intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật Thơ mới 1932-1945 qua sáng tác của một số tác giả tiểu biểu

Chia sẻ: Huỳnh Thị Thùy Dương | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:108

299
lượt xem
52
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn "Không gian nghệ thuật Thơ mới 1932-1945 qua sáng tác của một số tác giả tiểu biểu" có kết cấu nội dung gồm 3 chương, nội dung luận văn trình bày về những đặc điểm nổi bật của không gian nghệ thuật thơ mới 1932-1945, không gian nghệ thuật của Thế Lữ, Huy Cận,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật Thơ mới 1932-1945 qua sáng tác của một số tác giả tiểu biểu

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH ­­­­­­­­­­­­­ NGUYỄN THỊ THÚY QUYÊN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số: 60.22.32 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Trần Khánh Thành
  2. 2 MỤC LỤC        Trang MỞ ĐẦU .........................................................................................................    3 1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................     3 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................    3   3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................    5 4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................     6 5. Cấu trúc luận văn .............................................................................     6 Chương 1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT  THƠ MỚI 1932­1945 .........................................................................................     7 1.1. Thơ mới ­ Cuộc cách mạng trong thơ ca Việt Nam ...............................     7 1.1.1. Bối cảnh xã hội và nhu cầu đổi mới văn học ...........................     7 1.1.2. Tản Đà ­ thi sĩ giao thời ..............................................................   10 1.1.3. Sự ra đời của phong trào Thơ mới  ............................................   14 1.2. Vài nét về sự cách tân của thi pháp Thơ mới .........................................   16 1.3. Những đặc điểm nổi bật của không gian nghệ thuật Thơ mới 1932­1945  ..........................................................................................................................   26 1.3.1. Khái niệm không gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật              trong thơ ca trung đại ............................................................................   27 1.3.2. Không gian nghệ thuật Thơ mới ................................................   30 Chương 2. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT CỦA THẾ LỮ, HUY CẬN...............   45 2.1. Thế Lữ với không gian tiên cảnh.............................................................   45 2.1.1. Không gian tiên cảnh là nơi nâng đỡ tâm hồn thi nhân .............   45 2.1.2. Không gian tiên cảnh với vẻ đẹp hài hoà và tĩnh lặng..............   48 2.1.3. Không gian tiên cảnh đậm tình luyến ái ....................................   51 2.2. Huy Cận với không gian vũ trụ ...............................................................   54
  3. 3 2.2.1. Không gian trời xưa, cõi biếc là cội nguồn cho linh hồn trở về  ..........................................................................................................................   55 2.2.2. Không gian vũ trụ với vẻ đẹp hài hoà và trong sáng .................   56 2.2.3. Không gian vũ trụ với vẻ đẹp buồn ..........................................   59 2.2.4. Không gian chia cắt, đóng kín và nỗi cô đơn của thi sĩ .............   62 Chương 3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN BÍNH, XUÂN DIỆU..  ..........................................................................................................................   64 3.1. Nguyễn Bính với không gian làng quê ....................................................   64  3.1.1. Một hồn thơ gắn bó tha thiết với quê hương ...........................   65 3.1.2. Không gian làng quê với vẻ đẹp bình dị ....................................   69 3.1.3. Không gian làng quê với vẻ đẹp văn hoá truyền thống ............   71 3.1.4. Không gian thị thành và không gian tha hương ­ tâm trạng của           kẻ lữ thứ ...............................................................................................   74 3.2. Xuân Diệu với không gian vườn trần đầy quyến rũ ..............................   80 3.2.1. Không gian vườn trần là nơi tâm hồn thi sĩ khát khao giao hoà .    81 3.2.2. Không gian vườn trần nhuộm sắc màu luyến ái .......................   83 3.2.3. Không gian tương phản của thi sĩ cô độc chốn sa mạc cô liêu     87 KẾT LUẬN ....................................................................................................   92 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................   95
