intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

311
lượt xem
136
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực từ lâu được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm, ngày nay vấn đề đó được xem là "quốc sách hàng đầu". Mục tiêu giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII là: Thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực từ lâu được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm, ngày nay vấn đề đó được xem là "quốc sách hàng đầu". Mục tiêu giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII là: Thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành cho học sinh, sinh viên. Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định ở các kỳ Đại hội sau đó. Tại Đại hội X Đảng ta tiếp tục chủ trương: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá “chất lượng nền giáo dục Việt Nam”". Nhìn một cách tổng quát, nhiệm vụ giáo dục hiện nay của nước ta là làm sao để đào tạo ra được những con người có đầy đủ cả hai mặt: đức và tài. Điều này đòi hỏi các cấp, các ngành hữu quan cần phải quan tâm chăm lo giáo dục về mọi mặt, trong đó giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay là công việc vô cùng cần thiết và cấp bách. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới ở nước ta hơn 20 năm qua đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn và toàn diện. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới tạo điều kiện cho các cá nhân phát huy khả năng và thế mạnh của mình, trong đó có lực lượng sinh viên là lớp người có trình độ, có tri thức, đầy nhiệt huyết, nhạy bén trong việc tiếp thu cái mới. Có thể nói rằng, sinh viên là lớp người chịu nhiều ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của đời sống xã hội, của cơ chế thị trường và việc mở rộng hợp tác quốc tế. Điều đó đặt ra vấn đề làm thế nào để những người “chủ tương lai của đất nước” định hướng đúng đắn những giá trị đạo đức để họ hoàn thành được vai trò, nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước những thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội, thang giá trị đạo đức của con người cũng có nhiều biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Bên cạnh việc đổi
  3. mới nội dung, phương pháp, chương trình của một số môn học, hình thức dạy và học cũng từng bước được cải tiến, hình thức đào tạo ngày một đa dạng và phong phú hơn, trong giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng còn có nhiều điều bất cập, đó là: tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm, đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ…Các hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, riêng trong lĩnh vực học đường, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống chưa được quan tâm một cách đúng mức như nó cần phải có. Một số sinh viên chạy theo lối sống thực dụng, chưa có ý thức trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống mới, nhiều giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn và xuống cấp. Không ít sinh viên thiếu tích cực trong học tập và rèn luyện, không chịu phấn đấu, thiếu niềm tin, lý tưởng sống. Trong "Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên trường học nhiệm kỳ 2002-2007" của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cho biết, trong 2 năm 2005-2006 đã phát hiện 89 trường hợp sinh viên tham gia thi thuê, thi hộ, đến hết năm 2006 cả nước có 998 học sinh sinh viên mắc tệ nạn ma túy. Hiện tượng làm "gái bao", mắc vào tệ nạn mại dâm, "sống thử", quan hệ tình dục trước hôn nhân... đã tạo hình ảnh không tích cực về sinh viên... Tất cả đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải nhận thức đúng đắn vai trò của giáo dục đạo đức và giá trị đạo đức mới cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Để xứng đáng là một “chủ nhân tương lai” của đất nước, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn (cái tài) còn cần phả i chú trọng đến việc trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống (cái đức). Điều đó chỉ có được khi gia đình, nhà trường và xã hội đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ tương lai của chúng ta nói chung và thanh niên, sinh viên cao đ ẳng ở Vĩnh Long nói riêng, đó là lý do tôi chọn “Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức từ lâu đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Arixtốt - nhà Triết học Hy Lạp cổ đại đã để lại cho chúng ta nhiều quyển sách, trong đó chứa đựng nhiều vấn đề về đạo đức. Rồi Epiquya, Xôcrát... đã có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực này.
