoạn lịch sử đã qua trong tiến trình phát triển xã hội thông qua những bình diện mà nó đề cập. Có những tác phẩm chủ yếu miêu tả các phong tục tập quán, có những tác phẩm chú ý miêu tả những nét tính cách xã hội, có những tác phẩm mang tính triết lý, có những tác phẩm mang âm hưởng trữ tình. Kết cấu của ký rất đa dạng, có thể là mô hình người kể chuyện để tạo sự thống nhất cho các thành phần, câu chuyện trong tác phẩm cũng có thể lấy các đoạn mô tả, các đoạn bình luận để làm phương tiện ráp nối các sự kiện. Như vậy, có thể nói, ký là một thể loại văn học gắn liền với sự thay đổi và những biến động của cuộc sống con người trong những giai đoạn và hoàn cảnh khác nhau. Với những đặc trưng rất riêng của mình, ký không chỉ làm phong phú thêm cho các thể loại văn học mà còn ngày càng
  14. 11 khẳng định được vai trò và tầm quan trọng của mình trong việc biểu hiện và phản ánh thế giới. 1.1.2. Thể kí trong văn học Việt Nam Như trên đã nói, ký xuất hiện từ rất sớm. Và, cũng như các thể loại khác, qua từng thời kì khác nhau, ký cũng có sự bién đổi để phù hợp hơn với trước hết là nhu cầu thể hiện và phản ánh của người nghệ sĩ, sau nữa là đáp ứng những nhu cầu khác nhau của độc giả. Ở Việt Nam, ký cũng xuất hiện sớm, từ thời kỳ văn học trung đại dưới sự ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện của văn học Trung Quốc. Trong văn học trung đại Việt Nam, những tác phẩm ký tiêu biểu có thể kể đến đó là: Thượng kinh kí sự (Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)… Cùng với sự phát triển của văn học qua các thời kì lịch sử của dân tộc, ký cũng không ngừng phát triển. Với tính chất là một thể loại coi trọng tính khách quan và khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống, một điều tất yếu là ký luôn luôn gắn liền với những thăng trầm, đổi thay của lịch sử dân tộc. Thời kỳ 1930 - 1945 đã chứng kiến sự phát triển mạnh của thể loại phóng sự, đặc biệt là phóng sự về các tệ nạn xã hội. Đó là Tôi kéo xe (Tam Lang), Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng), Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố). Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cùng với các thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca, ký đã tạo nên một diện mạo mới cho văn học Việt Nam hiện đại, nắm bắt được một cách kịp thời, chính xác những đổi thay cũng như hơi thở của thời đại. Thời kỳ này, các tác phẩm ký đã xuất hiện với số lượng lớn, chất lượng cao như: Ký sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng, 1951), Truyện và ký sự (Trần Đăng, 1954), Nhật kí Ở rừng (Nam Cao, 1956). Trên văn đàn Văn học
  15. 12 Việt Nam thời kỳ này, đã khẳng định tên tuổi Nguyễn Tuân - một tác giả văn học xuất sắc, một nghệ sĩ ngôn từ. Đặc biệt, ở thể loại tùy bút, những tác phẩm của ông cho đến nay và mãi về sau này nữa, khó ai có thể vượt qua được. Từ một nhà văn lãng mạn thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, sau khi Cách mạng thành công, ông đã tham gia phục vụ kháng chiến với những tác phẩm xuất sắc, gắn liền với những chuyển biến của lịch sử dân tộc như: Bút kí Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)...Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, các tác phẩm của Nguyễn Tuân nói chung và các tác phẩm kí của ông nói riêng cũng đã đi vào việc phản ánh những đổi thay của cuộc sống mới, con người mới và ông cũng ghi dấu ấn đậm nét với tùy bút Sông Đà bằng những trang văn hết sức độc đáo. Từ sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, ký phát triển mạnh mẽ, có nhiều bước đột phá trong việc phản ánh cuộc sống mới, con người mới. Và, không phải là ngẫu nhiên khi trong giai đoạn này, kí lại là thể loại có sức phát triển mạnh mẽ nhất. Điều này có thể lý giải bằng một nguyên nhân cụ thể, chủ yếu. Đó là trong thời kỳ hòa bình, đời sống xã hội đang có những biến đổi mạnh mẽ đã tác động trực tiếp đến cuộc sống của những con người cụ thể. Con người trước đây sống vì cộng đồng, vì dân tộc với khát vọng cống hiến sức mình cho mục tiêu cao cả mang tầm vóc quốc gia thì ngày nay, bắt đầu hướng về bản thân mình và hướng tới hiện thực cuộc sống đang diễn ra xung quanh. Con người muốn có những tác phẩm văn học phản ánh một cách chân thực và toàn diện về cuộc sống đang ngày càng có nhiều đổi thay. Với ưu thế xuất phát từ hiện thực và tôn trọng hiện thực cuộc sống, kí đã phát triển và khẳng định tầm quan trọng của mình trên văn đàn như một điều tất yếu. Chính vì vậy, thể loại này đã có những bước phát triển mạnh mẽ hơn nhiều so với các thời kì trước đó. Từ cuối những năm 80, đầu những năm 90, trên văn đàn văn học
  16. 13 Việt Nam đã xuất hiện một số tác phẩm kí có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật như: Các tác phẩm kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984)… Đây chính là những tư liệu quý giá không chỉ cho việc tìm hiểu một giai đoạn lịch sử đáng nhớ của dân tộc mà còn đánh dấu cho nhu cầu tự thể hiện của mỗi người nghệ sĩ. Trong bước phát triển chung đó của thể loại ký, cho đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX, bút ký và hồi ký lại có bước tiến mạnh mẽ hơn cả. Sở dĩ như vậy là vì hai tiểu loại này có ưu thế lớn trong việc phản ánh hiện thực. Với bút ký là sự ghi lại những điều mắt thấy tai nghe của nhà văn trong những chuyến đi hay những câu chuyện, con người được tiếp xúc ngay trong cuộc sống thường nhật. Với hồi ký là sự ghi lại những sự kiện theo bước chuyển của thời gian qua sự hồi tưởng của con người. Các đề tài được quan tâm đến đó là những đề tài vĩ mô như tái hiện bức tranh hào hùng của dân tộc qua hai cuộc chiến tranh vĩ đại hoặc ký ức về những sự kiện, các biến động lớn của các dân tộc nhưng mang tầm vóc và sự ảnh hưởng đến toàn cầu. Bên cạnh việc khai thác các đề tài mang tầm vĩ mô về đất nước, dân tộc, các tác giả đã chuyển sang bám sát và phản ánh cuộc sống vi mô với muôn mặt đời thường của con người. Chưa bao giờ cuộc sống cá nhân của con người với những gì bình thường nhất được quan tâm nhiều như lúc này. Nhà văn đã tái hiện cuộc sống với tất cả những gì ngổn ngang, bề bộn nhất, bởi đó chính là thực tế mà con người đang phải đối mặt. Điều này đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là các nhân vật trong kí lúc này là những con người rất đỗi bình thường, quen thuộc trong đời sống mỗi chúng ta hoặc là những số phận nhỏ bé của cuộc sống thực tại. Có thể thấy rất rõ điều này trong các tác phẩm tiêu biểu như: Cát bụi chân ai (Tô Hoài), Chân dung và đối thoại (Trần Đăng Khoa), Từ bến sông