  4. 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Thơ mới (1932­1945) là một trào lưu rộng lớn trên bước đường hiện  đại hoá thơ ca dân tộc. Chỉ hơn mười năm hình thành và phát triển, phong trào   Thơ  mới đã có những đóng góp quan trọng, làm thay đổi toàn bộ  thi pháp thơ  trữ tình tiếng Việt, đưa lại cho nền thơ ca nước nhà một sức sống mới, mở ra   “một thời đại trong thi ca”. 1.2. Tuy còn có những hạn chế nhất định, song Thơ mới vẫn nằm trong   văn mạch văn học dân tộc, kế  thừa và phát triển tinh hoa thơ  ca dân tộc.  Những đóng góp của phong trào Thơ  mới là không thể phủ  nhận. Thơ mới ra   đời đã tạo nên sự  đổi mới về  thi pháp thơ, từ  quan niệm về  con người đến  thời gian, không gian nghệ thuật, từ cảm xúc đến giọng điệu, từ ngôn ngữ đến   thể  loại. Không gian nghệ  thuật là một phương diện quan trọng thể hiện sự  cách tân nghệ  thuật của Thơ  mới. Vì vậy nghiên cứu  không gian nghệ  thuật   Thơ  mới 1932­1945 (qua sáng tác của một số  tác giả  tiểu biểu)   ­ một bình  diện thuộc phạm trù thi pháp ­ là hết sức cần thiết, có ý nghĩa về  lý luận và  lịch sử văn học.  1.3. Không gian nghệ  thuật Thơ  mới là một vấn đề  khá rộng lớn,  ở  đó  vừa thể hiện đặc điểm thi pháp trào lưu, vừa thể hiện thi pháp tác giả. Trong  khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tập trung vào bốn tác giả tiêu biểu: Thế Lữ,  
  5. 5 Huy Cận, Nguyễn Bính, Xuân Diệu để  khảo sát và từ  đó rút ra đặc điểm   không gian nghệ  thuật Thơ  mới 1932­1945.  Nghiên cứu về  đề  tài này sẽ  góp  phần hiểu thêm về thi pháp Thơ mới cũng như nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn  dưới cái nhìn toàn diện, hệ thống. 2. Lịch sử vấn đề Phong trào Thơ mới là bước tiến lớn trong lịch sử văn học dân tộc. Khi   Thơ mới ra đời, đã có rất nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn đề  thơ mới ­  thơ  cũ. Thế  nhưng qua thời gian, Thơ mới đã từng bước chứng minh được vị  thế của mình trên văn đàn. Thời kỳ này các nhà nghiên cứu cũng đã bắt đầu đi  sâu vào quan tâm, tìm hiểu về các tác giả và tác phẩm cụ thể. Nhiều công trình   đã được nghiên cứu dưới những góc độ tiếp cận khác nhau. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, các nhà nghiên cứu, phê bình chủ yếu   tiếp cận về Thơ mới và phong trào Thơ mới dưới hai dạng chính sau đây:  Dạng viết về trào lưu: Chủ yếu đề cập đến trào lưu Thơ mới và sự cách  tân về thi pháp thơ. Bởi vì các sáng tác của một giai đoạn văn học nào đó đều  có thể khái quát vào một hay một vài đặc điểm riêng. Gần 80 năm kể từ phong  trào Thơ mới ra đời đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu khá công phu   về giai đoạn  này, tiêu biểu là các tác phẩm như: Thi nhân Việt Nam của Hoài  Thanh ­ Hoài Chân (1942), Phong trào Thơ mới (1966) của Phan Cự Đệ, Việt   Nam thi nhân tiền chiến (1969) của Nguyễn Tấn Long, Thơ mới, những bước   thăng trầm (1989) của Lê Đình Kỵ, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca  (1993) của nhiều tác giả,  Thơ  mới, bình minh thơ  Việt Nam hiện đại  (1994)  của Nguyễn Quốc Tuý,  Thơ  và mấy vấn đề  trong thơ  Việt Nam hiện  đại   (1974), Một thời đại trong thơ  ca của Hà Minh Đức (1997), Thi pháp thơ  Tố   Hữu  (1987),  Những thế  giới nghệ  thuật thơ  (1995) của Trần Đình Sử,  Thi  pháp thơ Huy Cận của Trần Khánh Thành... đã khảo sát khá công phu về đặc  điểm của các loại hình thơ  xuất hiện trong lịch sử văn học và về  tác giả  tiêu  biểu của thơ  Việt Nam hiện đại. Tuy chưa nói cụ  thể  về  không gian nghệ  thuật Thơ mới nhưng đã có nhiều gợi mở trong phạm trù này.
  6. 6 Dạng phân tích về  tác giả  và tác phẩm riêng lẻ: Chủ  yếu đề  cập đến   phong cách sáng tạo của các nhà thơ, tìm cái hay, cái mới mẻ, độc đáo qua các  sáng tác của họ như: Nguyễn Bính thi sĩ đồng quê của Hà Minh Đức, Nguyễn   Bính, hành trình sáng tạo thi ca của Đoàn Đức Phương, Thơ  với lời bình của  Vũ Quần Phương,  Ba đỉnh cao Thơ  mới  của Chu Văn Sơn,  Thơ  Xuân Diệu   trước Cách mạng tháng Tám 1945 (Thơ thơ và gửi hương cho gió) của Lý Hoài  Thu, Con mắt thơ của Đỗ Lai Thuý... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã khai thác, tìm hiểu khá  kỹ về các tác giả và tác phẩm của phong trào Thơ mới, nhiều công trình đã làm  sáng tỏ về đặc điểm Thơ mới cả nội dung lẫn hình thức, cũng có đề  cập đến  vấn đề  thi pháp Thơ  mới hay định nghĩa khái quát về  phong trào Thơ  mới.   