intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi và những vấn đề lý luận tiểu thuyết sử thi

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

34
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 4 chương trình bày một số vấn đề lý luận về thể loại sử thi và tiểu thuyết sử thi; kết cấu Vỡ bờ và những vấn đề về tiểu thuyết - sử thi hiện đại; sự kết hợp giữa sự kiện và nhân vật trong tiểu thuyết - sử thi; sự kết hợp giữa sử thi và tâm lý.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi và những vấn đề lý luận tiểu thuyết sử thi

  1. Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ------- Mai Thị Ngọc Hoa Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi và những vấn đề lý luận tiểu thuyết sử thi Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn Chuyên ngành:Văn học Việt Nam Mã số: 5.04.33 Người hướng dẫn khoa học: GS - Viện sĩ Phan Cự Đệ Hà Nội 2005
  2. Mục lục Trang Mục lục Phần mở đầu 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 1 3. Nhiệm vụ của luận văn 8 4. Phương pháp nghiên cứu 8 5. Cấu trúc luận văn 9 Phần nội dung 10 Chương 1 10 Một số vấn đề lý luận về thể loại sử thi và tiểu thuyết sử thi 1.1. Khái quát về sử thi 11 1.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa sử thi và tiểu thuyết - sử thi 14 Chương 2: 24 Kết cấu Vỡ bờ và những vấn đề về tiểu thuyết sử thi hiện đại 2.1. Một số vấn đề về kết cấu 25 2.2. Kết cấu trong tiểu thuyết Vỡ bờ 28 Chương 3: 59 Sự kết hợp sự kiện và nhân vật trong tiểu thuyết - sử thi 3.1. Sự kết hợp các tuyến sự kiện và tuyến nhân vật 62 3.2. Phân tích một số nhân vật cụ thể trong mối quan hệ với 65 sự kiện lịch sử Chương 4: 83 Sự kết hợp giữa sử thi và tâm lý 4.1. Sự kết hợp các yếu tố sử thi và tâm lý trong tiểu thuyết 85 Chiến tranh và hoà bình của L.Tolstôi 4.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nguyễn Du và Nam Cao 90 4.3. Sự kết hợp sử thi và tâm lý trong tiểu thuyết Vỡ bờ của 95 Nguyễn Đình Thi Kết luận 100 Thư mục tham khảo 104
  3. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. Văn học Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu lớn về mặt nội dung và nghệ thuật, phản ánh chân thực và sinh động sự nghiệp Cách mạng vĩ đại của dân tộc. Lần đầu tiên từ những năm 60, chúng ta có những bộ tiểu thuyết nhiều tập, mang cảm hứng và qui mô sử thi, những bức tranh nghệ thuật hoành tráng xứng đáng với tầm vóc của dân tộc trong thời đại mới. Đó là những bộ tiểu thuyết - sử thi như Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng, Vùng Trời của Hữu Mai, Dòng sông phẳng lặng của Tô Nhuận Vĩ... Luận văn này muốn nêu lên một số vấn đề lý luận của loại hình tiểu thuyết - sử thi thông qua một tác phẩm tiêu biểu: Vỡ bờ < 2 tập > của Nguyễn Đình Thi. 2. Lịch sử vấn đề. Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc, mở ra những bước tiến mới về mọi phương diện nhất là về văn học nghệ thuật. Đây là thời kỳ đánh dấu sự trưởng thành lớn mạnh về văn học, đồng thời lịch sử Việt Nam cũng bước sang một trang sử mới, trang sử hào hùng đấu tranh anh dũng chống lại hai thế lực bạo tàn, giặc Pháp và giặc Mỹ. Sức mạnh của trí tuệ và lòng căm thù giặc của người Việt Nam đã trở thành truyền thống, nó có sẵn trong tâm hồn và trong cốt cách của dòng giống con Hồng cháu Lạc. Con người Việt Nam nhỏ bé, giản dị và yêu hoà bình là thế nhưng khi đấu tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi để dành lại độc lập thì muôn người như một, nhất tề đứng dậy không chịu khuất phục. Thực tế hào hùng đó là chất liệu để tạo nên cảm hứng sử thi trong văn học. Văn học là phương tiện duy nhất dùng những hình ảnh vừa 1
