intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương

Chia sẻ: Matroinho | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

28
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương" được hoàn thành với mục tiêu nhằm làm rõ nét đặc sắc và những cách tân đổi mới trong nghệ thuật trần thuật của tác giả đối với nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ đó, khẳng định những đóng góp mới của nhà văn cho sự phát triển của văn học Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương

  1. UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT NGUYỄN THỊ NGỌC SANG NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ BÌNH DƯƠNG – 2019
  2. UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT NGUYỄN THỊ NGỌC SANG NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ KIM TIẾN BÌNH DƯƠNG – 2019 i
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, do TS. Nguyễn Thị Kim Tiến – giảng viên Trường Đại học Thủ Dầu Một hướng dẫn. Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính chính xác, khách quan cao. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Bình Dương, tháng 10 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Ngọc Sang ii
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Thị Kim Tiến – người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo trong Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, chuyên ngành Văn học Việt Nam, Phòng Sau đại học đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ để tôi học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn. Tôi xin được cảm ơn những người thân trong gia đình đã động viên và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể tập trung hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Ngọc Sang iii
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................................. ii LỜI CẢM ƠN................................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 7 4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 7 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 8 7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1 ..................................................................................................................... 10 NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT VỚI TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ĐẶT TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ............................................................... 10 1.1. Nghệ thuật trần thuật - một hướng tiếp cận mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại ........................................................................................................................................ 10 1.1.1. Lý thuyết về nghệ thuật trần thuật ........................................................................ 10 1.1.2. Những cách tân về nghệ thuật trần thuật qua tiểu thuyết Việt Nam đương đại ...... 13 1.2. Dấu ấn Nguyễn Bình Phương qua sự cách tân ở nghệ thuật trần thuật ..................... 21 1.2.1. Từ nỗ lực đổi mới nghệ thuật trần thuật ............................................................... 21 1.2.2. Đến giải mã những hình thức mới từ trần thuật ................................................... 23 CHƯƠNG 2 ..................................................................................................................... 31 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI TRẦN THUẬT ......................................................................... 31 TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG .................................................... 31 2.1. Người trần thuật ....................................................................................................... 31 2.1.1. Người kể hạn tri nhìn từ ngôi thứ ba .................................................................... 31 2.1.2. Người kể tự bạch nhìn từ ngôi thứ nhất ............................................................... 39 2.2. Điểm nhìn người trần thuật ....................................................................................... 47 2.2.1. Điểm nhìn bên trong gắn với tâm trạng, cảm giác ................................................. 47 2.2.2. Điểm nhìn bên ngoài gắn với những hành động, lời nói ....................................... 51 CHƯƠNG 3 ..................................................................................................................... 57 PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT .......................................... 57 NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ............................................................................................. 57 3.1. Thời gian trần thuật .................................................................................................. 57 3.1.1. Thời gian đảo thuật, dự thuật, đồng hiện.............................................................. 57 3.1.2. Thời gian trùng lặp, kéo dài ................................................................................. 62 iv