  4. Trước đây ở Liên Xô, vấn đề đạo đức, nhân cách đã được các nhà nghiên cứu Xô viết hết sức quan tâm. A.F.Shishkin đã viết; "Nguyên lý đạo đức học mác xít". Chúng ta có thể coi đây là cuốn "giáo khoa" về đạo đức học. Ở đó, ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức, coi "những phẩm chất đạo đức chính là điều cốt yếu nhất ở con người, ở tính cách của nó". Kế tục và phát triển những quan điểm của A.F.Shishikin, G.Bandzeladze đã có công trình "Đạo đức học" (2 tập). Trong bộ sách này, G.Bandzeladze đã nghiên cứu và làm rõ những vấn đề của khoa học đạo đức, như: Đạo đức là gì; đạo đức phát sinh, phát triển ra sao, nội dung những phạm trù đạo đức học là gì v.v.. Năm 2003, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia có dịch cuốn "Tu dưỡng đạo đức tư tưởng", cuốn giáo trình chính thức, thống nhất dùng cho mọi đối tượng sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng ở Trung Quốc do GS. La Quốc Kiệt chủ biên. Trong cuốn giáo trình này, tập thể tác giả Trung Quốc làm rõ vai trò của đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên, những nội dung cơ bản, hiện đại trong việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới cho sinh viên Trung Quốc hiện nay. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích đối với công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên nước ta hiện nay. Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức được đặt ra rất sớm,... nhưng những gì liên quan đến đạo đức học thì muộn hơn rất nhiều. Năm 1974 GS Vũ Khiêu có chủ biên cuốn "Đạo đức mới". Trong tác phẩm này vấn đề đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức mới đã được làm sáng tỏ trên những nét cơ bản. Năm 1982, tác giả Tương Lai có xuất bản cuốn "Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới". Tuy còn những hạn chế nhất định, nhưng đây có thể coi là tài liệu tham khảo bổ ích về lĩnh vực đạo đức học. Những năm gần đây, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức trong sinh viên như: “Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học của Hoàng Anh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001; “Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” (Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994);
  5. “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay” Phạm Đình Nghiệp, Hà Nội, 2001); “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (Trần Sĩ Phán, Luận án tiến sĩ, 1999); “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam” (Nguyễn Đình Quế, Luận văn Thạc sĩ, 2000); “Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên đào tạo sĩ quan quân đội” (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thái Sinh, năm 2003); “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay” (Luận văn thạc sĩ của Doãn Thị Chín năm 2004) v.v. Và gần đây nhất, Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra chỉ thị số 2516/BGD&ĐT ngày 18/05/2007 về việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong ngành giáo dục. Có thể nói, vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên từ lâu đã được quan tâm và trong giai đoạn hiện nay, vấn đề lại càng phải được quan tâm nhiều hơn nữa. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Góp phần làm sáng tỏ thực trạng, vai trò của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên tỉnh Vĩnh Long để hình thành ở họ những phẩm chất đạo đức cần thiết. 3.2. Nhiệm vụ - Góp phần làm sáng tỏ vai trò, tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên Vĩnh Long nói riêng để hình thành ở họ những phẩm chất đạo đức cần thiết. - Từ thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng: Nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trong giai đoạn hiện nay.
  6. - Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên đang học tập tại các trường cao đẳng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên Việt Nam. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các công trình khoa học khác có liên quan đến đề tài nhằm làm sáng tỏ thực chất, vai trò, nội dung, ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Vĩnh Long). 5.2. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, phỏng vấn, điều tra xã hội học… 6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn - Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay. - Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp cơ bản để nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay. - Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu để giáo dục đạo đức cho sinh viên thông qua các buổi sinh hoạt chính trị, sinh hoạt đoàn, các hoạt động ngoại khoá và lồng ghép giáo dục cách mạng trong giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường cao đẳng đóng tại địa bàn tỉnh Vĩnh Long hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