  4. sinh động, vừa chân thực, những ngôn từ đầy sáng tạo ghi lại một chặng đường lịch sử đã qua. Văn học Việt Nam thời kỳ này đi theo đường lối lãnh đạo của Đảng, Đảng luôn hướng cảm hứng sáng tạo của văn học nghệ thuật vào nhiệm vụ phản ánh chân thực sự nghiệp cách mạng của dân tộc, phục vụ kịp thời cuộc kháng chiến trường kỳ có một không hai trong lịch sử. “Nước Việt Nam từ máu lửa, rũ bùn đứng dậy sáng loà” văn học luôn vận động cùng với sự vận động của xã hội. Cảm hứng sử thi đã trở thành một cảm hứng chủ đạo của nền văn học Việt Nam hiện đại và cũng chỉ có cảm hứng sử thi mới có khả năng bao quát toàn cảnh bức tranh của xã hội Việt Nam trong mọi thời kỳ, nhất là thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám vĩ đại. Thời kỳ bão táp, xã hội chìm trong máu và nước mắt. Trong kho tàng văn học của dân tộc, sử thi có vai trò quan trọng đã làm sống mãi giá trị tịnh thần, duy trì mãi nguồn sức mạnh vô song của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, bảo vệ Tổ Quốc. Vì vậy, cảm hứng sử thi đã trở thành cảm hứng chủ đạo của văn học hiện đại. Nhiều đội ngũ nhà văn, nhà thơ có tư tưởng mới đã trưởng thành từ đây. Họ vừa là những nhân chứng của lịch sử, trực tiếp cầm súng tham gia cuộc kháng chiến, vừa là “thư ký” trung thành ghi lại một chặng đường đã qua. Vì vậy văn học thời kỳ này đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, có sự đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và nền văn học nước nhà thêm phong phú. Đặc biệt phải kể đến từ những năm 60, tiểu thuyết đã có một tiếng nói đặc biệt, có một sự đổi mới sâu sắc cả về nội dung thể tài và các nguyên tắc xây dựng hình thức thể loại. Năm 1960 là năm kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, 15 năm nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và cũng là năm bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. ở Miền Nam đồng khởi nổi lên mạnh mẽ ở khắp các vùng nông thôn rộng lớn. Những năm 60 cũng chính là những năm văn học mang cảm hứng sử thi. Đồng thời xuất 2
  5. hiện hàng loạt hồi ký cách mạng như “Trong xà lim án chém”... Một cấu trúc thể loại mới mẻ chưa từng có trong lịch sử phát triển tiểu thuyết Việt Nam đã ra đời với đặc trưng của loại hình tiểu thuyết - sử thi. Thể loại đã hình thành do yêu cầu của thời đại phải đáp ứng những nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó. Tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi là một minh chứng. Bộ tiểu thuyết từ khi ra đời tuy có những ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung đã được bạn đọc đón nhận nhiệt tình và được nhiều nhà nghiên cứu phê bình đánh giá cao, mang nhiều sức thuyết phục. Đây được coi là bộ tiểu thuyết - sử thi. Một bộ tiểu thuyết có qui mô lớn với sự kết hợp những kiểu tổ chức nghệ thuật của tác phẩm, từ kết cấu, các tuyến chủ đề, cốt truyện cho đến việc xây dựng các tuyến nhân vật. Bằng vốn sống và sự tích luỹ kinh nghiệm hơn hai chục năm ròng Nguyễn Đình Thi cho ra đời “đứa con ”tinh thần dài hơn 1000 trang - hai tập, mỗi tập cách nhau 8 năm. Tiểu thuyết Vỡ bờ là tấm lòng yêu thương tha thiết của Nguyễn Đình Thi đối với vận mệnh, lịch sử đất nước, là những suy nghĩ sâu lắng, ấp ủ của nhà văn về những đặc điểm tâm hồn và tính cách con người Việt Nam. Những con người giàu chất trí tuệ, và một thiên nhiên mang đầy chất thơ, chất trữ tình. Một đất nước màu mỡ, xanh tươi mặc dù trên mình vẫn đang phải chịu những vết thương do chiến tranh gây ra. Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa nói chung và tiểu thuyết Vỡ bờ nói riêng “không từ bỏ nhiệm vụ tấn công vào những giai cấp thù địch, phê phán những tàn tích xấu xa của xã hội cũ nhưng nhiệm vụ hàng đầu của nó là phải khẳng định, ca ngợi những anh hùng mới trong quần chúng lao động, là những chủ nhân mới của xã hội ”. Ca ngợi những người con anh dũng của dân tộc, những người chủ đất nước một cách thực sự và lúc 3