  6. 3.2. Ngôn ngữ trần thuật .................................................................................................. 64 3.2.1. Ngôn ngữ vô âm sắc ............................................................................................ 64 3.2.2. Ngôn ngữ đối thoại .............................................................................................. 68 3.3. Giọng điệu trần thuật ................................................................................................ 71 3.3.1. Giọng điệu giễu nhại hài hước, châm biếm........................................................... 71 3.3.2. Giọng điệu trữ tình, chiêm nghiệm, suy tư, triết lí ................................................. 74 KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 84 PHỤ LỤC v
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học Việt Nam thế kỉ XXI đã phát triển theo xu hướng dân chủ hóa về mọi mặt, theo đó, đã mang đến sự nở rộ của các phong cách, bút pháp, bộc lộ hết mình cá tính sáng tạo của nhà văn. Họ không ngừng ra sức tìm kiếm, sáng tạo nhiều hình thức và thủ pháp thể hiện mới, kể cả tiếp thu và vận dụng những yếu tố của các trường phái nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại trên thế giới. Thế kỉ XXI đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của văn học hiện đại với sự ra đời của nhiều lý thuyết văn học mới. Tự sự học với yếu tố trần thuật được xem là một nhánh lý thuyết có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình vận động và phát triển của văn học hiện đại trên thế giới nói chung và tiểu thuyết đương đại Việt Nam nói riêng. Có thể nói, đây là một trong những lý thuyết quan trọng góp phần làm nên diện mạo mới của văn học hậu hiện đại Việt Nam. Yếu tố trần thuật mở ra một cách nhìn mới cho việc sáng tạo và tiếp nhận một tác phẩm văn học ở phương diện đa chiều, đa tầng nghĩa, đa thể loại và đa thanh. Nó vừa giúp nhà văn nỗ lực sáng tạo ra cái mới vừa giúp người đọc khám phá ra những sáng tạo ở nhà văn. Có thể nói, tiểu thuyết là thể loại văn học phát triển rực rỡ nhất, đánh dấu những cách tân mới mẻ của hình thức tự sự hiện đại. Nó cho thấy những đổi mới táo bạo, độc đáo về phương thức trần thuật. Vì vậy, muốn thấy được sự đổi mới thực sự của tiểu thuyết Việt Nam đương đại so với các giai đoạn trước, các nhà nghiên cứu không thể không quan tâm đến vấn đề trần thuật. Yếu tố trần thuật sẽ giúp người đọc đi sâu khai thác được những tư duy sáng tạo của các nhà tiểu thuyết mới. Lẽ bởi, tiếp nhận văn học hiện đại không còn đơn thuần chỉ đọc tác phẩm là hiểu ngay tầng ý nghĩa sâu bên trong mà phải vừa đọc vừa đồng sáng tạo, vừa lí giải, vừa chiêm nghiệm mới có thể thẩm thấu những tư tưởng của nhà văn. 1.2. Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI đã tiếp tục thể hiện các quan niệm về chủ nghĩa hiện sinh trong văn học. Các nhân vật của Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Danh Lam,… luôn dấn thân trên hành trình đi tìm giá trị đích thực của bản thể và kết cục là mất tích hay là cái chết. Họ đi dù biết cái điều mà chính mình đang tìm kiếm sẽ không có câu trả lời, hay bất 1
  8. kể đích đến là hư vô, miễn là thoát khỏi những đeo bám, ám ảnh của thực tại tha hóa. Trong dòng chảy đó, Nguyễn Bình Phương là một cây bút riêng lẻ với những trang văn vừa hiện thực vừa kì bí. Nhà văn phơi bày đầy đủ mọi “khuôn mặt” của con người hiện đại bằng quan niệm sâu sắc về con người cũng như về văn chương của mình. Với những trang viết đậm chất thế sự đời tư và kỹ thuật viết điêu luyện, Nguyễn Bình Phương là một cái tên không còn xa lạ với những cách tân mới mẻ của mô hình tự sự mới theo lý thuyết và ứng dụng của tự sự học hiện đại ở Việt Nam. Với các tiểu thuyết ra đời nối tiếp nhau đã cho thấy tư duy nghệ thuật sáng tạo của nhà văn, tạo nên sự hấp dẫn và chờ đợi nơi bạn đọc. Gần đây nhất, hai tiểu thuyết mới ra đời, Mình và họ, Kể xong rồi đi của nhà văn đã trở thành một hiện tượng đặc biệt trong văn học đương đại Việt Nam bởi năng lực viết đầy sáng tạo, phá vỡ mô hình tự sự của tiểu thuyết truyền thống. Nhà văn đã đưa người đọc vào câu chuyện một cách lạ lùng, đầy bí hiểm như đang dấn thân vào thế