Nhưng thi pháp Thơ mới nói chung, không gian nghệ  thuật Thơ  mới nói riêng  là một phạm trù rất rộng, không phải của riêng một tác phẩm nào, mà phải đặt   nó trong cả  một hệ  thống, phong trào của một giai đoạn văn học. Đến nay,  chưa có công trình nào nghiên cứu một cách thật hệ thống và đầy đủ về không  gian nghệ thuật Thơ mới hay không gian nghệ thuật trong các sáng tác của một  số  nhà thơ  tiêu biểu để  có thể  khái lược thành những đặc điểm chung của   không gian nghệ  thuật. Một phần có thể  là vì Thơ  mới đến nay đã trở  thành   “cũ”, “quen thuộc”, vả lại trong đời sống văn học hiện nay có nhiều khía cạnh   để  khám phá, khai thác cho nên vấn đề  không gian nghệ  thuật Thơ  mới  vẫn  còn những khoảng trống, những vấn đề  để  ngỏ  để  chúng tôi có điều kiện đi   sâu vào nghiên cứu các sáng tác của một số nhà thơ  tiêu biểu giai đoạn 1932­ 1945 và hệ thống lại một vấn đề thuộc phạm trù thi pháp trên một quy mô lớn  hơn và theo một góc nhìn mới hơn. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Xác định vấn đề  không gian nghệ  thuật Thơ  mới 1932­1945 (qua sáng   tác của một số tác giả tiêu biểu) là một trong những vấn đề  trung tâm của thi  pháp Thơ mới và của việc nghiên cứu phương diện nội dung thơ trữ tình ­ một  
  7. 7 vấn đề cho phép lý giải được mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trên một  phương diện mới. Cùng với thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật Thơ   mới  đã góp phần làm nên thi pháp Thơ  mới. Nghiên cứu vấn đề  này, người  viết nhằm mục đích đi sâu tìm hiểu các sáng tác của một số nhà thơ tiêu biểu   giai đoạn 1932­1945 để  tìm ra một mẫu số  chung của không gian nghệ  thuật   Thơ mới. 3.2. Đối tượng Qua phân tích các tác phẩm của một số tác giả tiêu biểu trong phong trào   Thơ mới để khái quát đặc điểm không gian nghệ thuật Thơ mới, từ đó làm tiền  đề cho việc nghiên cứu hệ thống thi pháp Thơ mới. Mô tả khái quát và so sánh  giữa không gian nghệ thuật Thơ mới với không gian nghệ thuật thơ Trung đại.   Vận dụng lý thuyết về  không gian nghệ  thuật vào không gian nghệ thuật Thơ   mới 1932­1945 để có được một cái nhìn toàn diện hơn đối với những đóng góp  to lớn của phong trào thơ này trên bình diện thi pháp. Hiểu được tính phức tạp   của đối tượng nghiên cứu nên bước đầu chúng tôi chỉ chọn phương diện  không  gian nghệ thuật Thơ mới 1932­1945 qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu .  Nghiên cứu vấn đề  này không thể  tách rời với nghiên cứu về  thời gian nghệ  thuật Thơ mới gắn với vấn đề thi pháp thể loại và thi pháp trào lưu. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Nhiều tác phẩm thơ  ca giai đoạn 1932­1945 đã góp phần vào việc khái  quát nên không gian nghệ thuật Thơ mới. Trong phạm vi một luận văn cao học,  chúng tôi chỉ  tập trung khảo sát, phân tích qua một số  tác giả  tiêu biểu như  Thế  Lữ, Huy Cận, Nguyễn Bính và Xuân Diệu. Qua đó có thể  khái quát nên   một phạm trù về đặc điểm thi pháp của một trào lưu lớn giai đoạn 1932­1945. 4. Phương pháp nghiên cứu Để  giải quyết được nhiệm vụ  của đề  tài này, luận văn kết hợp vận  dụng nhiều phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống kê, phương pháp   so sánh, phương pháp phân tích ­ tổng hợp, phương pháp hệ  thống để  làm 
  8. 8 nổi bật vấn đề  không gian nghệ thuật Thơ mới 1932­1945 qua sáng tác của   một số tác giả tiêu biểu. 5. Cấu trúc luận văn Tương  ứng với những nhiệm vụ  nghiên cứu đã đặt ra, ngoài  Mở  đầu,  Kết luận  và  Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai trong 3  chương: Chương 1. Những đặc điểm nổi bật của không gian nghệ thuật Thơ mới   1932­1945. Chương 2. Không gian nghệ thuật của Thế Lữ, Huy Cận. Chương 3. Không gian nghệ thuật của Nguyễn Bính, Xuân Diệu. Chương 1 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT  THƠ MỚI 1932­1945 1.1. Thơ mới ­ Cuộc cách mạng trong thơ ca Việt Nam 1.1.1. Bối cảnh xã hội và nhu cầu đổi mới văn học Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến  phương Đông. Một xã hội suốt mấy ngàn năm kéo dài một cuộc sống gần như  không thay đổi về  hình thức cũng như  tinh thần. Nhưng cuộc biến thiên lớn   nhất trong lịch sử dân tộc đã xảy đến, làm đảo lộn toàn bộ cuộc sống yên bình 