  6. này đây hơn bao giờ hết những người nông dân, những chủ nhân của cái cày, cái cuốc đi vào trong văn học hết sức sinh động. Họ không còn là những đám đông mờ ảo, vô danh, thậm chí họ còn mang nguồn gốc xuất thân, tên tuổi cụ thể... Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi đem đến cho bạn đọc những cảm xúc mới lạ, chất văn trong sáng, tươi trẻ, đặc biệt là ở đây ông có một cách viết mang sức tổng hợp, khái quát hơn thời kỳ trước. Ông nắm bắt được những nét đẹp của đời sống hiện thực trong những năm chiến đấu dành độc lập của nước nhà. Vì thế bộ tiểu thuyết Vỡ bờ ra đời đã được nhiều nhà nghiên cứu phê bình cũng như bạn đọc đón nhận một cách hồ hởi. Sức tái hiện đời sống và chất liệu làm nên tác phẩm đã tạo ra một bộ tiểu thuyết có giá trị lớn, mà nhiều người gọi là tiểu thuyết - sử thi. Nguyễn Đình Thi tái tạo được cả một thời kỳ lịch sử thành một bức tranh hoành tráng, trong đó cảm hứng nhân dân và cảm hứng lịch sử là cảm hứng chủ đạo. Bộ tiểu thuyết đã nêu bật lên chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một sức mạnh vô song diệu kỳ của “biển cả nhân dân ” “tức nước vỡ bờ ”. Vỡ bờ gồm hai tập, mỗi tập cách nhau tám năm cho nên dư luận đánh giá tập sách cũng tập trung vào hai thời điểm trên. Bộ tiểu thuyết đạt được những thành tựu đáng kể, và khi mới ra đời đã có những bài viết, bài nghiên cứu phê bình về bộ tiểu thuyết này, xuất hiện trên các Tạp chí Văn học, Tạp chí Cộng sản, Văn nghệ Quân đội, qua nhiều bài báo khác nhau... Phong Lê “Chung quanh vấn đề Vỡ bờ”, Nguyễn Văn Hạnh “Vỡ bờ và nghệ thuật tiểu thuyết” của Nguyễn Đình Thi, Hà Minh Đức “Vỡ bờ một thành công mới” của Nguyễn Đình Thi, Vũ Ngọc Phan của Nguyễn Đình Thi, Phan Cự Đệ “Tiểu thuyết Vỡ bờ” của Nguyễn Đình Thi... mỗi nhà phê bình đều có cách đánh giá, nhìn nhận theo quan điểm riêng của mình nhưng nhìn chung khen hơn là chê. Bởi điều mà Nguyễn 4
  7. Đình Thi đạt được chính là quan điểm đánh giá, nhận thức đúng đắn, sâu sắc một thời kỳ lịch sử. Sức mạnh của tiểu thuyết Vỡ bờ chính là tác giả đã có một ngòi bút thấm đẫm tình cảm yêu thương, trong sáng và những lý tưởng đẹp đẽ, cao quí, một trình độ tổng hợp và khái quát tài hoa, thông minh. Chính tư chất đó đã tạo đà cho Nguyễn Đình Thi trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm, cốt truyện hiện đại không đi theo lối truyền thống, nhiều chủ đề phức tạp, nhiều tuyến nhân vật đan xen nhau... Một điều chúng ta không thể phủ nhận là tác giả có ý thức học hỏi kinh nghiệm của các nhà tiểu thuyết lớn đặc biệt là Lep.Tônxtôi tác giả của bộ sử thi nổi tiếng “ Chiến tranh và hoà bình”. Chu Nga đã đánh giá sự thành công trong tiểu thuyết Vỡ bờ ở chỗ, Vỡ bờ hầu như là cuốn tiểu thuyết đầu tiên đã xây dựng được một hình ảnh chân thực và tương đối hoàn chỉnh về người Đảng viên cộng sản, đó là Khắc. “Khắc chỉ là một Đảng viên bình thường, nhưng trước con mắt chúng ta, anh hiện lên như một mẫu người lý tưởng. Con người ấy sắt đá trước kẻ thù, thà chết chứ không khi nào chịu đầu hàng khuất phục. Nhưng cũng chính con người ấy lại có một tình yêu thương đằm thắm với gia đình, bạn bè, sẵn sàng hy sinh đời mình cho Cách mạng ”. Hầu hết các nhà lý luận cho rằng Nguyễn Đình Thi vốn sở trường về mặt miêu tả các nhân vật thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản như Tư, Hội... Và miêu tả các nhân vật phụ nữ nông thôn đều đẹp, một vẻ đẹp thuần khiết của làng quê, họ giàu có về tình cảm như Xoan, Quyên... “Nguyễn Đình Thi thường thành công khi xây dựng những con người chính diện. Ngược lại, các nhân vật phản diện của anh hiện lên không sắc nét ”. ở những nhân vật chính diện có những phẩm chất nổi bật là anh hùng và nhân văn. Phẩm chất nhân văn biểu hiện qua vẻ đẹp tâm hồn với mối quan hệ tình cảm của nhân vật với tình yêu quê hương đất nước, đồng chí, đồng bào và người thân. Mối quan hệ tình cảm hết sức 5
  8. trong sáng, mặn nồng. Những cung bậc tình cảm ấy được tác giả đặt vào trong thử thách khắc nghiệt để bộc lộ rõ phẩm chất cao đẹp, tiềm ẩn trong sự mộc mạc giản dị. Riêng về nhân vật Phượng thì có nhiều ý kiến khác nhau, tác giả dành cho nhân vật này hơi nhiều tình cảm và nhẹ phần phê phán. Tác giả xây dựng nhân vật này như một nhân vật phức tạp đầy mâu thuẫn “Phượng sống trong cuộc sống giàu sang nhung lụa, Phượng bị lôi cuốn theo tiền tài danh vị khoái lạc trong mối tình với Huyện Môn, và chuyện sa ngã với Thanh Tùng. Nhưng ở Phượng cũng có những mong muốn chân thật, muốn thoát khỏi sự xấu xa, giả dối. Những tình cảm thực của Phượng với hoạ sĩ Tư, tâm trạng của Phượng trước thái độ của