giới nghệ thuật bị xáo trộn và mơ hồ. Từ đó, câu chuyện giúp người đọc khám phá ra nhiều tầng ý nghĩa của cuộc sống hiện đại qua cách kể đứt nối, không xác định và những khoảng trống mù mịt của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Chính lối trần thuật học đã mang đến sự bứt phá, sáng tạo cho tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Từ người kể chuyện đến ngôi kể, điểm nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu, thời gian trần thuật đều thể hiện được vai trò cách tân của nó trong việc “khai phóng” cho người đọc con đường tiếp cận mới đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 1.3. Từ hai lí do trên, chúng tôi nhận thấy yếu tố trần thuật có vai trò quan trọng chi phối mạnh mẽ sự cách tân của thể loại tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Đối với độc giả yêu thích văn học và đam mê khám phá cách tân trong nghệ thuật của tác phẩm, tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương sẽ là một món quà có giá trị dành cho bạn đọc. Việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật chính là đi tìm kiếm, khám phá ra những tư duy nghệ thuật mới của nhà văn đương đại Việt Nam. Ví văn chương như hạt ngọc ẩn vì càng mài giũa càng sáng lên lấp lánh, đó là tính không ngừng sáng tạo theo một quy luật vận động và phát triển của một nền văn học mới. Do vậy, chúng tôi quyết định chọn đề tài: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương làm đối tượng nghiên cứu. Nhưng phạm vi nghiên cứu của chúng tôi chỉ giới hạn trong hai tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong 2
  9. rồi đi vì đây là hai tiểu thuyết có lối trần thuật độc đáo được thể hiện ở việc sử dụng linh hoạt ngôi kể thứ nhất; tạo ranh giới nhòe mờ, khó phân biệt giữa các điểm nhìn, ngôi kể và thời gian trần thuật. Thêm vào đó, hai tiểu thuyết này còn tổ chức điểm nhìn rất đặc biệt là điểm nhìn từ một linh hồn và điểm nhìn từ cái chết nhưng vẫn tạo được độ tin cậy nơi người đọc. Bằng thời gian trần thuật đứt – nối trong hai tiểu thuyết, nó đã đưa người đọc về quá khứ nhưng lại là quá khứ đang tiếp diễn trong hiện tại với những bạo lực và chiến tranh, với sự sống và cái chết rất gần gũi với đời sống con người đương đại. Không khí ma mị trong các tiểu thuyết trước đây sặc sụa mùi máu, trăng, bãi tha ma,… nhưng đến với Mình và họ, Kể xong rồi đi người đọc được trải nghiệm ở nhiều mảng không gian và thời gian khác nhau vì câu chuyện không dừng lại phản ánh ở một địa điểm nào, mà nó là hành trình khám phá thế giới bên ngoài và là hành trình thức tỉnh của ý thức bên trong nhân vật kể chuyện. Nhiều sự kiện, nhiều điểm nhìn, nhiều ngôi kể tạo nên tính đa giọng điệu trong lời trần thuật khiến cho người đọc thật sự rối rắm với lối viết của nhà văn. Nhưng để tiểu thuyết không còn lối trần thuật khuôn sáo, dễ đọc dễ hiểu mà phải thật sự đúng với thể loại tiểu thuyết mới đa kết cấu, đa thanh (ngôn ngữ đa thanh), đa giọng điệu, đa điểm nhìn và ngôi kể thì hai tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đáp ứng được điều này. Đó là những điểm mới mẻ về lối trần thuật trong hai tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ có những đóng góp nhất định trong việc phân tích, đánh giá nghệ thuật trần thuật cũng như khẳng định giá trị trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương ở nền văn học Việt Nam đương đại. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Bình Phương là cây bút có năng lực viết sáng tạo trong văn học Việt Nam đương đại. Nhưng, công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương được công bố phổ biến với số lượng nhiều qua những bài báo, luận văn Thạc sĩ, luận văn Tiến sĩ. Do đó, với đề tài nghiên cứu: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, chúng tôi xin điểm và đánh giá một số bài nghiên cứu có liên quan tới đề tài luận văn. Thụy Khuê là người nghiên cứu dành nhiều sự quan tâm cho tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Với mỗi bài viết, Thụy Khuê đều chỉ ra được những đặc 3