  7. Chương 1 ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. ĐẠO ĐỨC - HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI ĐẶC THÙ 1.1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm và có vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Những tư tưởng đạo đức từ lâu đã xuất hiện trong Triết học Hy Lạp, Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại. Ở Hy Lạp cổ đại, trong triết học của Đêmôcrít (460-370 TCN) đã đưa ra những tư tưởng về đạo đức và đạo đức học. Đồng thời, ông đã nêu ra những tiêu chuẩn để phân biệt người tốt, kẻ xấu. Theo ông: “Người tốt là người không những không làm mà còn không muốn làm những điều phi nghĩa”. Về “Đạo đức học”, ông đã có những đóng góp nhất định trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của “đạo đức học”, đó là cuộc sống, là hành vi, là số phận của mỗi con người cụ thể. Ông còn nêu lên một số phương pháp giáo dục đạo đức như: Đối với người thì vâng lời tốt hơn là cai quản, ra lệnh… Ở Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại, những tư tưởng đạo đức cũng đã xuất hiện sớm và được thể hiện trong các học thuyết triết học Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo... Vào cuối thế kỷ thứ II T.C.N (ở phương Đông) và khoảng thế kỷ thứ III S.C.N (ở phương Tây) đã diễn ra sự biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội, đánh dấu sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và xuất hiện chế độ phong kiến. Ở phương Tây, nhà thờ giữ vai trò quan trọng. Tư tưởng đạo đức thường xuất phát từ những tín điều tôn giáo (Thiên chúa giáo, Hồi giáo) và có tác dụng nhất định trong việc điều chỉnh hành vi con người. Còn ở phương Đông tư tưởng đạo đức thường xuất phát từ quan hệ giữa người và người qua lăng kính của học thuyết Khổng Tử - Nho giáo. Đường lối "Đức trị" của Khổng Tử có vai trò to lớn trong việc bảo vệ tôn ti, trật tự đẳng cấp xã hội phong kiến phương Đông, giữ cho đất nước thái bình, thịnh trị theo quan điểm phong kiến. Từ "tổ kén" tầng lớp thị dân thời phong kiến, một giai cấp mới hình thành, đó là giai cấp tư sản. Khi mới ra đời, giai cấp tư sản từng đóng vai trò cách mạng, tiến bộ. Nó đập
  8. tan xiềng xích của chế độ nông nô, xoá bỏ tình trạng cát cứ phong kiến, tạo điều kiện mở rộng thị trường... Nhưng khi giai cấp tư sản đã củng cố được địa vị của mình thì "giai cấp tư sản đã tước hết hào quang thần thánh của tất cả các hoạt động xưa nay vẫn được trọng vọng và tôn sùng. Y sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê ăn lương của nó". Nguyên tắc đạo đức lúc này là chủ nghĩa cá nhân tư sản. Cơ sở kinh tế của nguyên tắc đạo đức đó là quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được nhà nước tư sản bảo vệ. Sự ra đời và phát triển của đạo đức học mác-xít thực sự đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức học mác-xít phủ nhận tất cả những quan điểm cho rằng đạo đức đứng trên và đứng ngoài lịch sử xã hội loài người. Đạo đức chỉ có thể bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống của chính con người và phục vụ trở lại cuộc sống đó. Đi tìm lời giải về nguồn gốc, bản chất của đạo đức từ chính đời sống lao động của con người là cách tiếp cận khoa học nhất của đạo đức học mác-xít mà các quan điểm trước đây không có được. Ph.Ănghen cho rằng: “Chung qui lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội lúc bấy giờ” [42, tr.137]. Ngay từ trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, ý thức đạo đức của những người mông muội trong các khu rừng và các hang động đã đặt ra yêu cầu là con người phải thiết lập được mối quan hệ với nhau, phải hợp tác với nhau trong công việc săn bắt, hái lượm….hàng ngày. Từ đó đã làm nảy sinh khát vọng tự nguyện, tự giác, bình đẳng, công bằng trong xã hội và đây chính là những biểu hiện đầu tiên của giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức trong hình thức phát triển của nó. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển, đời sống xã hội ngày càng phức tạp, các mối quan hệ giữa người với người trong xã hội cũng đã trở nên đa dạng, phong phú hơn và những chuẩn mực đạo đức mới cũng được nảy sinh. Tuy vậy, đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ cũng chỉ mới ở trạng thái hết sức sơ khai, nó chưa được phân xuất thành một hình thái ý thức xã hội riêng biệt. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và tình trạng thấp kém của lực lượng sản xuất trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã quy định đặc điểm của con người bấy giờ là: “thẳng thắn, trung thực, kiên cường, dũng cảm, theo đúng
  9. nghĩa giữa người với người và đối với toàn bộ thị tộc”[68, tr.11]. Tình trạng trên của đời sống kinh tế cũng qui định đặc điểm đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là trực quan cảm tính, kinh nghiệm, các quan hệ đạo đức bấy giờ nhấn mạnh tính hợp tác, tính công bằng, tính tương trợ giữa người với người trong xã hội. Do sự vận động nội tại của phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mà trước hết là việc chế tạo ra những công cụ lao động bằng đồng rồi bằng sắt, trồng trọt và chăn nuôi phát triển mạnh mẽ và tách khỏi nhau… đã làm cho xã hội nguyên thuỷ tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, những chuẩn đạo đức trong xã hội nguyên thuỷ cũng bị thay thế bằng những chuẩn mực đạo đức của chế độ chiếm hữu nô lệ. Nền kinh tế dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã tạo nên những lợi thế khác nhau và đối lập nhau giữa các cá nhân, các nhóm xã hội và các giai cấp. Nó đã tạo ra sự đối lập giữa đạo đức của giai cấp áp bức, thống trị với đạo đức của đa số nhân dân lao động. Đó là sự đối lập giữa đạo đức chủ nô và đạo đức nô lệ, đây là một mâu thuẫn. Trong khi lực lượng sản xuất phát triển, đời sống được nâng cao hơn nhưng về mặt đạo đức lại "thụt lùi tương đối" (Ph.