chồng, cũng gợi lên được hình ảnh của Phượng ngày xưa trong lứa tuổi học trò trong trắng”. Nhưng lại có nhà phê bình cho rằng khi xây dựng Phượng người ta chỉ thấy được Phượng là một cô gái con nhà giàu, có sắc đẹp, bất mãn với chồng, rồi để trả thù chồng... lắm thủ đoạn, như mồi chài Thanh Tùng, rồi “đá” hắn, như tích trữ đầu cơ... chứ không phải là người “không có nét giả dối ” “sự tự tử của Phượng có một vẻ lãng mạn, không mang một ý nghĩa xã hội gì đáng kể”. Việc Phượng may cờ, thậm chí Phượng giác ngộ Cách mạng cũng không sao, bởi không hiếm những con em tư sản, địa chủ đã đi theo cách mạng... nhưng Phượng với những tính cách như trên, có thể đi theo Cách mạng được không? Hay nói sát hơn, một cô Phượng như vậy đã có thể trang bị cho mình những gì để đi theo Cách mạng ? ”. Phải chăng Nguyễn Đình Thi miêu tả Phượng bằng tất cả tình cảm, yêu mến của mình, chính điều đó mà hình tượng Phượng lại làm cho người đọc khó chịu. “Một con người vô dụng, quen ăn bám, sống một cuộc sống vô vị, mang một nhân sinh quan rất “lắm vấn đề ”một cô nương ”“phè phỡn” đang chán ứ lên trong cảnh sống trưởng giả, như cách nói của Lê Nin, thử hỏi có gì khiến cho tác giả băn khoăn nhiều đến thế. Nhân vật 6
  9. đó có ý nghĩa gì? Tác giả đấu tranh cho cái gì ở họ? ”. Nguyễn Đình Thi giới thiệu cho bạn đọc “một cô Phượng đáng thương hơn là đáng giận” . Riêng Phượng, người ta chưa thể hình dung Phượng muốn đổi một cuộc đời như thế nào, và có khả năng đổi được không, trong khi Phượng chẳng có một “vốn liếng” gì cả, ngoài sắc đẹp, ngoài khả năng ăn chơi, đầu cơ, và những ham muốn hưởng thụ của đời sống tư sản. Những cô gái như thế có lẽ chỉ có khả năng may cờ và mặc quần áo đẹp. Mà cách mạng thì không phải như thế . Đối với nhân vật Phượng còn có nhiều ý kiến bàn luận nữa, nhưng trong khuôn khổ của bài viết này người viết chỉ đưa ra những ý kiến nổi bật hơn cả. Vỡ bờ đã phản ánh một hiện thực khá rộng lớn của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng tám 1945. Thời kỳ chiến tranh thế giới bùng nổ, Pháp thua trận, Nhật đến chiếm đóng Đông Dương, nhân dân ta phải ở dưới hai ách thống trị, Cách mạng do Đảng lãnh đạo âm ỉ rồi bùng cháy trong quần chúng. Sự đè nén áp bức cũng chỉ đến độ và cảnh “tức nước vỡ bờ ”đã diễn ra. Nhiều tầng lớp người đã được khắc hoạ trong Vỡ bờ, các thành phố lớn, nhỏ là nơi các nhân vật hoạt động đi về. Các nhân vật hiện lên sinh động, có cá tính và nhất là những diễn biến trong quá trình phát triển nội tâm của nhân vật. Vỡ bờ đã miêu tả được một trường rộng lớn, khái quát hiện thực cuộc sống toàn xã hội. Tiểu thuyết mang nhiều chủ đề và nhiều tư tưởng, nhiều tuyến nhân vật, đủ các loại người. Vỡ bờ là bức tranh nhiều màu vẻ về cuộc sống xã hội nước ta trong những năm 39- 40 và đầu năm 41. Mỗi nhân vật đều có một hình, một vẻ, một ngôn ngữ riêng biệt... Trong quá khứ, lịch sử nhân loại chúng ta đã có một kho tàng văn học nghệ thuật. Ngay trong buổi bình minh của các dân tộc, con người đã biết sống thành tập đoàn người chống lại những khốc liệt, thử thách của thiên nhiên. Cơ sở đó đã gợi những nguồn cảm hứng và sức mạnh cộng đồng trẻ 7
  10. trung tạo ra một dòng văn học tươi mát khoẻ khoắn như chính lịch sử, thuần khiết và mãnh liệt về phương diện cảm xúc và thẩm mỹ, mang tầm vóc hoành tráng về phương diện bao quát cuộc sống. Có nghĩa ngay từ đầu tiểu thuyết đã được làm bằng chất bột đặc biệt, được xây dựng ở khu vực tiếp xúc trực tiếp với cái thời hiện tại không hoàn thành. Và ở nó đã nảy sinh tương lai của toàn bộ văn học. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói chung và tiểu thuyết - sử thi Vỡ bờ nói riêng, có giá trị vô cùng lớn lao đã ghi lại một chặng đường lịch sử anh dũng hào hùng. Bên cạnh đó nó còn bồi dưỡng cho tâm hồn người Việt Nam biết trân trọng, quí mến hơn những tình cảm chân thành đối với Tổ Quốc của những thế hệ đi trước, đặc biệt là những nhà văn xông pha nơi chiến trường để ghi lại những “thước phim ”quí giá đi cùng năm tháng. Thế hệ chúng ta, lớp con cháu cần ghi nhớ, học hỏi và gìn giữ. 3. Nhiệm vụ của luận văn. 3.1. Đánh giá lại tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi 3.2. Nêu lên những vấn đề lý luận của loại hình tiểu thuyết - sử thi như: - Các tuyến chủ đề nhân vật, cốt truyện trong kết cấu. - Mối liên hệ giữa tuyến sự kiện và tuyến nhân vật - Sự kết hợp giữa các yếu tố sử thi và tâm lý 4. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau: 4.1. Phương pháp phân tích tổng hợp - nhằm nghiên cứu một cách khái quát từ chi tiết cụ thể đến tổng hợp giúp cho việc nghiên cứu có sức thuyết phục cao. 8