  10. trưng riêng, cho thấy sự tìm tòi, sáng tạo không ngừng của Nguyễn Bình Phương qua từng tiểu thuyết. Nhưng, nhà nghiên cứu này chỉ chủ yếu đánh giá vấn đề trần thuật trong các sáng tác của nhà văn từ góc độ cấu trúc tự sự qua các bài viết như: Những yếu tố của tiểu thuyết mới trong Trí nhớ suy tàn; Từ góc độ cấu trúc tự sự chỉ ra những yếu tố “thoạt kỳ thủy” trong văn chương ở tiểu thuyết cùng tên. Bên cạnh đó còn có các bài báo đăng trên tạp chí viết về vấn đề trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đáng chú ý. Đó là Nguyễn Phước Bảo Nhân (2008) với Tiểu thuyết hiện đại sự hội ngộ các tư duy trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, nói về kỹ thuật viết tiểu thuyết hậu hiện đại của Nguyễn Bình Phương ở sự dịch chuyển liên tục các điểm nhìn, lối kể nhảy cóc, đa âm; lời thoại rời rạc, phi logic nhưng chỉ nêu khái quát các vấn đề đổi mới trong lối viết của nhà văn ở năm tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Người đi vắng, Những đứa trẻ chết già, Trí nhớ suy tàn. Trong khi đó, Một cách nhìn về tiểu thuyết hậu hiện đại ở Việt Nam, Hoàng Cẩm Giang - Lý Hoài Thu (2011) đã có bài nghiên cứu mang tính chất tổng quan chủ yếu nói về sự khác biệt giữa hình thức thể loại tiểu thuyết truyền thống và hiện đại. Trong số đó, Nguyễn Bình Phương được hai tác giả nhắc đến nhiều nhất với các tác phẩm tiêu biểu cho xu hướng cách tân mới lạ, sáng tạo như Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Người đi vắng, Những đứa trẻ chết già, Trí nhớ suy tàn. Nghệ thuật tự sự của Nguyễn Bình Phương trong tiểu thuyết Mình và họ của Nguyễn Văn Hùng (2015) thuộc Khoa Ngữ văn trường Đại học Khoa học Huế chủ yếu nói về các đặc điểm hình thức nghệ thuật trong tiểu thuyết Mình và họ, chủ yếu là tự sự đa chủ thể, hành trình tìm lại thời gian đã mất và nghệ thuật dịch chuyển điểm nhìn tự sự trên nguyên tắc luận giải, đối thoại. Qua đó, tác giả đã cho thấy được tính đa âm của tiểu thuyết đương đại với sự đan xen nhiều điểm nhìn trần thuật. Lối kết cấu từ quá khứ đến hiện tại được kết nối, soi rọi và luận giải mối quan hệ không có ranh giới, không rõ xác định giữa mình và họ. Đó là căn nguyên và hệ lụy của bạo lực, bản chất và những di chứng của chiến tranh, căn tính và văn hóa tộc người, mình/ dân tộc mình trong tương quan với họ/ dân tộc họ không phân biệt được như chính kiểu trần thuật kĩ xảo của nhà văn. Có thể 4
  11. nói, qua công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Hùng, chúng tôi nhận thấy được sự đột phá trong cấu trúc thể loại và nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Mình và họ của Nguyễn Bình Phương. Đỗ Hải Ninh (2017) trong Âm vọng chiến tranh trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12) có đề cập đến một số vấn đề liên quan đến nghệ thuật trần thuật như: người kể chuyện trần thuật từ ngôi thứ nhất trong hai tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi; ngôn ngữ đa thanh cùng với sự đan cài các điểm nhìn trần thuật đã tạo nên những tiếng nói độc lập làm cho hai tiểu thuyết có tính đối thoại và độ mở cao. Ngoài ra còn có những công trình là luận văn liên quan đến một số vấn đề trần thuật trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương như: Vũ Thị Phương (2008) với Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong Luận văn Thạc Sĩ của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã chỉ rõ các thủ pháp nghệ thuật mới trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương như đồng hiện, kỹ thuật dòng ý thức, độc thoại nội tâm, mô típ giấc mơ đã tạo nên giọng điệu mới trong hành ngôn của tác giả và xóa nhòa đặc điểm nghệ thuật trong tiểu thuyết truyền thống. Đặc biệt, kết cấu trần thuật từ cách xây dựng hình tượng nhân vật đến giọng điệu mang tính chất đa phức, đa tầng và có nhiều điểm đứt gãy, những khoảng trống trong điểm nhìn,... Từ đó, nhà văn gợi cho người đọc liên tưởng đến một tâm thế của con người hiện đại. Bằng những cách tân nghệ thuật, Nguyễn Bình Phương đã xây dựng nên một thế giới hiện thực bị xáo trộn, bị phân mảng và có nhiều ẩn khuất, mang tính triết lí. Trong công trình, Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thị Phương Diệp (2010) tiếp cận tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương từ ba góc độ chính là nhân vật, không gian - thời gian và cấu trúc, cách kể chuyện. Đây là những yếu tố cơ bản để tạo nên thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết. Phạm vi nghiên cứu của tác giả tập trung vào bảy cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương là: Vào cõi, Bả giời, Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn. Nhiều phạm vi nghiên cứu bao quát nên tác giả chưa đi 5