  9. 9 tưởng như bất biến ấy. Đó chính là cuộc xâm lăng của thực dân Pháp nửa sau   thế  kỷ  XIX. Cùng với gót giày của quân xâm lược, lối sống văn hóa và kỹ  thuật phương Tây đã tràn vào Việt Nam, tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh  thần của mọi tầng lớp nhân dân.  Sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, vào những năm đầu của thế  kỷ XX, xã hội Việt Nam đã có những thay đổi căn bản. Trước tiên là sự  thay  đổi về mặt cơ cấu xã hội với sự xuất hiện của các tầng lớp mới: tư sản, tiểu   tư sản và trí thức Tây học... (họ sẽ là chủ nhân tương lai của một nền văn học   mới đang hình thành). Tiếp đó là sự  thay đổi về  mặt cơ  cấu kinh tế, sự  phát   triển của kinh tế hàng hóa thị trường với trung tâm là các đô thị đã dần đưa đất   nước vào con đường tư sản hóa. Cuộc tiếp xúc với phương Tây, dù chính thức   hay không chính thức,  tự  nguyện hay không tự  nguyện cũng  đã mang  đến  những thay đổi chưa từng có trong xã hội Việt Nam: “Chúng ta ở nhà Tây, đội  mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô­tô, xe   lửa, xe đạp... còn gì nữa! Nói làm sao xiết những điều thay đổi về  vật chất,   phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta! Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm,   cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình ngày trước” [64, 12]. Trước thế  kỷ  XX, văn học Việt Nam chịu  ảnh hưởng sâu sắc của văn  học Trung Quốc. Trong nền văn học Trung đại Việt Nam, văn chương nhà  Nho là văn chương chính thống. Sinh hoạt văn học chủ yếu diễn ra trong giới   trí thức nho sĩ. Có thể nói nhà Nho vừa là chủ  thể vừa là đối tượng phản ánh  của văn học chính thống. Nhà thơ, đồng thời là những bậc Nho gia xuất thân   từ  cửa Khổng sân Trình. Họ  làm thơ  theo những khuôn mẫu và chất liệu sẵn   có, chỉ việc sắp xếp, lựa chọn, tỉa tót sao cho thật khéo léo, tinh xảo. Do đó họ  thích vay mượn, tập cổ  hơn là sáng tạo ra các hình thức mới. Vì vậy thơ  ca  Trung đại có tính chất quy phạm rất cao, niêm luật chặt chẽ. Đề  tài, cấu tứ,  ngôn ngữ, hình  ảnh... phần lớn nằm trong một hệ  thống  ước lệ, một khuôn  mẫu bất di bất dịch. Văn theo quan niệm của nhà Nho là biểu hiện của Đạo và  được dùng để truyền đạt đạo lý thánh hiền. Thơ chủ yếu là để gửi gắm, bộc  bạch tâm sự, để  “ngôn chí”, “cảm hoài”, chứ  không phải là phát ngôn của cái  
  10. 10 “tôi” riêng tư. Xã hội phong kiến ràng buộc con người bởi bổn phận, trách  nhiệm trong đạo lý cương thường cho nên phần cá nhân bị  lấn át và không có  cơ hội để bộc lộ mình trước cái Ta đạo lý. Chính vì vậy thơ ca Trung đại Việt   Nam thường thiếu vắng cách biểu thị trực tiếp của chủ thể trữ tình dưới dạng  thức “tôi”, “ta”, “chúng ta”. Môtip con người duy lý, con người cao khiết không  màng danh lợi đã chi phối toàn bộ hệ thống thơ ca Trung đại trên phương diện   chủ thể trữ tình. Đó là những con người sánh ngang tầm vũ trụ về cả tài năng  lẫn khí tiết như trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,... “Thu đến cây nào chẳng lạ lùng Một mình lạt thuở ba đông Lâm tuyền ai rặng rà làm khách Tài đống lương cao ắt cả dùng!” (Tùng ­ Nguyễn Trãi) Cho đến cuối thế  kỷ  XIX, khi mà “mầm mống chống Nho giáo” (theo  cách nói của Trần Đình Hượu) ngày càng phát triển thì trong thơ ca, con người   Nho giáo không còn ý nghĩa cao siêu như trước. Bởi Nho giáo đã tỏ  rõ sự  bất  lực của mình trước những biến đổi không ngừng của cuộc sống. Vị trí độc tôn  của nó như  một ý thức hệ  chính thống đã không còn vững chắc như  trước.   Lớp nhà Nho cuối mùa như Nguyễn Khuyến đành phải quy ẩn để rồi quay lại  tự phủ nhận mình, tự đả kích chính mình: “Sách vở ích gì cho buổi ấy Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già” (Ngày xuân dặn các con) Tuy nhiên, Nho giáo với bề dày lịch sử hàng nghìn năm đã ăn sâu, cắm rễ  trong lòng xã hội Việt Nam, không dễ gì một sớm một chiều mà lụi tàn nhanh   chóng. Vì vậy dẫu có ngông nghênh kiêu bạc như  Nguyễn Công Trứ, phản   kháng quyết liệt như Hồ Xuân Hương cũng chưa đủ mạnh để bứt phá ra khỏi  vòng kiềm tỏa của Nho giáo. Hơn nữa, đến đầu thế kỷ XX, ngay cả khi xã hội   Việt Nam bước đầu chuyển sang một cơ  cấu kinh tế  mới ­ kinh tế hàng hóa 
  11. 11 thị trường, thì cái tàn dư của Nho giáo vẫn còn đeo bám. Chính thế nên các nhà  Nho yêu nước thức thời ­ những người từng coi Khổng Tử là thánh nhân, tôn   thờ giáo lý đạo Khổng như một chuẩn mực đạo lý, một mặt phê phán thứ văn  chương ngâm vịnh sáo mòn, phê phán những quan điểm Nho giáo đã lỗi thời   (Cáo hủ lậu văn), mặt khác họ vẫn phải quay trở về với Nho giáo khi bất lực   trước thực tại. Bi kịch của ông già bến Ngự, người trí sĩ yêu nước Phan Bội  Châu chính là minh chứng rõ ràng nhất trong buổi giao thời ­ khi mà cái cũ chưa  mất đi hoàn toàn, cái mới lại chưa đủ mạnh để thay thế. Đó phải chăng là hạn  chế của lịch sử và cũng chính là hạn chế của lớp nhà Nho như Phan Bội Châu  trước những nhu cầu của đời sống tinh thần trong xã hội mới? Nhưng dù sao   lịch sử  văn học Việt Nam cũng đã chứng kiến sự  kiện quan trọng: một bộ  phận nhà Nho đã vứt bỏ lối văn chương cao đạo, xa cách với quần chúng nhân   dân, kêu gọi đổi mới văn học, chống lối thơ  cũ với sự  gắn bó của những   nguyên tắc sáo mòn. Sự kiện ấy thực sự là bước đệm, tạo đà cho Thơ mới ra   đời. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, lần đầu tiên trong lịch sử người Việt   Nam tiếp xúc với một thứ văn hóa hoàn toàn mới lạ, làm lung lay những khuôn   mẫu trước đây mà họ  từng tôn thờ. Báo chí phát triển rầm rộ  với công việc  dịch thuật, khảo cứu các tác phẩm văn học và triết học Pháp sang chữ  quốc   ngữ càng làm cho tầm mắt người Việt Nam được mở rộng. Nếu trước kia họ  chỉ biết đến những bài thơ Đường cổ điển của Lý Bạch, Đỗ  Phủ, Mạnh Hạo   Nhiên, Vương Xương Linh... thì giờ đây họ say sưa với các tác phẩm văn học  Pháp của Hugo, Musset, Sten’dal, Balzac, Baudelaire, Rimbaud, Verlaine... và  tiếp xúc với các nhà khai sáng như Moutesquieu, Diderot, Vontaire. Chính từ   ảnh hưởng của các đô thị  và nhà trường Pháp Việt cũng như  sách báo và các tác phẩm văn học Pháp, một thế  hệ  thanh niên Việt Nam với  tư duy và nhu cầu thẩm mĩ mới được hình thành. Họ có cách cảm, cách nghĩ và   lối sống khác với thế hệ trước. Những câu nói có phần “xô bồ”, “liều lĩnh” mà  “tha thiết” của Lưu Trọng Lư  ở  nhà học Hội Quy Nhơn năm 1934 đã bộc lộ  tâm lý của lớp thanh niên hồi ấy: 
  12. 12 “Các cụ   ưa những màu đỏ  choét, ta lại  ưa những màu xanh nhạt... Các  cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya; ta nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ.  Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta   thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ  thì chỉ  là sự  hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say   đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi... cái tình trong giây  phút, cái tình ngàn thu...” [64, 13]. Chính vì sự  khác nhau sâu xa giữa hai thế  hệ   ấy đã khiến cho lối thơ  ngâm vịnh, thù tạc không còn phù hợp với xúc cảm của họ nữa. “Tình chúng ta   đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy” [64, 14]. 1.1.2. Tản Đà ­ thi sĩ giao thời Trong tiến trình thơ ca dân tộc đầu thế  kỷ  XX, Tản Đà thực sự  có một   vị  trí quan trọng trong bước chuyển từ  thơ  cũ sang Thơ  mới. Chính vì vậy,  không phải ngẫu nhiên trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã  “Cung chiêu hồn anh Tản Đà” để  chứng kiến cuộc hội họp của các nhà Thơ  mới, bởi Tản Đà sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời của hai thế kỷ ­ chứng   kiến sự bất lực của Nho giáo trước thời cuộc và sự  đảo lộn của nhiều giá trị  truyền thống, cùng lúc đó là sự xâm nhập của những nếp sống phương Tây và   những quan niệm hết sức mới mẻ. Xã hội đang trong thời kỳ “Á ­ Âu lẫn lộn”  khiến Tản Đà và một lớp người thuộc thế  hệ  của ông cũng không thể  sống   thuần nhất như trước nữa.  Tản Đà là nhà Nho, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng  nhưng ông không thuộc loại nhà nho chính thống, “ông là nhà nho tài tử  sống  trong môi trường xã hội tư  sản” (Trần Đình Hượu). Chỉ  riêng với điều này  Tản Đà đã mang đến một cái gì mới vào văn học. Với Tản Đà, văn chương là  một phương tiện để kiếm sống: “Nhờ trời năm xưa học ít nhiều Vốn liếng còn một bụng văn đó Giấy người, mực người, thuê người in
  13. 13 Mướn cửa hàng người bán phường phố” (Hầu trời) Từ quan niệm văn chương “còn non còn nước còn trăng gió. Còn có văn   chương bán phố  phường” mới lạ   ấy, Tản Đà đã thổi vào thơ  ca Việt Nam   những năm đầu thế kỷ XX một luồng sinh khí mới. Ông đã mang đến cho thơ  những cách tân độc đáo cả về nội dung lẫn hình thức. Về  mặt nội dung, nét đặc sắc nhất trong thơ  Tản Đà chính là sự  xuất  hiện và khẳng định của cái tôi cá nhân. Tản Đà là người ý thức rất rõ về  tài   năng văn chương của mình, thế nhưng sống trong thời thế đó, ông không chịu  luẩn quẩn trong vòng danh lợi, Tản Đà chỉ  biết có thơ  và sống hết mình cho  thơ: “Trời sinh ra bác Tản Đà Quê hương thời có, cửa nhà thời không Nửa đời Nam Bắc Tây Đông Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly Túi thơ đeo khắp ba kỳ Lạ chi rừng biển thiếu gì gió trăng” Có lẽ  đây là lần đầu tiên trong lịch sử  văn học Việt Nam, sự  tự  ý thức  về  tài năng và bản lĩnh cá nhân được bộc lộ  rõ ràng như  thế  ­ tự  ý thức đến  mức ngông nghênh, kiêu bạc.  Không những “thị tài” mà còn “đa tình”, thơ Tản Đà thực sự  đã mở  đầu  cho cuộc cách mạng giải phóng tình cảm cá nhân, tạo đà cho Thơ mới viết về  tình yêu sau này. Tản Đà tự nhận mình là “giống đa tình” nhưng lại không gặp   may mắn trong thực tế. Yêu nhiều nhưng thất tình cũng nhiều, Tản Đà không   gặp được giai nhân trong cuộc đời thực, ông đành tìm đến những người đẹp  của cõi mộng. Người đọc sẽ ngỡ là phi lý khi Tản Đà viết thư cho “người tình  không quen biết” rồi lại gửi thư  “trách người  tình nhân không quen biết”.   Nhưng sự phi lý lại chính là cái logic trong tâm hồn nhà thơ ­ tâm hồn của một  kẻ quá nhiều ẩn ức trong tình yêu và mong muốn được giải toả trong thơ.