  11. 4.2. Phương pháp loại hình . 5. Cấu trúc luận văn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn được triển khai trong 4 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thể loại sử thi và tiểu thuyết sử thi. Chương 2: Kết cấu Vỡ bờ và những vấn đề về tiểu thuyết - sử thi hiện đại. Chương 3: Sự kết hợp giữa sự kiện và nhân vật trong tiểu thuyết - sử thi. Chương 4: Sự kết hợp giữa sử thi và tâm lý. Kết luận. Thư mục tham khảo. 9
  12. Phần nội dung Chương 1 Một số vấn đề lý luận về thể loại sử thi và tiểu thuyết - sử thi 1.1. Khái quát về sử thi. Sử thi cổ đại là những tác phẩm văn học thuộc loại tự sự ra đời từ rất sớm, khi cộng sản nguyên thuỷ đã tan rã, nhưng xã hội phong kiến chưa hình thành. Một thời đại có những biến cố lịch sử đặc biệt quan trọng, quyết định lớn đến toàn bộ đời sống tinh thần và vận mệnh của dân tộc và nhân dân. Đó là xung đột giữa các bộ tộc, bộ lạc người, cách làm ăn sinh sống, những phong tục tập quán... để đi đến một sự thống nhất chung, một khát vọng cao cả mang lý tưởng nhân loại. Cho nên những tác phẩm văn học này nó vừa mang nét tươi mới hồn nhiên, ngây thơ của buổi hồng hoang vừa có tầm vóc về khối lượng và qui mô lớn trong sự phản ánh thực tại. Vì vậy mà được gọi là thời đại của sử thi, thời đại anh hùng. Hơn nữa đây là những tác phẩm có màu sắc dân gian, nội dung kể lại các sự kiện và các nhân vật lịch sử hoặc tôn giáo đã được trí tưởng tượng dân gian tô vẽ thêm thành những huyền thoại. Nếu như trong tiểu thuyết - sử thi số phận cá nhân còn chiếm địa vị trọng tâm và lịch sử đôi khi chỉ là đường viền cho các nhân vật hoạt động, thì trong sử thi vị trí trung tâm là các biến cố lịch sử đối với đời sống, và vận mệnh của các dân tộc. Trong tác phẩm sử thi nổi bật là tính khái 10
  13. quát cao và nhiều giá trị nhận thức, giáo dục tư tưởng và thẩm mĩ lớn, vì vậy nó đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền văn hoá dân tộc: Ramayana, Mahabharata, Illiade, Odyssée, Đam san, Xinh nhã... là những tác phẩm thuộc các nền văn học khác nhau nhưng dường như chúng có những tiêu điểm chung là đều đem đến cho bạn đọc những lý tưởng tốt đẹp, xứng đáng là những tác phẩm được lưu truyền mãi mãi không bị mai một theo thời gian. Ra đời từ một thế giới “khởi nguyên‟‟, một thế giới tốt đẹp, thế giới “ban mai”, đặc biệt là một thế giới mang tính cộng đồng và ý thức cộng đồng sâu sắc, đoàn kết muôn người như một là động lực mạnh mẽ tạo ra một sức mạnh phi thường để hướng tới một cuộc sống cao đẹp. Mỗi cá nhân đều có ý thức, trách nhiệm hoà đồng vớí mục đích chung của cộng đồng. Sử thi được chia làm hai loại: sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại. Thời đại của sử thi cổ sơ là thời đại chưa có giai cấp và đối kháng giai cấp. Sử thi Ê Đê ra đời trước khi hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ. Còn sử thi cổ đại ra đời sau khi hình thành nhà nước: “Sự liên kết thành nhà nước của các bộ tộc là một nhân tố quyết định của sự phát triển của sử thi. Chính yếu tố nhà nước này trong tuyệt đại đa số tác phẩm, qui định sự khác nhau giữa sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại‟‟. Vấn đề này ta thấy rõ trong sử thi ấn Độ. Xã hội trong Mahabharata có sự mâu thuẫn lớn giữa “dân chủ bộ lạc và chiếm hữu nô lệ, mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp bao gồm mâu thuẫn các dòng họ và các cá nhân”. Những mâu thuẫn trên, là nguyên nhân của chiến tranh. Chiến tranh làm nhiệm vụ “bà đỡ của lịch sử”, thống nhất lực lượng đưa cộng đồng thành bộ lạc đến bộ tộc và liên minh bộ tộc dần dần đến dân tộc. Vậy chiến tranh chính là đề tài của sử thi. Bởi nó mang những xung đột dữ dội từ xã hội đến tư tưởng tình cảm con người. Mỗi dân tộc, mỗi đất nước đều mang những sắc thái dân tộc khác nhau. Tuy nhiên điều khác biệt ở sử thi ấn Độ khi miêu tả chiến tranh là nhằm phục vụ cho tư tưởng “phi bạo lực”