Ăngghen). Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội về lĩnh vực đạo đức. Sự ra đời và phát triển của đời sống đạo đức xã hội là do nhu cầu cuộc sống của con người, của xã hội đặt ra. Ở một mức độ khái quát nhất ta có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội. Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư luận xã hội. Với tư cách là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm để điều chỉnh hành vi con người, nhân loại bao giờ cũng cần đến đạo đức. Từ cổ đại đến hiện đại, từ phương Đông đến phương Tây, không lúc nào vắng bóng hay thiếu sự hiện diện của đạo đức. Khoa học - kỹ thuật càng phát triển, xã hội càng tiến bộ... nhân loại càng cần đến đạo đức. Sở dĩ như vậy là vì: Thứ nhất, đạo đức là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con người, một sự điều chỉnh hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi trong một phạm
  10. vi rộng lớn không giới hạn, sự điều chỉnh ấy đi từ tối thiểu đến tối đa trong mọi hành vi con người. Nhân loại sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi như: pháp luật, chính trị, tôn giáo... nhưng không có phương thức nào điều chỉnh hành vi một cách rộng lớn như đạo đức. Con người còn tồn tại thì quan hệ xã hội của nó vẫn còn, để cho mọi hoạt động, hành vi của cá nhân phù hợp với yêu cầu tiến bộ xã hội, nhất thiết phải cần đến sự điều chỉnh của đạo đức. Thứ hai, đạo đức sẽ góp phần thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Đạo đức - với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - nó tác động đến tồn tại xã hội, đến đời sống kinh tế. Nó góp phần thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Nếu như sự tác động ấy là cùng chiều với tồn tại xã hội, thì lúc đó nó sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội nói chung, phương thức sản xuất nói riêng phát triển. Lúc này tính tích cực của nhân cách, của người lao động được phát huy; quan hệ giữa người với người sẽ trở nên thân ái và thân thiện hơn, xã hội sẽ phát triển hài hoà hơn. Nếu như sự tác động ấy là ngược chiều với sự phát triển và tiến bộ xã hội thì lúc đó nó sẽ kìm hãm sự phát triển xã hội. Ngoài ra, sự tác động này có thể có hai tác dụng song trùng, vừa thúc đẩy sự phát triển xã hội ở góc độ, khía cạnh này, vừa kìm hãm ở góc độ, khía cạnh khác. Dưới chủ nghĩa xã hội, không có một nền kinh tế tự thân, kinh tế vì kinh tế một cách đơn thuần. Sự phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ đạo đức, với công bằng xã hội, với bảo vệ môi trường sinh thái, nghĩa là một sự phát triển bền vững. Muốn vậy phải có sự tham gia của đạo đức. Nạn sản xuất, tiêu thụ hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng... không còn là vấn đề kinh tế đơn thuần, đó là vấn đề đạo đức, cần phải có sự tham gia của đạo đức chứ không chỉ có pháp luật một cách đơn thuần. Việc một số đơn vị, công ty kinh doanh, sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng không chỉ xem xét dưới góc độ kinh tế, pháp luật không thôi mà phải xem xét từ góc độ đạo đức: đạo đức trong kinh doanh. Dưới góc độ đạo đức, lợi nhuận phi pháp sẽ đem lại thu nhập cao cho người này, họ thoả mãn nhu cầu kinh tế (có hạnh phúc) nhưng lại đem đến tổn hại kinh tế cho người kia, đem lại bất hạnh cho người tiêu dùng. Nhất là các mặt hàng nhạy cảm như thực phẩm, thuốc chữa bệnh. Báo Lao động, ngày 23 tháng 9 năm 2008 đưa tin, trong một hội
  11. nghị chuyên ngành y tế, cơ quan chức năng đã phát hiện và công bố 406 loại thuốc tây bị làm giả, làm nhái. Báo An ninh thế giới ngày 10 tháng 9 năm 2008 đưa tin 3 cơ sở sản xuất kẹo ở Minh Khai (Hoài Đức, Hà Nội) đã cho chất phụ gia là bột đá tự nhiên được nhập về từ Hoà Bình, Thanh Hoá, Hà Tây để trộn vào kẹo với tỷ lệ từ 30-50% thành phần kẹo. Thứ ba, đạo đức sẽ góp phần nhân đạo hoá con người và xã hội loài người. Trong một xã hội, con người biết sống vì nhau, vì người khác, sống thân ái, biết yêu thương và nhường nhịn lẫn nhau... đó sẽ là xã hội tốt đẹp. Cho dù là duy tâm, nhưng Hêghen đã có lý khi nói rằng, hành vi đạo đức là hành vi vì người khác, trong sự đánh mất cái tôi vì người khác, thì chính bản thân mình đã tìm thấy mình trong sự đánh mất đó rồi. Còn Cantơ - một nhà triết học duy tâm Đức cũng có những cách lý giải khá thuyết phục trong lĩnh vực đạo đức. Ông nói rằng, làm một việc thiện, việc tốt nhưng nếu để lấy tiếng, trở thành người nổi tiếng để được mọi người mến mộ, hay vì "tha nhân" đáng thương... thì hành vi đó chứa đựng giá trị đạo đức thấp. Nhưng làm việc thiện mà từ tâm, từ tấm lòng mình thì đó mới là hành vi chứa đựng giá trị đạo đức cao. Nghĩa là việc thiện nhưng phải hoàn toàn tự giác, tự nguyện vì người khác chứ không phải vì mình. Nghĩa là động cơ của hành vi phải cao thượng, đúng đắn mang tính nhân văn cao cả. Điểm lại lịch sử, chúng ta thấy rằng, ở đâu và bao giờ xã hội thực hiện tốt những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thì ở đó và lúc đó xã hội ổn định và phát triển. Chính Khổng Tử đã nói rằng, nếu đem đạo đức để trị dân thì giống như sao bắc đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về đó cả. Hiện nay Chính phủ Trung Quốc cũng chủ trương quản lý xã hội cả bằng pháp luật và đạo đức, coi trọng đạo đức, coi trọng hành vi tự nguyện, tự giác, mang tính nhân văn cao cả của con người. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn coi trọng đạo đức và cho rằng đạo đức sẽ giúp cho con người và xã hội sống tốt hơn, đẹp hơn, nhân ái hơn. Trong ý nghĩa đích thực của nó, con người có đạo đức là con người biết sống vì người khác, biết sống vì xã hội, biết hy sinh hạnh phúc cá nhân để đem lại lợi ích cho mọi người và cho xã hội. Sự quan tâm tới người khác, quan tâm đối với xã hội, với cộng
