intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả _1

Chia sẻ: Nguyenkiki Nguyenkiki | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

84
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm tác giả hàm ẩn được các nhà nghiên cứu sử dụng tương đối nhiều. Tuy nhiên, tồn tại một thực tế, chúng ta có thể nhận ra người kể chuyện dựa vào một vài căn cứ, song lại không thể xác lập một cách rõ ràng tác giả hàm ẩn theo những tiêu chí xác định của người kể chuyện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả _1

  1. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả
  2. K hái niệm tác giả hàm ẩ n đ ược các nhà nghiên c ứu sử dụng t ương đ ối nhiều. Tuy n hiên, t ồn tại một thực tế, chúng ta có t hể nhận ra người kể chuyện dựa vào một vài căn c ứ, song lại không thể xác lập một cách r õ ràng tác giả hàm ẩ n theo những t iêu chí xác đ ịnh của ng ười kể chuyện. L à một bậc trần thuật không đ ược thể hiện ở văn bản nghệ thuật d ưới dạng nhân vật – người kể chu yện, tác giả hàm ẩ n chỉ đ ược độc giả tái tạo trong quá tr ình đ ọc như là một “hình t ượng tác giả” ngấm n gầm, ẩn t àng. Tác giả hàm ẩ n không có tiếng nói, không có ph ương tiện giao tiếp, nó chỉ có một “nguyên t ắc” tổ chức mọi phương tiện trần thuật bao gồm cả người k ể chuyện. Trong truyện kể, lời giới thiệu, dẫn dắt, b ình luận của ng ười kể chuyện, lời nhân vật, t ình huống diễn ra hành đ ộng của nhân vật, những đối thoại, độc t ho ại, cách sắp xếp các sự kiện, các kỹ xảo, thủ pháp… tất cả đ ã đ ược người kể c huyện k ể lại theo một cách thức n ào đó. Có thể nói, mọi sự hiện hữu của từng con c hữ trong tác phẩm, thậm chí kể cả từng dấu chấm, dấu phẩy, cách ngắt câu, ngắt đ o ạn… cho đến những đối thoại, độc thoại, những ngôn từ đ ưa đ ẩy, thái độ châm b iếm, thương c ảm hay lãn h đ ạm của ngư ời kể chuyện phải do một ai đó nghĩ ra. V à điều đó cho phép chúng ta nghĩ đến tác giả h àm ẩ n. V iệc tồn tại nhiều khái niệm li ên quan đ ến tác giả cho thấy sự chi phối của p hạm tr ù này đ ối với các vấn đề liên quan đ ến việc giải mã văn b ản tác phẩm. Nếu c ăn c ứ vào s ự phân biệt của M. Bakhtin về các b ình diện tác giả chúng ta dễ d àng n hận thấy khái niệm tác giả h àm ẩ n mà W. Booth và một số nhà t ự sự học khác sử d ụng chủ yếu nhằm phân tách tác giả tiểu sử với tác sáng tạo. Tuy nhi ên, việc coi t ác giả hàm ẩ n là một trong ba tác nhân quan trọng của mối quan hệ tác giả - văn b ản (ba tác nhân đó là: tác giả hàm ẩ n (implied -author), tác giả kịch hóa (dramatizied -author) và ngư ời kể chuyện) và với những tiêu chí mà Booth đưa ra d ễ khiến việc lý giải bị chồ ng chéo. Khái niệm tác giả hàm ẩ n mà Booth đ ã hoàn t hiện và đ ề cao cho chúng ta hình dung về một tác giả sáng tạo. Tuy nhi ên, việc t ác giả hàm ẩ n hiện hữu ở cấu trúc văn bản lại buộc ng ười đọc phải nghĩ đến tác g iả đ ược sáng tạo, hay c òn gọi là “cái tôi thứ hai”. Thực tế cho thấy, khi khảo sát c ác c ấp độ giao tiếp của truyện kể, tính chất mơ hồ và thiếu các tiêu chí khách