  14. 577>. Sự tàn sát thảm hại của chiến tranh cho người ta bài học về tự kìm chế, phẫn nộ và căm thù. Mọi sự kiện, mọi vấn đề phong tục, nghi lễ, các tầng lớp trong xã hội... đều được phản ánh trong sử thi ấn Độ, nó được coi như “bộ bách khoa toàn thư‟‟. Nhưng tất cả các vấn đề đó không phải đều là sự thật. Bởi họ cho rằng huyền thoại và tưởng tượng luôn gắn chặt với nhau. Khối sản phẩm tinh thần này tạo nên một thứ lịch sử vừa thật, vừa không thật, gọi chung là “lịch sử tưởng tượng”. Điều đó ta dễ hiểu, mỗi một dân tộc, một đất nước đều có cách suy nghĩ và phong cách riêng. Vì vậy người ấn Độ xưa nay vẫn tôn sùng và tu dưỡng theo những châm ngôn: “điều gì mình không thích thì đừng làm cho kẻ khác ” “chân lý, tự kìm chế khổ hạnh, lòng quảng đại, phi bạo lực, kiên trì, đạo đức - đó là những phương tiện thành công ” “đạo đức tôn hơn sự trường sinh và cuộc sống”. Tuy nhiên “lịch sử tưởng tượng” nhiều khi không giống với cuộc sống thực tại của xã hội, nhưng dù sao ta cũng biết được bản chất con người và mục đích của nhân dân của thời đại đặc biệt đó . Sử thi ấn Độ cũng như Iliade, Odyssée đưa ra một cái nhìn tổng hợp hơn là phân tích, sau này tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết thế kỷ 19 của Phương Tây như Bà Bovary của Flaubert, Anna-Karenina của Tolstôi đi sâu vào phân tích tâm lý con người. Còn sử thi của thời đại mới là kiểu sử thi kết hợp hài hoà giữa tổng hợp và phân tích, giữa biện chứng pháp lớn của lịch sử và biện chứng pháp nhỏ của tâm hồn >. Cũng như sử thi ấn Độ, sử thi Êđê cũng chứa đựng nhiều mặt, nhiều sự kiện của đời sống người Êđê như cưới hỏi, đi săn, bắt cá, làm rẫy, kể cả tục nối dây... những nhân vật trung tâm trong sử thi Êđê là những anh hùng chiến đấu vì sự giàu có, mạnh mẽ về tài năng, trí tuệ sáng ngời, luôn toả sáng vẻ đẹp phi thường và họ chiến đấu cho sự yên vui của thôn bản. Ngoài 12
  15. ra còn có đề tài lấy vợ và làm lụng. Thực ra đề tài chiến tranh của sử thi Êđê là nhằm mục đích hoà bình, no ấm cho mọi người. Sử thi Êđê ra đời khi mà đời sống của họ còn rất nguyên sơ, xã hội chưa có đẳng cấp, toàn bộ công xã sống trong tinh thần cộng đồng hoà hợp theo tinh thần đoàn kết, bình đẳng thương yêu nhau và đặc biệt là chưa hình thành nhà nước. Bên cạnh đó sử thi ấn Độ ra đời khi ấn Độ đã hình thành nhà nước, có trình độ văn hoá phát triển cao, có nhiều ngành nghề như luyện kim, trong xây dựng đã biết chế biến đá, gỗ và gạch ngói, biết chế biến nhiều loại thuốc trong đó có cả loại thuốc ướp được xác chết... có nghĩa là tình hình công nghiệp, thủ công nghiệp, nội ngoại thương... phát triển cao. Những đặc trưng trên đã chi phối toàn bộ các phương diện, các thành tố của cấu trúc xã hội và ý thức xã hội. Khi đó con người chưa có ý thức tách khỏi cộng đồng của nó cả trong sinh hoạt thực tiễn lẫn trong ý thức. “Cá nhân mang trong mình một phân số nào đó của lực lượng thể chất của tập thể, và đồng thời lại có được tất cả những hiểu biết, tất cả sức mạnh tinh thần của tập thể”. Thời kỳ có sự thống nhất giữa cá nhân và cộng đồng, sự thống nhất trong cơ cấu cộng đồng được phản ánh trong ý thức, và làm thành sự thống nhất nội tại của tâm lý, và tính cách con người . Theo Bielinxki, anh hùng ca chỉ xuất hiện trong thời đại chưa có sự phân rã của đời sống thành những yếu tố biệt lập. Phải có sự gắn kết giữa cá nhân và cộng đồng cả trong cách cảm, cách nghĩ và trong hành động. Sự thống nhất này chính là đặc trưng tiêu biểu của đời sống cổ đại. Thậm chí nó còn nằm ở nhiều mặt, xét cả ở chiều sâu , chiều rộng cả chiều dài . Đó chính là cơ sở tâm lý và xã hội cho sự hình thành, sự tồn tại và sức tác động mãnh liệt của những cảm hứng lịch sử, và cảm hứng nhân dân vốn là linh hồn của sử thi cổ đại. 13