  12. đồng một cách tự nguyện, tự giác biểu hiện tính xã hội trong bản chất con người, tính người. Chỉ có con người mới có thể hy sinh hạnh phúc riêng của mình vì hạnh phúc của người khác, vì hạnh phúc của cộng đồng, của xã hội. Theo C. Mác: "bản chất và cơ sở của tính người là ở chỗ con người đối xử với người khác như đối xử với bản thân mình. Đây là quá trình các cá nhân tạo ra nhau cả về mặt thể chất lẫn về mặt tinh thần” [40, tr.53]. Để phân biệt con người với con vật như C. Mác và Ph. Ănghen đã từng đề cập là có nhiều tiêu chí khác nhau. Một trong những tiêu chí ấy là đạo đức. Chỉ có con người mới có đạo đức. Vì vậy, văn hoá đạo đức trở thành thước đo hàng đầu về văn hoá làm người trong mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về đạo đức, Người đưa ra những chỉ dẫn quan trọng mang ý nghĩa khái quát cao về giá trị đạo đức của con người, cho đó là giá trị cơ bản để làm người. Hồ Chí Minh viết: "con người cần phải có bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm, chính đủ cả bốn đức ấy là người, thiếu một đức tính thì không thành người được”. Người nói: “tuy năng lực và công việc của mỗi người có khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng” [52, tr.568]. Con người sống trong mỗi xã hội vừa tiếp thu những giá trị của xã hội, biến nó thành những phẩm chất của cá nhân, vừa in dấu ấn của cá nhân mình lên xã hội thông qua những phẩm chất năng lực và đạo đức. Năng lực và đạo đức là những yếu tố cơ bản để tạo nên uy tín của mình đối với những người xung quanh. Con người càng mở rộng phạm vi hoạt động ra bao nhiêu, càng đòi hỏi việc nâng cao đạo đức bấy nhiêu. Người cán bộ cách mạng là những người tình nguyện hy sinh hạnh phúc riêng của mình để phấn đấu vì một sự nghiệp lớn lao của nhân loại là giải phóng con người, loài người khỏi áp bức bóc lột. Bản thân sự tình nguyện hy sinh đó đã là một hành vi đạo đức, nhưng chỉ thế thôi thì chưa đủ. Muốn thực hiện được sự nghiệp vẻ vang của mình, người cán bộ cách mạng phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng vững chắc mới chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người. Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù luôn rình rập, ẩn náu trong mỗi người cách mạng. Chừng nào mà người cách mạng để cho chủ nghĩa cá nhân lấn lướt và chiến thắng thì chừng đó đạo đức của người cách mạng sẽ trở thành đạo đức giả, giả danh cách mạng để chăm lo thu vén
  13. lợi ích cá nhân. Có đạo đức cách mạng mới có được uy tín để thu hút, tập hợp, lãnh đạo quần chúng thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng. Hồ Chí Minh là một nhà đạo đức mẫu mực, một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Người luôn coi đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng. Người nhấn mạnh: "cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [48, tr.27]. Đạo đức cách mạng là cơ sở, là nền tảng của nhân cách, là điều kiện cơ bản để người cán bộ cách mạng thực hiện mục tiêu lý tưởng của mình. Có đạo đức cách mạng, người cán bộ cách mạng mới kiên định vững vàng trong mọi hoàn cảnh, lúc gian khổ khó khăn, thất bại cũng không sờn lòng, khi thắng lợi thành công không tự mãn kiêu căng. “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [50, tr.31]. Nhấn mạnh đạo đức của người cách mạng không có nghĩa là chúng ta xem nhẹ tài năng. Phẩm chất và năng lực, đạo đức và tài năng phải luôn thống nhất trong nhân cách của người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt điều này một cách hết sức giản dị và vô cùng sâu sắc trong luận điểm sau đây: “có tài phải có đức, có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nhà nước, có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích được ai” [50, tr.58]. 1.1.2. Quy luật hình thành và phát triển của đạo đức Là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm nhất trong lịch sử t ư tưởng loài người, ý thức đạo đức, trong quá trình phát triển tuân thủ chịu sự tác động của những quy luật chung, đồng thời nó còn chịu sự tác động của những quy luật nội tại của đạo đức. Các quy luật tác động đến sự hình thành và phát triển của đạo đức bao gồm: Quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; quy luật kế thừa trong sự phát triển của đạo đức; quy luật về sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội với ý thức đạo đức; quy luật đấu tranh của hai nền đạo đức trong xã hội có giai cấp. Quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức đạo đức. Quy luật này khẳng định tính nhất nguyên luận duy vật lịch sử về đạo đức.