  17. 14 Thương (Anh Thơ), Bốn mươi năm nói láo (Vũ Bằng)…Họ là những số phận, những cá nhân độc lập và mang đậm những nét tính cách riêng biệt, mang bản sắc cá nhân rất rõ nét. Từ đó, chúng ta có thể có cái nhìn đa dạng, nhiều chiều hơn về con người và cuộc sống, về những điều tưởng như đã quá đỗi quen thuộc. Với đề tài này, một điều khá đặc biệt là chúng ta bắt gặp khá nhiều những tác phẩm viết về những con người hoạt động trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật giống như là việc các tác giả xây dựng lại những bức chân dung về tri âm, tri kỉ, mang lại những hình ảnh về họ là những tài năng nghệ thuật nhưng cũng là những con người rất đỗi bình thường với đời sống tinh thần vô cùng phong phú nhưng cũng hết sức gần gũi đối với mỗi chúng ta. Đó là những Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Hoàng Trung Thông…Việc tái hiện những hình ảnh của họ trong tác phẩm cũng chính là sự nhớ lại những giai đoạn khó phai mờ trong lịch sử một thời. Với những nhu cầu phản ánh đa dạng và phong phú ấy, một hệ quả đã dẫn đến về mặt tính chất của thể loại kí trong thời kỳ hiện đại đó là sự giao thoa, gia nhập, pha trộn, chuyển hóa lẫn nhau của các thể loại. Nói như nhà văn Nguyên Hồng: “Bây giờ, chúng ta có thể đọc một bài bút kí trong đó không thiếu những đoạn viết theo lối phóng sự lẫn hồi kí và có cả truyện ngắn” [22; 45]. Điều này đã minh chứng cho sự phát triển ngày càng linh hoạt và năng động của thể loại ký trong từng thời điểm khác nhau. Trong những năm gần đây, đã xuất hiện một số tác phẩm ký gây được sự chú ý, quan tâm của người đọc. Đó là tập nhật kí của nữ anh hùng - bác sĩ Đặng Thùy Trâm hay của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Những tác phẩm này đã không chỉ tái hiện một cách chân thực, sinh động một thời kỳ lịch sử vẻ vang của dân tộc với những hình tượng con người bất khuất, anh dũng và đầy lý tưởng mà còn giúp thế hệ trẻ ngày nay tự nhìn nhận lại
  18. 15 mình trong mối quan hệ và trách nhiệm với quốc gia, dân tộc. Bên cạnh đó, còn là những tập hồi kí của những người của công chúng cũng gây được sự tò mò, chú ý cho người đọc như: Lê Vân yêu và sống Như vậy, có thể nói, ký là một thể loại văn học đặc biệt. Cũng giống như các thể loại văn học khác, ký xuất phát từ cuộc sống và quay trở lại phục vụ cuộc đời. Tuy nhiên, điểm đặc biệt khiến cho ký khác với các thể loại khác đó chính là ký đòi hỏi cao về tính khách quan và khả năng phản ánh hiện thực. Ký không hẳn hoàn toàn là một thể loại văn học mà còn có sự giao thoa và mối quan hệ khăng khít với báo chí. Không thể phủ nhận những ảnh hưởng của báo chí đến ký, nhưng không nên xem ký là kết quả của sự thâm nhập của báo chí vào văn học. Điểm phân biệt giữa ký văn học và kí báo chí chính là ở màu sắc trữ tình và sự hư cấu của tác giả. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là ký văn học được quyền hư cấu một cách thoải mái, tự do. Sự hư cấu này vẫn phải có giới hạn, đảm bảo đặc trưng riêng của thể loại. Chính vì vậy, việc tìm hiểu ký trong những sáng tác của một tác giả cụ thể là việc làm cần thiết để mang lại cho chúng ta cái nhìn toàn diện và đa chiều hơn về thể loại này. 1.2. Hành trình sáng tác kí của Hà Minh Đức Hà Minh Đức nguyên là viện trưởng Viện Văn học, nguyên chủ nhiệm khoa Báo chí - Đại học Tổng hợp. Ông sinh ngày 3/5/1935 tại Vĩnh Lộc - Thanh Hóa. Ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn - Đại học Tổng hợp (Nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) năm 1957. Từ năm 1957 đến nay, ông lần lượt đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như: trưởng bộ môn Lý luận văn học, phó chủ nhiệm khoa Văn học, Chủ nhiệm khoa Báo chí, Viện trưởng Viện Văn học, Tổng biên tập Tạp chí Văn học. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.