  16. 1.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa sử thi và tiểu thuyết - sử thi. Tiểu thuyết ra đời cách xa với sử thi, vì vậy cuộc sống được miêu tả trong tiểu thuyết hướng đến cuộc sống bình thường hàng ngày của quần chúng, những nhân vật trong tiểu thuyết sinh động như trong cuộc đời. Bằng sức mạnh của nghệ thuật điển hình hoá, tiểu thuyết nâng cái cá biệt, cái cụ thể lên tới chiều cao của lý tưởng và sự khái quát. Sức mạnh phi thường, tài năng, lý tưởng, khát vọng hy sinh cho dân tộc... vẫn được nối tiếp, và đổi mới trong hệ thống hình tượng nhân vật anh hùng. Vẻ đẹp của hiện đại luôn hoà quyện với những phẩm chất sử thi được chắt lọc, tạo nên phẩm chất anh hùng trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Trong sử thi cổ đại thần linh chiếm giữ một vai trò quan trọng, trực tiếp tham gia vào diễn biến của đời sống con người và lý giải các hiện tượng của đời sống. Cái hiện thực bện kết với “lịch sử tưởng tượng”. Những ảnh hưởng của thế giới siêu thần không dẫn đến sự bóp méo thực tại và xoá đi chân lý nghệ thuật. Đó là những lý tưởng, là khát vọng là niềm tin và sức mạnh tinh thần “nó trở thành một nhân tố sinh động trong đời sống của họ”, luôn luôn vực họ từ một cuộc sống sơ đẳng, từ kiếp đời nô lệ và xấu xa lên một lĩnh vực cao hơn. Vì vậy mà các nhân vật đã có sự hoá thân vào các hình tượng thần thoại. Mặc dù những suy nghĩ rất thô sơ, hoang tưởng nhưng đây là phương thức duy nhất mà thời đại nguyên thuỷ có để giải thích thế giới, đúc kết kinh nghiệm và biểu hiện nguyện vọng của nhân dân . Khi lịch sử tiến lên, xã hội có sự biến đổi thì cách nghĩ, cách cảm của người xưa cũng dần qua đi cùng với thời gian. Bởi khi mà giai cấp và giai cấp đối kháng xuất hiện, thì những điều kiện sản sinh ra những tác phẩm sử thi không còn, thì sử thi cổ đại cũng không còn lý do để tiếp tục tồn tại, nó vĩnh viễn qua đi cùng với thời thơ ấu của nhân loại . 14
  17. Đặc trưng của sử thi là lời tiên tri, lời sấm truyền được thực hiện hoàn toàn trong khuôn khổ quá khứ tuyệt đối. Những lời sấm truyền đó đôi khi chỉ là những ước mơ mang màu sắc huyễn tưởng. Còn đối với tiểu thuyết, là lời tiên đoán, lời dự báo, tiểu thuyết có tham vọng tiên đoán những sự thực, dự báo và ảnh hưởng đến cái tương lai hiện thực, tương lai của tác giả và độc giả. Vì thế thời đại của tiểu thuyết cách xa với thời đại của sử thi, đó là thời đại của chủ nghĩa hiện thực, một thời đại mà khoa học chiếm vị trí quan trọng trong đời sống, nó không còn là thế giới của thần bí, siêu hình. Trước đây con người nằm trong sự thống nhất trực tiếp với cộng đồng, thì giờ đây con người được tách riêng với tư cách là một cá nhân. Con người làm chủ bản thân mình theo nghĩa chung của nó, không còn lệ thuộc vào bất cứ sự hoang đường hay viễn tưởng nào cả. Nó không còn là khát vọng, là ước mơ mà nó đã trở thành hiện thực . Tiểu thuyết và sử thi là sản phẩm của những thời đại khác nhau. Sử thi tuyệt đối hoá quá khứ, phân cách nó với hiện tại bằng “khoảng cách sử thi tuyệt đối ”. Sử thi kể những gì ngược trở lại với thời gian, một quá khứ tuyệt đối” vốn đã hoàn tất, và khép kín cả trong tổng thể cũng như ở từng bộ phận của nó. Vì thế bộ phận nào cũng có thể có được bố cục và trình bày như một chỉnh thể. ở trong đó diễn ra các sự kiện quan trọng có ý nghĩa lớn đối với toàn thể cộng đồng. Trong đó họ xây dựng nhân vật anh hùng có thể là một tù trưởng, người đứng đầu một bộ tộc, một buôn làng và tập trung tất cả những mặt tốt đẹp, sức mạnh của cả cộng đồng. Theo quan niệm của tác giả sử thi, đó là tổ tiên của cộng đồng. Sử thi không dành chỗ cho hiện tại, nó quan tâm đến những cái đã hình thành, cái hoàn thiện, có nghĩa cái đã thuộc về phạm trù quá khứ. “Sử thi không tranh luận mà nó khẳng định, sử thi không gợi ý, nó khuyến cáo, không đề nghị suy nghĩ mà đòi hỏi thừa nhận ; không giả định mà mặc nhiên tự coi là đã giải quyết trọn vẹn, một lần cho 15
  18. mãi mãi ”.