  14. 14 Người ta nói Thơ  mới là thơ  của nỗi buồn, nỗi buồn giăng mắc khắp   nơi thì thơ  Tản Đà chính là sự  báo trước. Những thay đổi về  mặt nội dung   trong thơ ông tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về hình thức thể hiện. Tản Đà đã  làm một cuộc tổng duyệt tất cả  các thể  loại thơ  cũ từ  dân gian đến bác học   nhưng có sự vận dụng và sáng tạo một cách linh hoạt để phù hợp với nội dung  cảm xúc mới. Thành công của thơ Tản Đà chính là đã thoát khỏi sự ràng buộc chật hẹp   của thể  thơ  Đường luật, mang chất dân gian hoà vào chất bác học. Chính vì   thế những câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật không còn cái vẻ trang nghiêm,  cao đạo như trước nữa.  Tản Đà đã không thoả mãn với khuôn khổ chật hẹp của thể thơ Đường  luật, ông tìm về với nhiều thể thơ và hình thức diễn đạt của thơ ca dân tộc với   sự sáng tạo đầy cá tính, thể hiện một phong cách rất Tản Đà. Tản Đà đã “chế  tác” những câu ca dao của mình mà ông gọi là “phong thi” thành những câu thơ  lục bát êm ái, mượt mà và không còn vẻ mộc mạc của ca dao. Khi nói về  Tản Đà, nhà văn Lan Khai đã viết: “Trong cái di sản thơ  ca   mà Tản Đà truyền lại cho ta, tôi yêu thích nhất những câu lục bát kiểu phong  dao  ấy, thực là những câu có tính chất hoàn toàn Việt Nam, khi đọc lên nghe   cái nhạc điệu thuần tuý vô cùng, nó đi thẳng vào tâm hồn Việt Nam của chúng  ta làm ta cảm động biết chừng nào” (Tao Đàn số 9 và 10 ­ 1939). Chính những  câu lục bát đậm chất ca dao  ấy đã khiến Tản Đà trở  thành “một thi sĩ rất An   Nam, hoàn toàn An Nam” như cách nói của Xuân Diệu. Tản Đà không chỉ  sáng tác lục bát kiểu phong dao mà ông còn viết thơ  trữ tình lục bát, ông đã khéo léo kết hợp cái duyên dáng, tình tứ của ca dao với   những nhịp điệu của cảm xúc cá nhân. Nói đến sự  cách tân trên phương diện thể  loại của Tản Đà không thể  không kể đến sự xuất hiện của thể thơ tự do. Từ tập thơ “ Khối tình con I” đã  xuất hiện những bài thơ tự do không theo niêm luật, cho đến “ Khối tình con II” 
  15. 15 thì các bài thơ tuyệt tác như “Tống biệt”, “Cảm thu tiễn thu”, “Khóc Tây Thi”   không khác so với Thơ mới là bao nhiêu. Tản Đà với những bài thơ  tự  do đã đặt nền móng cho việc xây lên lâu  đài Thơ mới. Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh đã khẳng định: “Tiên sinh  gần chúng tôi lắm. Tiên sinh không mang lốt y phục, lốt tư tưởng của chúng  tôi. Nhưng có làm gì những cái lốt. Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi   khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái giả  dối, cái   khô khan của khuôn sáo” [64, 8]. Cái khát vọng cởi trói cho thơ  đã được nhen  lên từ Tản Đà để rồi thổi bùng lên trong Thơ mới. Không chỉ  “ươm mầm” cho Thơ  mới trên phương diện thể  loại, có lẽ  một phần quan trọng nữa trong những cách tân của thơ Tản Đà chính là sự đổi  mới giọng điệu. Thơ  Tản Đà là sự  đan kết và hoà hợp tự  nhiên nhiều giọng  điệu, giọng cảm hoài non nước, giọng trữ tình khoáng đạt và bâng khuâng rất   gần với Thơ mới. Ngay cả cái giọng vội vàng, cuống quýt “rất Tây” của Xuân   Diệu khi chạy đua với thời gian ta cũng bắt gặp trong thơ Tản Đà: “Mỗi năm một tuổi Như đuổi xuân đi Măng mọc có lứa Đôi ta có thì. Chơi đi thôi Chơi mau đi thôi!” (Chơi xuân kẻo hết xuân đi) Với   quan   niệm   văn   chương   mới   mẻ,   với   sự   cách   tân   độc   đáo   trên   phương diện biểu hiện nhưng Tản Đà vẫn chưa được xếp vào hàng Thơ mới.   Điều này hẳn có nguyên nhân cả về mặt chủ quan lẫn khách quan. Sự hạn chế  của lịch sử chính là tấm rào ngăn cản con người vượt thoát mặc dù trong lòng  họ luôn ấp ủ khát khao giải phóng. Và ngay trong chính bản thân nhà thơ cũng  luôn tồn tại hai đối cực. Mặc dù chưa thâm nhập văn chương cử tử nhưng hơn   ai hết Tản Đà là một nhà Nho nên văn chương Nho giáo đã ăn vào tiềm thức.  