  12. sâu khai thác rõ được nghệ thuật tự sự trong mỗi tiểu thuyết để thấy được sự mới mẻ về nghệ thuật tự sự qua mỗi sáng tác trước và sau của nhà văn. Với Nguyễn Diệu Hạnh (2011), Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả luận văn phân tích rõ về phương diện nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Tác giả khẳng định một số đặc điểm về kết cấu tiểu thuyết, cơ bản nhất là kiểu kết cấu tiểu thuyết trong tiểu thuyết, kết cấu tiểu thuyết thơ, kết cấu tiểu thuyết huyền thoại - hiện thực. Đó là những kiểu kết cấu mới trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Hoàng Thị Thùy Linh (2012) qua Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương chủ yếu tìm hiểu về phương thức trần thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Với công trình này, tác giả đã khẳng định những nỗ lực của Nguyễn Bình Phương trên phương diện cách tân thể loại. Người nghiên cứu đã đi sâu làm rõ những vấn đề cơ bản của phương thức trần thuật trong năm tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương là Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Người đi vắng, Những đứa trẻ chết già, Trí nhớ suy tàn. Luận văn của Ngô Thị Nhiên (2015), Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương, lại khai thác điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật và một số thủ pháp trần thuật trong tiểu thuyết Người đi vắng. Qua các hướng tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến yếu tố cách tân về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Đó là cơ sở quý báu giúp chúng tôi thực hiện đề tài này. Với tinh thần kế thừa ý kiến của những người đi trước, luận văn tiến hành mở rộng phân tích nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương. Đây là hai tiểu thuyết mới nhất của nhà văn, chưa được khai thác rõ ở phương diện nghệ thuật trần thuật. Chính vì vậy, với đề tài này, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ được những bước chuyển mới mẻ, độc đáo trong lối trần thuật của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương so với những sáng tác ra đời trước đây của nhà văn. 6
  13. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, cụ thể gồm: hình tượng người trần thuật; điểm nhìn người trần thuật; thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi lựa chọn hai tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Bình Phương: Mình và họ (2015), NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, Tái bản lần thứ nhất; Kể xong rồi đi (2017), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 4. Mục đích nghiên cứu Luận văn hướng tới đi sâu khám phá nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương bằng cách phân tích, lí giải, đánh giá nghệ thuật trần thuật. Qua đó luận văn sẽ làm rõ nét đặc sắc và những cách tân đổi mới trong nghệ thuật trần thuật của tác giả đối với nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ đó, khẳng định những đóng góp mới của nhà văn cho sự phát triển của văn học Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng trong luận văn bao gồm: Phương pháp hệ thống được sử dụng để chia tách đối tượng ra thành nhiều yếu tố để khai thác. Trong đề tài này, chúng tôi chủ yếu khai thác các yếu tố của nghệ thuật trần thuật như hình tượng người trần thuật (còn gọi là người kể chuyện) gắn với ngôi kể và điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, thời gian trần thuật. Phương pháp thống kê nhằm mục đích thống kê tần số xuất hiện của các ngôi kể trong hai tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương. Phương pháp lịch sử - xã hội được sử dụng, tìm hiểu về thời đại sáng tác, tiểu sử nhà văn, tâm lí sáng tác,… để làm rõ nguyên nhân của sự cách tân nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Qua đó, người viết sẽ thấy được số phận của những người lính, người chỉ huy và những người trực tiếp 7
  14. chịu ảnh hưởng hay bị ám ảnh day dứt bởi cuộc sống trong chiến tranh; những “cơn buồn nôn” của con người trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Phương pháp loại hình: chúng tôi sử dụng những đặc điểm tiêu chí thể loại, cụ thể là thể loại tiểu thuyết để soi chiếu, đánh giá lối viết tiểu thuyết của tác giả Nguyễn Bình Phương. Kết hợp vận dụng chủ yếu trần thuật học trong nghiên cứu tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương để có hướng tiếp cận mới các hiện tượng văn học. Nghiên cứu theo hướng tự sự học để đi sâu vào cấu trúc, diễn ngôn trần thuật bằng cách phân tích hình tượng người trần thuật, ngôi kể và điểm nhìn trần thuật, kết cấu trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật. Các thao tác phân tích, chứng minh, so sánh được sử dụng để làm rõ các đặc điểm của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương để thấy được giá trị của tác phẩm và những đóng góp của nhà văn trong tiến trình phát triển văn học. 6. Đóng góp của luận văn Về mặt lí luận: Luận văn sẽ làm rõ các vấn đề về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương, đồng thời khẳng định được giá trị của các tác phẩm từ góc nhìn nghệ thuật trần thuật. Về mặt thực tiễn: Với đề tài này, chúng tôi mong muốn tìm hiểu, lí giải những cách tân nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương qua hai tác phẩm mới nhất của nhà văn hiện nay. Đồng thời, đề tài cũng đánh giá, khẳng định vai trò và vị trí của Nguyễn Bình Phương trong nền văn học Việt Nam đương đại. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Nghệ thuật trần thuật với tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đặt trong văn học Việt Nam đương đại. Ở chương này, chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp hệ thống và phương pháp loại hình để làm rõ những 8