  14. Nói về vai trò quyết định của quá trình sản xuất đối với đời sống xã hội, C.Mác viết rằng: Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Luận điểm nổi tiếng này của C.Mác là chìa khoá để khám phá tất cả các hiện tượng xã hội, trong đó có đạo đức. Phù hợp với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất của tồn tại xã hội, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, ý thức của con người lúc này “là một ý thức bầy đàn đơn thuần”. Một giai đoạn phát triển của ý thức mà ở đó, người ta chưa phân biệt được một cách rành mạch quyền lợi với nghĩa vụ, chưa có quan niệm về tư hữu, chưa có ý thức về bóc lột, hay đàn áp lẫn nhau như sau này. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động ngày một cao, sản phẩm xã hội từng bước có dư thừa... sự dư thừa ấy đã làm xuất hiện tư tưởng muốn chiếm hữu, sở hữu nó. Tư tưởng tư hữu xuất hiện, xã hội bắt đầu phân chia thành giai cấp, ý thức xã hội mang tính giai cấp. Ý thức về bình đẳng, tương trợ, hợp tác được thay bằng tư tưởng áp bức, bóc lột v.v.. Tất cả đó đã chứng minh rằng: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” và “Con người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi” [42, tr.136-137]. - Quy luật kế thừa trong sự phát triển của đạo đức: Kế thừa là một trong những tính quy luật của sự phát triển nói chung, của đạo đức nói riêng. Lịch sử tư tưởng nhân loại chứng tỏ rằng, một hình thái ý thức xã hội nào đó, một học thuyết chính trị xã hội nào đó... thường không phải nẩy sinh từ mảnh đất trống không, hoang dã, mà thường là kế thừa những thành tựu (lý luận, tư tưởng) mà xã hội trước kia để lại. Đạo đức - với tư cách là một hình thái ý thức xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Kế thừa trong lĩnh vực đạo đức khác với kế thừa trong lĩnh vực tự nhiên. Sự kế thừa của đạo đức luôn biểu hiện thông qua quan hệ đạo đức, qua hành vi của con người, qua chủ
  15. thể kế thừa. Trái lại, kế thừa trong lĩnh vực tự nhiên lại diễn ra một cách tự động “mù quáng”. Đề cập đến sự khác biệt này Ăngghen viết: Trong tự nhiên (chừng nào chúng ta không xét đến ảnh hưởng ngược trở lại của con người đối với tự nhiên) chỉ có những nhân tố vô ý thức và mù quáng tác động lẫn nhau và chính trong sự tác động lẫn nhau ấy mà qui luật chung biểu hiện ra….trái lại, trong lịch sử của xã hội, nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn [43, tr.435]. Một trong những đặc điểm đáng chú ý là kế thừa trong lĩnh vực đạo đức phụ thuộc một phần lớn vào chủ thể kế thừa. Kế thừa cái gì, lọc bỏ cái gì, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào lợi ích của chủ thể kế thừa đạo đức, trước hết là lợi ích kinh tế. Đúng như các nhà duy vật Pháp nói: "Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho đạo đức riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người” [39, tr.199-200]. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, kế thừa trong sự phát triển đạo đức không thể tồn tại một cách biệt lập, tách rời các hình thái ý thức xã hội khác, giữa chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau, thậm chí thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau trên cơ sở tính quyết định của kinh tế, của tồn tại xã hội. Mỗi một dân tộc có lịch sử hình thành riêng, có điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị riêng, đặc biệt có tâm lý, nền văn hoá riêng….ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống đạo đức cũng như sự kế thừa các giá trị đạo đức của dân tộc. Có thể nói rằng, giao lưu nói chung, giao lưu văn hoá đạo đức nói riêng là vấn đề không thể thiếu được của quá trình kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của các dân tộc, qua đó góp phần bồi đắp, làm phong phú thêm những giá trị đạo đức phổ quát của nhân loại cũng như giá trị đạo đức truyền thống của các quốc gia. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và toàn cầu hoá trở thành xu thế tất yếu của thời đại thì “Sự biệt lập ban đầu giữa các dân tộc riêng biệt càng bị phá huỷ bởi những phương thức