  19. còn được sử dụng ngay trong quá trình giao tiếp hàng ngày. Cách sử dụng ngôn ngữ như vậy khiến cho các nhân vật không mang được cá tính riêng biệt, chúng là những con người được lý tưởng hoá của cộng đồng. Muốn phân biệt con người, hay xây dựng những nhân vật được cá thể hoá phải dựa vào những vị trí khác nhau và những số phận khác nhau. Những nhân vật trong sử thi cổ đại là những con người khổng lồ của một thời đại, được xây dựng trong một chỉnh thể, họ mang tầm vóc của cả một cộng đồng người, mang sức mạnh tinh thần, sức mạnh thể chất lớn lao chưa từng có. Là con người của sự hoàn thiện hoàn mĩ, phẩm giá của nó ở tất cả các mặt, sức mạnh cũng như tài năng, đạo đức cũng như ngoại hình đều tương xứng với vị trí hiển quí của nó. Ngược lại với sử thi cổ đại, tiểu thuyết - sử thi có khả năng xây dựng một kết cấu ngôn ngữ đa thanh, bởi trong tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết - sử thi nói riêng, các nhân vật trong tác phẩm có những thế giới quan và nhân sinh quan khác nhau, từ đó có những quan điểm sống, cách sống khác nhau. Có nghĩa là trong tiểu thuyết xuất hiện những tư tưởng và ngôn từ của các nhân vật khác nhau. Cùng một sự vật, hiện tượng có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, và được đánh giá từ nhiều phía, được soi rọi từ nhiều khía cạnh và ai cũng tự cho mình là chân lý. Vấn đề này đối với người này thì có giá trị, nhưng đối với người khác nó lại không mang ý nghĩa gì. Như vậy ngôn ngữ trong tiểu thuyết - sử thi rất đa dạng và phong phú, nó mang tầm rộng lớn của tri thức, đòi hỏi các tác giả phải có vốn sống lớn và phải tiếp nhận thế giới thực tại để rồi lại mở rộng, phản ánh một cách toàn diện. Ngôn ngữ trong sử thi không có khả năng đi sâu vào thế giới bên trong của từng nhân vật. Tiểu thuyết - sử thi của chúng ta có một lợi thế là có khả năng phân tích. Phân tích thực tại, phân tích thế giới vô cùng bí ẩn nó nằm sâu trong tâm hồn con người một cách sâu sắc . 17
  20. “illiade”là bài ca về thành Iliông, Achille - người anh hùng trong chiến trận, nhân vật chính của tác phẩm đã được tác giả miêu tả thành một biểu tượng về sức mạnh thể chất của người Hi Lạp và cũng là hình ảnh lý tưởng của người anh hùng bộ tộc trong chiến tranh thời đại Homerơ. Hay Ramayana là thiên sử thi vĩ đại đầy chất bi hùng, chói lọi hào quang huyền thoại, đây là bức tranh xã hội rộng lớn phản ánh hiện thực đời sống, tư tưởng của nhân dân ấn Độ cổ đại. Nó còn là bài ca vĩ đại, ca ngợi chiến công hiển hách, khí phách hào hùng của những vị anh hùng, mẫu người lý tưởng mà nhân dân ấn Độ đề cao và ngưỡng mộ. Rama con người thiện của đẳng cấp Kơ-xatrya và tấm lòng chung thuỷ kiên trinh của Xita - người phụ nữ mẫu mực của thời đại. Tác phẩm là món ăn tinh thần không thể thiếu của nhân dân ấn Độ. Sử thi đi ngược lại thời gian trong quá khứ. Còn trọng tâm nhận thức của tiểu thuyết là hiện tại chứ không phải quá khứ. Hay nói như Bakhtin, một trong những đặc điểm cơ bản, phân biệt về nguyên tắc giữa tiểu thuyết và tất cả các thể loại còn lại là ở chỗ nó có một phạm vi mới, hình tượng trong tiểu thuyết được khai thác trong “vùng tiếp xúc tối đa với cái hiện tại trong sự không hoàn thiện của nó”. Trong quá khứ sử thi là anh hùng ca, thì trong thời đại của chúng ta tiểu thuyết chính là “anh hùng ca của thời đại mới”. Tiểu thuyết tái hiện toàn bộ thực tại với tính chân thực của nó là “sự mô tả bức tranh xã hội, sự phân tích nghệ thuật đời sống xã hội”. Sử thi trang trọng oai nghiêm lộng lẫy như cái quá khứ huyền thoại hoá của nó. Đối với tiểu thuyết thì lại cần cái sống thực, sức mạnh của nó gắn bó với cái còn đang làm nên, cái còn dang dở, đang mở ra một chân trời rộng lớn, cái có thể nhìn nhận lại, mọi cái đều nằm trong sự trở thành chứ không phải sự kết thúc. Bakhtin viết “tiểu thuyết là thể loại duy nhất đang trở thành, vì thế nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản, tinh tế và nhanh nhạy hơn sự trở thành của bản thân thực tại. Chỉ có cái đang trở thành 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2