  15. cách tân của nghệ thuật trần thuật thể hiện qua tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung và tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nói riêng. Trong đó, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến đổi mới sáng tạo nghệ thuật trần thuật của nhà văn trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Dung lượng của chương này là 21 trang. Chương 2: Hình tượng người trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Trong chương này, chúng tôi làm rõ hình tượng người trần thuật gắn với ngôi kể, điểm nhìn trần thuật trong hai tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi của nhà văn để thấy được sự biến hóa linh hoạt, thay đổi liên tục của các yếu tố này. Chương này gồm 26 trang. Chương 3: Phương thức trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Đây là chương làm rõ về các phương thức trần thuật như: thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong hai tiểu thuyết Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương. Phương pháp hệ thống, lịch sử - xã hội, phương pháp loại hình được sử dụng, đặc biệt chúng tôi vận dụng chủ yếu trần thuật học để thấy được những cách tân độc đáo và sáng tạo của nhà văn trong nỗ lực tạo nên hình thức mới cho tiểu thuyết đương đại. Dung lượng của chương này là 24 trang. 9
  16. CHƯƠNG 1 NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT VỚI TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ĐẶT TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Nghệ thuật trần thuật - một hướng tiếp cận mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại 1.1.1. Lý thuyết về nghệ thuật trần thuật Tự sự học như một ngành nghiên cứu được nhà trúc luận Pháp Tz. Todorov chính thức gọi tên là Tự sự học (Narratologie - tiếng Pháp) vào năm 1969. Tự sự học kinh điển là tự sự học giai đoạn những năm 60 đến khoảng những năm 80 của thế kỉ XX. Bước sang những năm 90 cho đến nay tự sự học bắt đầu có tên gọi là tự sự học hậu kinh điển. Các nước Đông Á nói chung tiếp nhận tự sự học từ thế kỉ XX và Việt Nam nói riêng tiếp nhận tự sự học từ đầu thế kỉ XXI. Khởi điểm cho một nền văn chương hậu hiện đại với cái nhìn mới về trần thuật học là sự phát triển vượt bậc của thể loại tiểu thuyết từ truyền thống đến hiện đại và hậu hiện đại. Về bản chất thể loại, tiểu thuyết không còn là một đại tự sự, mà nó trở thành tiểu tự sự đan cài của nhiều loại hình, loại thể nghệ thuật khác nhau. Về hiện thực phản ánh, tiểu thuyết không còn là những câu chuyện vụn vặt trong đời sống mà nó đi sâu vào thế giới nội tâm thể hiện cái tôi bản thể với những vấn đề nhức nhối như tha hóa, cô đơn, mất trí nhớ và khát khao tìm kiếm sự đồng điệu trong cuộc sống bề bộn, phức tạp. Về cốt truyện, tiểu thuyết truyền thống kể theo một trật tự tuyến tính, đến tiểu thuyết hiện đại có sự đảo trật tự, còn về sau, tiểu thuyết hậu hiện đại tái hiện truyện kể theo nhiều tuyến, không rõ mốc thời gian, phi logic, rời rạc. Cùng với đó, kết cấu trong tiểu thuyết hậu hiện đại không còn đơn thuần là kết cấu khép kín hay mở, mà là kết cấu lồng ghép, đứt đoạn, truyện trong truyện, truyện về truyện chiếm ưu thế. Điểm nhìn và người kể chuyện không còn là ngôi kể thứ ba toàn tri thay vào đó là sự thay đổi liên tục các điểm nhìn và ranh giới giữa các điểm nhìn trở nên nhòe mờ, lẫn lộn, khó phân định. Nhân vật trong tiểu thuyết hậu hiện đại không có diện mạo rõ ràng, không mang tính cách, tâm lý giữa vẻ ngoài và cái bên trong mà hầu hết là kí hiệu, biểu tượng, phi tính cách được giải mã bằng nhiều điểm nhìn và giọng điệu khác nhau. Thêm vào đó, dòng chảy của thời gian trong tiểu thuyết hậu hiện 10