  16. sản xuất đã được cải tiến, bởi sự giao tiếp và bởi sự phân công lao động do đó mà hình thành ra một cách tự nhiên giữa các dân tộc khác nhau thì lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới” [40, tr.66]. Trong bối cảnh quốc tế đó, sự giao lưu giữa các nền văn hoá là điều không thể tránh khỏi. Thông qua hợp tác, giao lưu mà các quốc gia-dân tộc có thể kế thừa, chọn lọc các giá trị đạo đức phù hợp để bổ sung và làm phong phú thêm hệ giá trị đạo đức của mình. Với chủ trương: "Phát triển văn hoá dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới" nền văn hoá nước ta đã không ngừng được bổ sung và ngày càng trở nên phong phú. Tư tưởng đó tiếp tục được khẳng định tại đại hội IX của Đảng: "Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc….tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá của nhân loại” [13, tr.114-115]. Tại Đại hội lần thứ X một lần nữa Đảng ta tiếp tục chủ trương: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hoá lãnh đạo và quản lý, văn hoá trong kinh doanh và văn hoá trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên; chống những hiện t ượng phi văn hoá, phản văn hoá [14, tr.213]. - Qui luật tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội với ý thức đạo đức: Phân tích quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội với tồn tại xã hội, Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, ….đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế” [44, tr.271]. Luận điểm này của Ph. Ăngghen cho chúng ta thấy không chỉ tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội mà giữa các hình thái ý thức xã hội cũng có sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động trở lại tồn tại xã hội. Chính sự tác động qua lại này làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thích
  17. được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất mà phải bằng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Đây là sự thể hiện tính năng đặc thù của ý thức xã hội như một nhân tố sáng tạo tích cực của con người tạo ra đời sống xã hội của chính mình. Trong sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội với hình thái ý thức đạo đức thì hệ tư tưởng chính trị, ý thức pháp quyền và triết học giữ một vai trò hết sức to lớn, ảnh hưởng trực tiếp và chi phối đời sống đạo đức xã hội, trong đó, triết học luôn luôn giữ vai trò thế giới quan cho mọi học thuyết đạo đức. Lịch sử nhân loại chỉ cho chúng ta thấy rằng, bất cứ một hệ thống đạo đức học nào cũng nhận một hệ thống triết học xác định làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cho mình. Đến lượt nó, ý thức đạo đức tiếp tục củng cố và hiện thực hoá một phần hình thái ý thức triết học. Với ý nghĩa đó, người ta nói đạo đức học là triết học của đời sống thực tiễn. - Qui luật đấu tranh của hai nền đạo đức trong xã hội có giai cấp: Khác với xã hội cộng sản nguyên thủy, từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, đã có nhiều hệ thống đạo đức cùng tồn tại, phản ánh và bảo vệ lợi ích của các giai cấp khác nhau. Trong đó, đạo đức cuả giai cấp thống trị và đạo đức của giai cấp bị thống trị là hai hệ thống đạo đức lớn nhất. Đạo đức của giai cấp thống trị phản ánh và khẳng định lợi ích của giai cấp thống trị. Sự khẳng định ấy dựa trên cơ sở quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Bởi lẽ, “những tư tưởng thống trị không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới hình thức tư tưởng” mà thôi [40, tr.66-67]. Trong quá trình thực hiện các chức năng điều chỉnh, chức năng phản ánh và chức năng giáo dục của mình, đạo đức của giai cấp thống trị cố gắng tạo nên những chủ thể đạo đức mang trong nó ý thức và thực tiễn đạo đức của giai cấp thống trị. Phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Xét cho đến cùng: Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị….giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những
  18. tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần [40, tr.66-67]. Chính vì vậy, sự tác động của đạo đức của giai cấp thống trị đối với xã hội mang tính chất rộng rãi và sâu sắc, nó được củng cố thành phong tục, thói quen, thành tâm lý xã hội. Trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp thực sự cách mạng, do đó, chỉ có đạo đức của giai cấp công nhân là đạo đức cách mạng và tiến bộ. Đạo đức ấy góp phần phá huỷ xã hội cũ của giai cấp bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Một xã hội không còn người bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất rất phát triển, con người được phát triển toàn diện, mà trong đó, “tự do của mỗi người là tiền đề cho sự tự do của tất cả mọi người”… Đạo đức ấy phục vụ cho sự nghiệp giải phóng con người "Người là bản chất tối cao của con người” phải lật đổ tất cả các quan hệ xã hội trong đó con người bị làm ô nhục, bị nô dịch, bị bỏ rơi, bị khinh bỉ” [40, tr.631]. Đạo đức này là sản phẩm của nền sản xuất xã hội mới mang tính nhân văn sâu sắc, nó là nguồn sức mạnh thúc đẩy sự phát triển của tiến bộ xã hội. Vì vậy, đây là nền đạo đức có giá trị phổ biến và thực sự có tính nhân đạo, nền đạo đức của giai cấp công nhân, đạo đức cộng sản chủ nghĩa [36, tr.369] mà cội nguồn của nó là lao động tự giác, sáng tạo với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao vì sự phát triển bền vững, còn cơ sở của đạo đức mới - đạo đức cách mạng là chủ nghĩa tập thể. Đạo đức mới đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đạo đức mới còn là sự kế thừa và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất được nhân loại sáng tạo ra trong suốt hàng ngàn năm đấu tranh chống áp bức, bất công xã hội cũng như những thói hư, tật xấu, phản đạo đức. Đạo đức cộng sản là một nền đạo đức của tương lai, một nền đạo đức mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Tư tưởng nhân đạo cốt lõi trong đạo đức cộng sản là: tất cả vì con người, tôn trọng con người, thương yêu con người, giải phóng con người, tạo mọi điều kiện để con người được phát triển tự do và toàn diện trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng và tự nhiên. Bản chất của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản được