  19. 16 Từ trước đến nay, Hà Minh Đức luôn được biết đến trong vai trò là một nhà lý luận, phê bình văn học xuất sắc với các tác phẩm có giá trị lớn, có vai trò quan trọng đối với những người học tập, nghiên cứu và hoạt động trong lĩnh vực văn học. Các tác phẩm của ông không chỉ đề cập đến việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung chung mà còn đề cập đến việc nghiên cứu, tìm hiểu các trào lưu, tác giả, tác phẩm cụ thể. Từ đó, không chỉ đưa ra sự định hướng đối với người đọc, người tìm hiểu mà còn mang đến cái nhìn mới với những đánh giá, nhận xét hết sức tinh tế, sâu sắc. Một số tác phẩm nghiên cứu tiêu biểu của Hà Minh Đức có thể kể đến là: Nhà văn và tác phẩm (1971), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (1974), Nam Cao - đời văn và tác phẩm (1986), Thời gian và trang sách (1987), Lý luận văn học (1992), Văn chương - tài năng và phong cách (2001)… Với tư cách là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Hà Minh Đức còn được biết đến trong vai trò là tác giả của các tập thơ và kí đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Có thể kể đến một số tập thở tiêu biểu của ông như: Đi hết một mùa thu (NXB Văn học, 1999), Ở giữa ngày đông (NXB Văn học, 2001), Những giọt nghĩ trong đêm (NXB Văn học, 2002), Khoảng trời gió cát bay (NXB Văn học, 2007). Không chỉ sáng tác thơ, ông còn sáng tác cả ở thể loại ký và đã tạo nên một phong cách khá độc đáo, mới mẻ. Có thể nói, nếu các tác phẩm thơ là những cảm xúc trong tâm hồn tác giả trước cuộc đời và con người với tất cả những gì đang diễn ra thì kí lại là sự ghi nhận, tái hiện của tác giả về hiện thực cuộc đời. Sự ghi nhận, tái hiện này không đơn thuần là sự ghi chép một cách đơn giản chung chung mà cao hơn nữa, nó thể hiện sự chắt lọc từ hiện thực những gì tưởng như bình thường, giản dị, đang hàng ngày diễn ra để từ đó, tác giả gửi gắm những cảm nhận, suy nghĩ rất riêng
  20. 17 và cả những suy tư, trăn trở về cuộc đời và con người. Cho đến nay, tác giả đã cho xuát bản năm tập ký với những giá trị nội dung và nghệ thuật lớn. Trước hết là tập ký Vị giáo sư và ẩn sĩ đường (NXB Văn Học, 1999) chủ yếu viết về kỉ niệm với những người thầy, người bạn thân thiết, gần gũi bên cạnh tác giả hoặc đã gắn bó với ông trong suốt một thời gian dài. Đồng thời, tập kí này còn thể hiện cảm nhận về những miền đất đã qua và những câu chuyện xung quanh những con người tác giả đã gặp và được tiếp xúc. Nội dung này tiếp tục được triển khai trong các tập kí về sau như: Tản mạn đầu ô (NXB Văn Học, 2002), Đi một ngày đàng (NXB Văn Học, 2004), Người của một thời (NXB Văn Học, 2009). Riêng tập ký Ba lần đến nước Mĩ (NXB Văn Học, 2000), giống như tiêu đề, tập kí này tái hiện ba cuộc hành trình của tác giả đến nước Mỹ trong thời gian khoảng 20 năm (1982 - 1999) đồng thời, thể hiện những cảm nhận rất riêng, tinh tế về đất nước này. Tập bút ký Người của một thời là tập bút ký mới nhất của tác giả, có sự tập hợp một số bài viết đã đăng trong các tập sách trước, có sự chỉnh sửa, bổ sung và một số bài viết mới. Chính vì vậy, có thể nói, đây là sự lắng lòng của tác giả, sự hồi tưởng lại một thời đã qua giữa cuộc sống hối hả, nhộn nhịp thời hiện đại. Trước khi được in thành các tập sách, các bài ký của ông đã được đăng rải rác trên các báo trung ương và địa phương như: báo Văn nghệ, Tạp chí Hà Nội ngày nay, báo Văn hóa, Tạp chí Văn học, Tạp chí Xứ Lạng...Khi tập hợp thành tập sách, ông đã lựa chọn những tiêu đề phù hợp và rất độc đáo. Có thể nói, tiêu đề của các tập bút kí của ông đã phần nào thể hiện được những nội dung chủ yếu được biểu hiện và đề cập đến trong các bài viết. Và, một điều nữa cần phải khẳng định ở đây chính là những tập kí của Hà Minh Đức cũng không đi ra ngoài những nội dung chính của kí văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Tuy nhiên, các tác phẩm của ông hầu hết tập trung
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2