  17. đại là thời gian tâm lí, phi tuyến tính chỉ hiện diện trong một thoáng chốc hay một sự kiện rồi bị xóa mờ; thời gian của huyền thoại và tâm linh được tái hiện nhiều như gắn chặt với hồi ức của người kể chuyện. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật không mang tính đơn nhất, đối thoại thông thường mà mang tính đa thanh, tính giễu nhại, suy tư triết lí, chiêm nghiệm và tính đối thoại trở nên mạnh mẽ. Những đặc điểm của tiểu thuyết hậu hiện đại được thể hiện rõ qua các tác phẩm như Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh; Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà; Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Mình và họ, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương. Đây chính là miền đất mới mang dấu ấn rõ rệt của tiểu thuyết hậu hiện đại. Chính sự phát triển phá vỡ mọi quy tắc của tiểu thuyết truyền thống đã dẫn đến sự cách tân mạnh mẽ của lý thuyết về tự sự học hiện đại. Bắt nguồn từ phương Tây ở thế kỉ XIX, P. Lubbock đã nghiên cứu sâu về điểm nhìn trần thuật của tác phẩm, sau đó, mở rộng ra với những cái tên của G. Genette, B. Uspenski, W. Booth, R. Scholes và R. Kellogg, I. Lotman, S. Lanser đã đem đến sự phát triển của tự sự học hiện đại. Hầu hết những nghiên cứu về điểm nhìn đều chú trọng vào người kể chuyện ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba; người kể chuyện toàn tri hoặc hạn tri; người kể chuyện theo điểm nhìn bên trong hoặc bên ngoài; người kể chuyện kịch hoá hoặc phi kịch hoá, người kể chuyện là các nhân vật trong truyện hoặc là không. Người có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự ra đời của diễn ngôn trần thuật là G. Genette trong công trình Diễn ngôn trần thuật. Phát triển công trình của G. Genette là Triệu Nghị Hành. Ý kiến của ông trong công trình Khi người nói được nói đến – Dẫn luận tự sự học so sánh giống với quan điểm của trường phái G. Genette. Ông cho rằng đối tượng nghiên cứu của tự sự học được mở rộng ra là văn bản và diễn ngôn tự sự. Từ đó, hàng loạt các khái niệm quan trọng liên quan đến trần thuật học được ra đời và ứng dụng vào trong nghiên cứu tác phẩm tự sự. Tự sự học trong lý thuyết nghiên cứu và ứng dụng ở các nước Đông Á được biết đến qua thuật ngữ “narratology”. Nó được hiểu theo hai cách là tự sự học và trần thuật học. Theo Trần Đình Sử trong cuốn Tự sự học lý thuyết và ứng 11
  18. dụng, tự sự học là tên gọi phù hợp, vì nó không chỉ nghiên cứu diễn ngôn mà còn nghiên cứu ngữ pháp truyện. Vì vậy, trần thuật học chỉ là một bộ phận quan trọng của tự sự học. Dựa trên ngành nghiên cứu tự sự học, trần thuật học ra đời như một ngành nghiên cứu mới về tác phẩm tự sự. Trần thuật đóng vai trò vừa là phương thức, vừa là đặc trưng quan trọng không thể thiếu đối với thể loại tác phẩm tự sự, đặc biệt là tiểu thuyết. Trần thuật học đã trở thành một ngành nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà lí luận, phê bình văn học ở Việt Nam. Một tác phẩm tự sự không thể thiếu yếu tố trần thuật. Theo tự sự học hiện đại, trần thuật nêu bật vai trò của người kể chuyện. Điều đó cho thấy tiểu thuyết hiện đại không còn đề cao vai trò của cốt truyện và nhân vật như trước đây, mà tiểu thuyết hiện đại đề cao vai trò của người kể chuyện. Từ đó, trần thuật đi sâu vào các khái niệm liên quan với văn bản và diễn ngôn của tác phẩm tự sự như người kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể, giọng điệu, thời gian... để tìm ra sự vận động trong cấu trúc thể loại, làm nổi bật lên giá trị tư tưởng và ý nghĩa của tác phẩm. Sự thay đổi từ tự sự học sang trần thuật học đã mở ra hướng nghiên cứu mới cho các nhà nghiên cứu văn học trên thế giới và ở Việt Nam khi tìm hiểu về kĩ thuật viết tiểu thuyết trong hơi hướng cách tân sáng tạo. Như vậy, trần thuật học là một nhánh của tự sự học, nó chỉ phản ánh một phương diện của tự sự là diễn ngôn tự sự. Nó được xem như một thủ pháp trần thuật trong một tác phẩm tự sự. Theo quan điểm này, trần thuật học khác với tự sự học, nó là con đẻ của tự sự học, dần hình thành và phát triển qua quá trình nghiên cứu các thể loại tự sự của văn bản văn học, đặc biệt là với thể loại tiểu thuyết. Trong bài viết Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam Lại Nguyên Ân đã khẳng định: “Thực chất hoạt động trần thuật là kể, là thuật, cái được thuật, được kể, trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” (Lại Nguyên Ân, 2004). Phương Lựu cũng thống nhất với nhận định trên: “Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện, nhân vật theo một trình tự nhất định” (Phương Lựu, 1985). Qua đó, chúng tôi nhận thấy nghệ thuật trần thuật có thể gọi là nghệ thuật kể chuyện, thuật lại câu chuyện, sự kiện, con người theo một cách nhìn nào đó. Nghệ thuật trần thuật được thể hiện qua các yếu tố như người kể chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu, 12