  19. C. Mác thể hiện trong luận điểm nổi tiếng: chủ nghĩa cộng sản coi như chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa nhân đạo, coi như chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, = chủ nghĩa tự nhiên. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta, nhân dân ta đã và đang thu được những thành tựu to lớn "có ý nghĩa lịch sử". Vị thế của dân tộc ta, đất nước ta trên trường quốc tế không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, về lĩnh vực đạo đức, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và của nhân loại đang trở thành nguồn sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, vẫn còn không ít những vấn đề thuộc về lĩnh vực đạo đức cần phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa lối sống lành mạnh, trung thực, nhân ái, vị tha, thấm đượm tình người sâu sắc, với lối sống thực dụng, ích kỷ, chạy theo đồng tiền bất chính, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm của người khác miễn sao mang lại được lợi ích cho mình. Một trong những bức xúc của xã hội ta hiện nay - như Hội nghị Trung ương năm khoá X (ngày 5-7-2007) đã nêu: "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước" [15, tr.34]. Đứng trước sự suy thoái đạo đức, sự phát triển lệch chuẩn nhân cách so với yêu cầu xã hội trong một bộ phận nhân dân đòi hỏi Đảng ta "phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân" [13, tr.53], tạo sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, động viên mọi nguồn lực tiến hành thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước. 1.2. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.2.1. Về giáo dục và giáo dục đạo đức Giáo dục là một trong những hình thức hoạt động từ lâu đã được loài người quan tâm. Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, Platon (được coi là người đầu tiên) đã xây dựng một nền giáo dục có hệ thống dưới sự chỉ đạo của một tư tưởng triết học duy tâm. "Viện Hàn lâm" mà ông thành lập ở Aten (388-380) được coi là trường đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, cơ sở giáo dục này đã có ảnh hưởng to lớn đến nền giáo dục phương Tây
  20. trong suốt mấy chục thế kỷ qua và có lẽ nó còn tiếp tục ảnh hưởng tới nền giáo dục loài người trong nhiều thập niên tới. Ở phương Đông, từ rất sớm, Khổng Tử đã có những đóng góp quan trọng đối với hoạt động giáo dục. Nếu như hoài bão lớn nhất của ông là làm chính trị, thì thành công lớn nhất của ông là hoạt động giáo dục. Nếu gạt bỏ những hạn chế thì tư tưởng có tính chất xuyên suốt trong giáo dục của ông "Học không biết chán, dạy không biết mỏi" đến nay vẫn giữ nguyên giá trị trong một "xã hội học tập" hay "học tập suốt đời" hiện nay. Ở Việt Nam, từ rất sớm, cha ông ta đã lập giảng võ đường, lập Văn Miếu (1070), Quốc Tử Giám (1076)... để phát triển nền giáo dục Việt Nam. Từ đó đến nay, giáo dục Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng. - Giáo dục - hiểu theo nghĩa rộng của từ này - là quá trình trao đổi và chuyển giao tri thức, là sự đạt được những giá trị và các mô hình hành vi theo một mục đích, yêu cầu định sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình hình thành nhân cách con người dưới ảnh hưởng của hoạt động có mục đích của nhà giáo dục trong hệ thống các cơ quan giáo dục và dạy học. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: giáo dục, đó là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Dưới góc độ triết học, có thể hiểu rằng, giáo dục là một quá trình hai mặt, một mặt, đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục (sự tác động của tri thức, văn hóa nhân loại thông qua nhà sư phạm đến đời sống của học sinh, sinh viên); mặt khác, thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục [60, tr.38]. Về bản chất, giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội [80, tr.137]. Kế thừa truyền thống giáo dục mà cha ông ta để lại, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến giáo dục, đến việc "trồng người". Tại buổi nói
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2