Chương 3<br />
LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ MÒN<br />
1. KHÁI NIỆM CHUNG<br />
1.1. Khái niệm<br />
Mòn là hiện tượng phá huỷ bề mặt hay quá trình tách vật liệu từ một<br />
hoặc cả hai bề mặt trong chuyển động trượt, lăn hoặc va chạm tương đối<br />
với nhau.<br />
Nói chung, mòn xảy ra do sự tương tác của các nhấp nhô bề mặt.<br />
Trong quá trình chuyển động tương đối, đầu tiên vật liệu trên bề mặt<br />
tiếp xúc bị biến dạng do ứng suất ở đỉnh các nhấp nhô vượt quá giới hạn<br />
chảy, nhưng chỉ một phần rất nhỏ hoặc không một chút vật liệu nào bị<br />
tách ra. Sau đó vật liệu bị tách ra từ một bề mặt dính sang bề mặt đối tiếp<br />
hoặc hoặc tách ra thành những hạt mòn rời. Trong trường hợp vật liệu chỉ<br />
dính từ bề mặt này sang bề mặt khác, thể tích hay khối lượng mòn ở vùng<br />
tiếp xúc chung bằng không mặc dù một bề mặt vẫn bị mòn. Định nghĩa<br />
mòn nói chung dựa trên sự mất mát của vật liệu, tuy nhiên sự phá huỷ<br />
của vật liệu do biến dạng mà không kèm theo sự thay đổi về khối lượng<br />
hoặc thể tích của vật thể cũng được coi là mòn.<br />
Giống như ma sát, mòn không phải là tính chất của một vật liệu mà<br />
là sự phản ứng của một hệ thống. Các điều kiện vận hành sẽ ảnh hưởng<br />
trực tiếp tới mòn ở bề mặt tiếp xúc chung. Mòn có quan hệ với ma sát tuy<br />
nhiên không phải cứ ma sát lớn là gây ra mòn với tốc độ cao. Ví dụ các<br />
cặp bề mặt tiếp xúc sử dụng chất bôi trơn rắn và chất dẻo cho ma sát<br />
tương đối thấp nhưng mòn lại tương đối cao, trái lại ceramics cho ma sát<br />
trung bình nhưng mòn lại rất thấp. Thường hệ số ma sát trượt của đa số<br />
cặp vật liệu thay đổi trong phạm vi từ 0,1 đến 1, nhưng tốc độ mòn có thể<br />
thay đổi trong phạm vi rất lớn. Điều này được giải thích là do mòn liên<br />
quan đến nhiều hiện tượng đa dạng kết hợp với nhau theo cơ chế không<br />
thể dự đoán trước được và thay đổi trong phạm vi rất rộng.<br />
Mòn có thể có hại hoặc có ích. Mòn của đầu bút chì, khi mài, đánh<br />
bóng, và nạo là các ví dụ về mòn có lợi. Mòn là điều không mong muốn<br />
91<br />
<br />
trong các bộ phận và chi tiết như ổ, phớt, bánh răng và cam. Chi tiết có<br />
thể phải thay thế khi bị mòn một lượng rất nhỏ hoặc nếu như bề mặt bị<br />
quá ráp. Trong các hệ được thiết kế tốt về ma sát, mòn và bôi trơn, quá<br />
trình mòn xảy ra rất chậm nhưng ổn định và liên tục. Tuy nhiên sự sinh<br />
ra và tuần hoàn của các hạt mòn có thể gây ra phá huỷ bề mặt trên các bề<br />
mặt tiếp xúc chung. Khi các mòn hạt có kích thước lớn hơn khe hở tiếp<br />
xúc có thể gây ra phá hỏng bề mặt gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả<br />
năng làm việc của đôi ma sát hơn là lượng mòn thực tế.<br />
1.2. Phân loại mòn<br />
Mòn xảy ra do các tương tác cơ, điện, hoá và nói chung chịu xúc tác<br />
của nhiệt ma sát. Do tương tác cơ học các vết nứt có thể xuất hiện do<br />
hiện tượng bẻ gãy các liên kết phân tử trong chất dẻo, sự trượt trong kim<br />
loại, sự phá vỡ biên giới hạt trong ceramics hoặc sự phá huỷ bề mặt của<br />
composite hoặc vật liệu nhiều pha. Các vết nứt này sẽ phát triển và tạo ra<br />
các hạt mòn.<br />
Mòn bao gồm sáu hiện tượng chính tương đối khác nhau và có chung<br />
một kết quả là sự tách vật liệu từ các bề mặt trượt đó là: dính (adhesive),<br />
cào xước (abrasive), mỏi bề mặt (fatigue), va chạm, hoá, ăn mòn và điện.<br />
Các dạng mòn khác thường gặp như fretting hay ăn mòn fretting là sự kết<br />
hợp của các dạng mòn dính, hạt cứng và va chạm. Theo thống kê, khoảng<br />
hai phần ba mòn xảy ra trong công nghiệp là do cơ chế dính vật và cào<br />
xước. Trừ mòn do mỏi, mòn do các cơ chế khác là một hiện tượng xảy ra<br />
liên tục.<br />
Trước khi lựa chọn vật liệu hoặc các phương pháp xử lý vật liệu để<br />
tăng khả năng chống mòn của chi tiết máy, cần phải hiểu được các quá<br />
trình mòn đang hoặc có thể xảy ra bằng cách phân tích bề mặt các chi tiết<br />