  19. thời gian trần thuật. Dưới góc nhìn của trần thuật học hiện đại, nghệ thuật trần thuật có những đặc điểm khác biệt so với nghệ thuật trần thuật trong văn bản tự sự theo quan niệm truyền thống. Trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác phẩm tự sự, theo đó, chúng tôi tiếp nhận nghệ thuật trần thuật khi ứng dụng vào nghiên cứu hai tiểu thuyết đương đại của Nguyễn Bình Phương như một thủ pháp trần thuật trong tác phẩm, “xem tác phẩm nghệ thuật như một hành vi giao tiếp nên các yếu tố trần thuật” (Lại Nguyên Ân, 2004). 1.1.2. Những cách tân về nghệ thuật trần thuật qua tiểu thuyết Việt Nam đương đại Tiểu thuyết là thể loại tiêu biểu cho loại hình tự sự. Với đặc trưng thi pháp và bằng phương thức trần thuật, tiểu thuyết đã khái quát bức tranh đa tầng của hiện thực cuộc sống. Tìm hiểu vấn đề trần thuật trong tiểu thuyết nói riêng và trong văn bản tự sự nói chung, chúng ta hiểu rõ hơn những cách tân mới mẻ, độc đáo của nghệ thuật trần thuật. Ở tiểu thuyết Việt Nam đương đại hình thành một kiểu cảm quan mới, cảm quan hậu hiện đại đòi hỏi một nghệ thuật trần thuật mới. Bởi vì, các nhà tiểu thuyết cảm nhận thế giới bằng sự hoài nghi, khủng hoảng niềm tin vào tất cả những gì là giá trị tuyệt đối đã từng tồn tại trước đó, đặc biệt là niềm tin vào con người hậu hiện đại. Xuất phát từ cảm quan trên, các nhà tiểu thuyết đã nhìn nhận tính chất của cuộc sống là những mảnh vỡ, vụn vặt, phi logic. Chính vì vậy, nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết đã có những cách tân mới để có thể chuyển tải đến người đọc thông điệp của tác phẩm. Người kể chuyện đóng vai trò trung tâm vì nghệ thuật trần thuật phải được thực hiện thông qua người kể chuyện để dẫn dắt diễn ngôn trong tác phẩm. Trong bài viết của Đỗ Hải Phong với tựa đề Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện đại, tác giả đã dẫn nguyên câu nói của Tz. Todorov về tầm quan trọng của người kể chuyện làm nên tác phẩm tự sự: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng... Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” (Đỗ Hải Phong, 2004). Theo lý thuyết tự sự học, kể chuyện từ ngôi thứ ba với người kể chuyện mang điểm nhìn toàn tri vẫn là hình thức trần thuật phổ biến trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, với tư duy tiểu thuyết thời đại mới, nhiều tác phẩm về cơ bản được kể từ người kể chuyện toàn 13
  20. tri, nhưng nhà văn đã khéo léo dịch chuyển điểm nhìn, thay đổi giọng điệu. Các nhà viết tiểu thuyết lịch sử đã rút ngắn khoảng cách giữa lịch sử và hiện tại. Càng về sau, sự xuất hiện của ngôi kể thứ nhất chiếm tỉ lệ không nhỏ trong tiểu thuyết đương đại, như tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà. Theo G. Genette, kiểu người kể chuyện theo ngôi thứ nhất gồm dạng cố định (một nhân vật kể hết mọi chuyện), dạng bất định (nhiều nhân vật kể những chuyện khác nhau) và dạng đa thức (nhiều nhân vật nhưng cùng kể một sự việc). Bên cạnh những tác phẩm viết thuần túy ở ngôi thứ nhất dạng cố định, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã tìm cách làm mới hơn phương thức trần thuật từ ngôi thứ nhất với kiểu người kể chuyện thuộc dạng bất định, câu chuyện được kể không chỉ theo một cái tôi mà là nhiều cái tôi với các điểm nhìn khác nhau (Cơ hội của chúa - Nguyễn Việt Hà, Thiên thần sám hối - Tạ Duy Anh, Đức Phật, nàng Savitri và tôi - Hồ Anh Thái). Bên cạnh đó, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất thuộc dạng đa thức có ở tiểu thuyết Tấm ván phóng dao (Mạc Can). Cùng nói về một sự việc, nhưng từ những điểm nhìn khác nhau, nội dung câu chuyện được xoay chuyển theo nhiều chiều hướng khác nhau. Nghệ thuật trần thuật luân phiên điểm nhìn gắn với nhiều người kể chuyện ngôi thứ nhất tạo độ mở cho tiểu thuyết. Bên cạnh người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong, trần thuật từ ngôi kể thứ ba với điểm nhìn bên ngoài cũng khá phổ biến trong tiểu thuyết mới. Khi người kể chuyện kể từ ngôi thứ ba nhưng không biết tất cả mọi điều như đang đối thoại với người đọc về một hiện thực không đáng tin cậy như trong tiểu thuyết Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái),... Nếu trước đây trong tiểu thuyết truyền thống, người kể chuyện thường ở ngôi thứ ba toàn tri, nắm hết mọi chuyển biến trong câu chuyện; thì trong tiểu thuyết đương đại, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất nắm giữ vai trò trung tâm kể lại câu chuyện. Dù trần thuật ở ngôi thứ nhất nhưng người kể chuyện chỉ nói những gì anh ta chứng kiến và tự bạch về những gì mà anh ta đã trải nghiệm hay chiêm nghiệm về cuộc đời; nó khác với cách hiểu ngôi thứ nhất đồng nhất với tác giả là người kể chuyện và có quyền lực tối cao. Khảo sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, đặc biệt là tiểu thuyết sau mốc thời gian 1986, chúng tôi thấy có sự xuất hiện của người kể chuyện là nhân vật chính trong tác phẩm, tự kể câu chuyện của mình hay câu chuyện mà anh ta chứng kiến được 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2