  16. 16 Ngay cả  những bài thơ  được coi là mới nhất của ông vẫn còn thấp thoáng  bóng dáng của thơ  cũ, và cái mới vẫn chỉ  là “dị  biệt”. Nhưng điều đáng nói  chính là  ở  những cái “dị  biệt” như  thế ­ những cái mầm đang được ấp ủ  cho   mùa sau. Thơ  ca Việt Nam đến Tản Đà bắt đầu có sự  đổi dòng. Sự  đan xen   hoà trộn giữa hai dòng thơ  cũ và mới trong con người Tản Đà khiến ông trở  thành “người của hai thế kỷ”, “dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà   nhạc tân kỳ đương sắp sửa” [64, 8]. 1.1.3. Sự ra đời của phong trào Thơ mới Đầu năm 1932 với bài “Một lối Thơ mới trình chánh giữa làng thơ” của  Phan Khôi (đăng trên Phụ nữ tân văn số 122 ngày 10/3/1932), lối Thơ mới bắt  đầu định hình và ngày càng lan tỏa rộng rãi. Phan Khôi khẳng định lối thơ  cũ  “hết đất” phải tìm “nơi khác mà đóng đô” rồi kêu gọi “Duy tân đi! Cải lương   đi!”. Xuất hiện vào năm 1932 nhưng phải đến năm 1936 Thơ mới khẳng định  được ưu thế vượt trội của mình trên thi đàn văn học dân tộc. Nói như Lê Tràng  Kiều thì “Thơ  mới không còn lạ  lùng nữa, Thơ  mới đã thuần thục rồi! Thơ  mới đã vào khuôn phép rồi! Thơ  mới đã quen với chúng ta rồi, và có lẽ  quen  thân nữa! Thơ mới không còn cái gì bỡ ngỡ và rụt rè lúc ban đầu!... Từ bây giờ  lịch sử  chỉ  còn ghi lại những áng thơ  hay mà thôi, không còn chia ra mới, cũ  nữa”.  (Hà Nội báo,  số  11, ngày 08/4/1936). Cho đến khi Hoài Thanh, Hoài  Chân viết “Thi nhân Việt Nam” để tổng kết phong trào Thơ mới thì không ai có  thể nghi ngờ vào sự toàn thắng của Thơ mới. Thơ mới đã thắng thế  vì nó phù  hợp với sự phát triển tất yếu của trào lưu mới về tư tưởng cũng như văn học.   Về mặt văn học, yêu cầu đổi mới vừa là yêu cầu xuất phát từ hoàn cảnh khách  quan trước sự  giao lưu văn hóa với phương Tây vừa là yêu cầu xuất phát từ  bản thân văn học để  văn học Việt Nam có thể  hội nhập với văn học thế  giới  trong quá trình hiện đại hóa. Về mặt tư tưởng, cùng với sự hình thành và phát   triển của hệ  tư  tưởng tư  sản “cái tôi” của chủ  nghĩa tư  bản cá nhân đã tìm   thấy chỗ đứng trong văn học. Nói như  vậy không có nghĩa là cho đến lúc này  cái tôi ­ ý thức cá nhân mới xuất hiện, mà nó đã có mầm mống trong thơ  ca  Việt Nam ngay từ  thời Trung đại. Chúng ta chẳng đã từng ngỡ  ngàng trước  một cái Tôi ngạo nghễ, ngang tàng đến bất cần đời của Nguyễn Công Trứ:
  17. 17 “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng ... Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng...” (Bài ca ngất ngưởng) hay cách xưng danh của Bà Chúa thơ nôm: “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương đã quệt rồi” (Mời trầu) Nhưng đó cũng chỉ  là những cái Tôi riêng lẻ, nhỏ  bé trong xã hội, họ  chưa có đủ điều kiện để làm nên một cuộc cách mạng cho cái Tôi. Đến phong   trào Thơ mới, cái Tôi xuất hiện với đầy đủ  màu sắc, cá tính mạnh mẽ  đã tạo   nên một thời đại của chữ  Tôi. Cá nhân của mỗi con người được khẳng định  trước xã hội, ý thức về cái Tôi đầy đủ như một chủ thể. Như vậy có nghĩa là   quan niệm nghệ  thuật về  con người đã thay đổi, con người với những xúc  cảm cá nhân riêng tư  trở  thành đối tượng phản ánh của văn học nói chung và   thơ ca nói riêng. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân đòi hỏi thơ  phải đặt cái Tôi ở  vị  trí trung tâm, các nhà Thơ mới không ngần ngại trong việc khẳng định cái bản   ngã của mình: Họ  dùng cái Tôi để  xưng hô, để  đối thoại, giao tiếp với mọi   người cùng với niềm khao khát giao cảm với đời: “Tôi chỉ là một khách tình si Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể. Mượn cây bút nàng Ly Tao, tôi vẽ, Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca...” (Cây đàn muôn điệu ­ Thế Lữ) “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ Mà vạn vật là muôn đá nam châm” (Cảm xúc ­ Xuân Diệu)
  18. 18 Khi cái Tôi được khẳng định cũng tức là cá tính sáng tạo được bộc lộ rõ   ràng. Đúng như Hoài Thanh nhận định, thời đại Thơ mới là “thời đại cái Tôi”  trong thơ. Mỗi nhà thơ đều cố gắng khẳng định cái Tôi của mình trong những   phong cách độc đáo, không giống ai, điều đó được thể hiện rõ ràng trên bề mặt   câu chữ: Tôi là “khách bộ  hàng phiêu lãng”, tôi là “khách tình si”, tôi là “con  chim đến từ núi lạ”, tôi là “con nai bị chiều giăng lưới”, tôi chỉ là “một kiếp đi  hoang”... Hoài Thanh đã không ngần ngại khi quả  quyết rằng: “Trong lịch sử  thơ  ca Việt Nam chưa bao giờ  có một thời đại phong phú như  thời đại này.  Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như  Thế Lữ, mơ màng như  Lưu Trọng Lư, hùng tráng như  Huy Thông, trong sáng  như  Nguyễn Nhược Pháp,  ảo não như  Huy Cận, quê mùa như  Nguyễn Bính,  kỳ  dị  như  Chế  Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như  Xuân Diệu”   [64, 29]. Có thể nói rằng, thơ ca Việt Nam đã trải qua chặng đường dài hàng ngàn  năm nhưng đến Thơ mới sự phát triển của thơ ca nhanh như vũ bão, chỉ trong   hơn một thập kỷ đã xuất hiện hàng loạt các nhà thơ tiêu biểu với những sáng   tác vô cùng phong phú, các nhà Thơ  mới đã khẳng định được tài năng và bản   lĩnh của mình, đưa thơ  Việt Nam thoát khỏi cái sáo mòn, tù túng để  xác lập   một hệ  thống thi pháp riêng phù hợp với thời đại, góp phần hiện đại hoá thơ  Việt Nam, hoà nhập với thơ ca nhân loại. 1.2. Vài nét về sự cách tân của thi pháp Thơ mới Thơ mới ra đời đã tạo nên “một cuộc cách mạng trong thi ca”, trước hết   đó là một cuộc cách mạng về thi pháp. Thơ mới thay thế hệ thống thi pháp cũ  đã ngự trị bao nhiêu thế kỷ và mở ra triển vọng phát triển vô hạn cho thi ca về  sau. Với sự  khái lược một cách cơ  bản, trong phần này chúng tôi không có   tham vọng trình bày tất cả phương diện của thi pháp Thơ mới mà chỉ điểm qua  
  19. 19 một số nét quan trọng trong cách tân về mặt thi pháp của Thơ mới so với thơ ca   Trung đại. Sự cách tân của Thơ mới, trước tiên là mới về tư duy. Chính sự thay đổi   về cách cảm, nếp nghĩ đã chi phối sự thay đổi về hình thức biểu hiện. Các nhà  Thơ mới tiếp nhận ảnh hưởng từ thơ ca phương Tây (đặc biệt từ Pháp) cùng  với truyền thống Đường thi, Tống thi của Trung Quốc vốn đã bám sâu vào   tiềm thức, đã mang đến cho thơ ca Việt Nam một sự độc đáo, mới lạ về hình   thức biểu hiện. Thơ mới bằng những cách nói mới đã bộc lộ  chân thành, sâu   sắc  những  tình cảm   phong phú,  nhiều màu  vẻ   của tâm  hồn,  đã  khám phá  những rung động vô cùng tinh tế  của trái tim con người, đã đi vào tận cùng   những ngóc ngách, những nơi sâu kín nhất của tâm hồn. Để  “trải lòng mình  trên trang giấy trắng” mong muốn sự sẻ chia của những trái tim đồng cảm. Sự   cách   tân   của   thi   pháp   Thơ   mới   được   khẳng   định   trên   rất   nhiều  phương diện quan trọng như: Thể  loại, ngôn từ, giọng điệu, thời gian nghệ  thuật, không gian nghệ thuật,... Trước hết, về mặt thể loại, như Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”  đã đúc kết: “Phong trào Thơ  mới đã vứt đi nhiều khuôn phép xưa, song cũng  nhiều khuôn phép nhân đó sẽ  thêm bền vững” [64, 47]. Điều đó có nghĩa Thơ  mới không phải hoàn toàn là những thể  mới mà trên cơ  sở  các thể  thơ  truyền  thống, các nhà Thơ mới đã cải tạo cho phù hợp với nhu cầu cảm xúc của thời   đại mới, đồng thời sáng tạo ra một số  thể Thơ mới. Xét về  mặt phương diện  thể  loại, các nhà thơ  của phong trào Thơ  mới đã thực sự  tạo nên những bước   đột phá quan trọng. Chỉ  trong một khoảng thời gian ngắn, nhiều thể thơ được   định hình và phát triển ổn định. Thơ  mới thể nghiệm thành công trong câu thơ  tám âm tiết phát triển từ thể ca trù của dân tộc đã tạo nên một âm điệu, tiết tấu   độc đáo mới lạ: “Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ Chim trên cành há mỏ hót ra thơ;
  20. 20 Xuân là lúc gió về không định trước” (Xuân không mùa ­ Xuân Diệu) Với những vần thơ  đầy táo bạo, mới mẻ, không hề  có bóng dáng của   thơ  cũ, và với sự  không giới hạn về  số  câu, số  khổ  thơ, thể  thơ  tám chữ  rất  đắc dụng trong việc diễn tả tình cảm với nhiều cung bậc khác nhau: “Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo; Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da” (Lời kỹ nữ ­ Xuân Diệu) Lúc thì là lời than thở  của người kỹ nữ, khi thì là tiếng nói da diết của   trái tim rạo rực yêu đương: “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!” (Tương tư chiều ­ Xuân Diệu) Ở  thể  thơ  tám chữ  là thế, thể  bảy chữ  lại không còn âm điệu trang   nghiêm, cổ kính của thơ thất ngôn Đường luật. Thể thơ năm chữ cũng không bị  phụ thuộc vào sắc thái của thể ngũ ngôn Đường luật. Các nhà Thơ mới đã biến   tấu, cách điệu theo những phương thức của mình để mang đến những sáng tạo  độc đáo cho bản hoà tấu đa âm: Một Lưu Trọng Lư nhẹ nhàng, trong sáng với   những vần thơ thu: “Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? ... Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc, Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô?” (Tiếng thu ­ Lưu Trọng Lư) Hầu hết các nhà thơ  của phong trào Thơ  mới đều thử  nghiệm và có   được những thành công nhất định ở thể thơ bảy chữ. Phải chăng có được điều  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2