mòn kết hợp với kiến thức về chế độ tương tác bề mặt hoặc các tính chất<br />
bề mặt. Trong thực tế mòn xảy ra do một hoặc nhiều cơ chế. Trong nhiều<br />
trường hợp mòn sinh ra do một cơ chế nhưng có thể phát triển do sự kết<br />
hợp với các cơ chế khác làm phức tạp hoá sự phân tích hỏng do mòn.<br />
Phân tích bề mặt các chi tiết bị hỏng do mòn chỉ xác định được các cơ<br />
chế mòn xảy ra ở giai đoạn cuối mà thôi. Kính hiển vi và rất nhiều kỹ<br />
thuật phân tích bề mặt được sử dụng để thực hiện các nghiên cứu về phân<br />
92<br />
<br />
tích bề mặt. Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu các cơ chế mòn khác<br />
nhau, các dạng hạt mòn cũng như các dữ liệu tiêu biểu về mòn vật liệu.<br />
2. CÁC CƠ CHẾ MÒN CƠ BẢN<br />
2.1. Mòn do dính<br />
2.1.1. Khái niệm<br />
<br />
Hình 3-1 : Sơ do mô tả hai khả năng cắt tại tiếp xúc đỉnh nhấp nhô theo<br />
bề mặt tiếp xúc chung (giữa CT 1&2) hoặc lấn vào một trong hai bề mặt<br />
(chi tiết 2).<br />
<br />
93<br />
<br />
Mòn do dính xảy ra khi hai bề mặt rắn, phẳng trượt so với nhau.<br />
Dính xảy ra tại chỗ tiếp xúc ở đỉnh các nhấp nhô dưới tác dụng của tải<br />
trọng pháp tuyến, khi sự trượt xảy ra vật liệu ở vùng này bị trượt (biến<br />
dạng dẻo) dính sang bề mặt đối tiếp hoặc tạo thành các mảnh mòn rời.<br />
Một số mảnh mòn còn được sinh ra theo cơ chế mòn do mỏi ở đỉnh các<br />
nhấp nhô.<br />
Một số giả thuyết được đưa ra để giải thích cơ chế tách một mảnh vật<br />
liệu do dính. Theo giả thuyết đầu tiên về mòn do trượt, sự cắt có thể xảy<br />
ra ở bề mặt tiếp xúc chung hoặc về phía vùng yếu nhất của hai vật liệu tại<br />
chỗ tiếp xúc. Trong phần lớn các trường hợp, sức bền ở chỗ tiếp xúc nhỏ<br />
hơn sức bền cắt ở vùng lân cận và cắt xảy ra trên mặt tiếp xúc chung,<br />
mòn bằng không (Hình 3-1). Trong một phần nhỏ của các tiếp xúc, sự cắt<br />
xảy ra vào và dính sang bề mặt đối tiếp (Hình 3-1). Mảnh vật liệu dính<br />
này có dạng hình khối đặc biệt<br />
Theo giả thuyết khác, nếu sức bền dính đủ lớn để cản trở chuyển<br />
động trượt tương đối, một vùng của vật liệu sẽ bị biến dạng dưới tác<br />
dụng của ứng suất nén và cắt và sự trượt xảy ra mạnh dọc theo các mặt<br />
94<br />
<br />
phẳng trượt của các tinh thể trong vùng biến dạng dẻo. Những dải trượt<br />
này tạo thành các mảnh mòn dạng lá mỏng (Hình 3-2(a)). Nếu biến dạng<br />
dẻo xảy ra trên diện rộng ở vùng tiếp xúc đôi khi mảnh mòn sinh ra có<br />
dạng hình chêm như trên Hình 3-2(b) và dính sang bề mặt đối tiếp. Quá<br />
trình trượt giữa hai bề mặt tạo ra nhiều mảnh mòn dính sang bề mặt đối<br />
tiếp, tích tụ và tạo nên các mảnh mòn rời do tác dụng ôxy hoá của ôxy<br />
trong môi trường hoặc do năng lượng đàn hồi lớn hơn năng lượng dính.<br />
Khi hai vật liệu khác loại kết hợp với nhau, các mảnh mòn của cả hai<br />
loại vật liệu đều được tạo thành tuy nhiên các mảnh từ vật liệu mềm hơn<br />
thường lớn hơn. Sự tồn tại của các khuyết tật và vết nứt trong vật liệu có<br />
độ cứng cao hơn tạo nên các vùng cục bộ có sức bền thấp. Khi những<br />
vùng này trùng với các vùng cục bộ có sức bền cao của vật liệu mềm hơn<br />
sẽ tạo nên các mảnh mòn của vật liệu cứng hơn. Những mảnh mòn loại<br />
này cũng có thể tạo nên do mỏi sau một số chu kỳ chịu tải và bỏ tải.<br />
Một số dạng mòn do dính (adhesion) còn được gọi là galling,<br />
scuffing, welding hay smearing.<br />
2.1.2. Các phương trình định lượng<br />
Định luật mòn dính của archard<br />
Giả thiết tiếp xúc được tạo nên bằng một số các tiếp xúc ở đỉnh các<br />
nhấp nhô có bán kính a như trên Hình 3-3.<br />
<br />
Hình 3-3: Sơ đồ mô hình 1ý thuyết tạo ra một hạt mòn bán cầu trong<br />
tiếp xúc ma sát trượt<br />
Có thể thấy diện tích của mỗi tiếp xúc là: πa2. Mỗi tiếp xúc sẽ chịu<br />
một tải trọng là: poπa2, trong đó po là giới hạn chảy. Các bề mặt sẽ dịch<br />
chuyển một khoảng 2a qua mỗi nhấp nhô và ta giả thiết mảnh mòn sinh<br />
95<br />
<br />