  3. q uan đ ể xác lập khiến tác giả h àm ẩ n dễ bị cho là không c ần thiết hoặc biến vấn đề t r ở nên r ắc rối, khó giải quyết h ơn(12) . Quan điểm của b ài viết vẫn nhận thấy sự x uất hiện của khái niệm n ày đem đ ến những khám phá mới mẻ. Tuy nhiên, chúng t a s ẽ chấp nhận tác giả hàm ẩ n như là một vị trí trung gian, là kết quả của sự t ương t ác giữa văn bản và người đọc. Người đọc có thể coi tác giả h àm ẩ n như là s ự phản c hiếu của tác giả thực. Tác giả, trong cách d ùng c ủa chúng tôi là ngư ời tạo ra toàn b ộ các quy chuẩn và quan niệm để từ đó xác lập t ư tư ởng của văn bản. Người có t rách nhiệm đối với to àn b ộ những quan điểm về thế giới phát sinh từ truyện kể, c hủ động thiết lập theo nhiều cách khác nhau. Bước đầu khảo sát mối quan hệ giữa ng ư ời kể chuyện và tác giả, đặc điểm đ ầu tiên mà chúng ta phải thừa nhận là sự chi phối của tác giả đối với ng ư ời kể c huyện. Hiển nhiên, tác giả có vai tr ò t ối cao. Anh ta tạo ra ngư ời kể chuyện và c ấp cho nó quyền kiểm soát v à chi phối. Tuy nhiên, quá trình tác giả sáng tạo và t rao quyền hạn cho ng ười kể chuyện cho đến khi ng ười kể thực thi chức năng v à n hiệm vụ của mình có thể diễn ra theo nhiều chiều h ướng khác nhau. C ơ chế và c ách thức chi phối, kiểm soát của tác giả đối với ng ười kể chuyện trong mỗi truyện k ể đ ược tiến hành theo những cách thức phong phú và khác biệt. Xem xét sự chi p hối này, chúng ta luôn phải đề cập đến một yếu tố rất quen thuộc khi phân tích c ấu trúc truyện kể: đ i ểm nh ìn. Điểm nh ìn trong truyện kể không đ ơn thuần là v ị trí q uan sát và kể. Điểm nh ìn gắn chặt với người kể chuyện và điều quan trọng, nó mang tư tư ởng và ý thức hệ của nhà văn(13). S ự lựa chọn người kể chuyện, vị trí q uan sát và cách thức kể sẽ mang đ ậm dấu ấn của người nghệ sĩ. Người kể chuyện n gôi th ứ nhất hay thứ ba thực chất chỉ l à phần nổi của tảng băng. Vấn đề l à chúng t a (có thể) nhận ra những nỗ lực của tác giả đ ã làm biến chuyển lịch sử như thế nào khi thay đ ổi quyền năng và vai trò của người kể chuyện. Có thể nói, ý thức của n gười nghệ sĩ tác động trực tiếp đến việc lựa chọn một ph ương thức kể phù hợp mà ở đ ó người kể chuyện có trách nhiệm thực thi những ý t ưởng của tác giả. C hẳng hạn, với ý thức bám chắc v ào s ự thực và muốn “nối nghiệp Khổng Tử, soi s áng cho đ ời, chỉnh lý đ ược Dịch Truyện, tiếp tục đ ược kinh Xuân Thu, nắm đ ược c ái gốc của Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh L ễ, Kinh Nhạc… muốn làm một Khổng Tử
  4. t hứ hai ngay trong thời đại chuy ên chế cực độ”(14) , Tư M ã Thiên đ ã t ạo nên một c ông trình t ự sự lớn nhất của thế giới, vô giá về mặt t ư liệu lịch sử, mang những t ư t ưởng vĩ đại của một tâm hồn đau xót đầy sức mạnh, c ùng với hàng ngàn nhân vật đ iển h ình. Cuộc đời cá nhân với những oan ức cực độ, những ho ài b ão lớn lao và ý t hức về sự vĩ đại của dân tộc đ ã t ạo nên s ắc thái bi hùng trong tư tư ởng Tư M ã Thiên. V ới cách thức: “chỉ thuật lại chuyện x ưa, s ắp đặt các chuyện trong đời”, Tư M ã Thiên đ ã t ạo nên một phương pháp tự sự mà theo đó các nhân vật sống ho àn t oàn khách quan, không có s ự can thiệp của tác giả. D ưới sự sắp xếp của người kể c huyện sử quan, sự thật tự nó nói l ên tiếng nói của chân lý. Chính những mâu t huẫn đau đớn trong tâm hồn, khát vọng v à nh ững t ư tưởng vĩ đại của T ư M ã Thiên (xu hư ớng vượt khỏ i khuôn khổ có sẵn của t ư tưởng chính thống gắn liền với tính trung thực của một sử quan) đ ã chi phối phương pháp t ự sự, chi phối việc t ạo dựng h ình ả nh người kể chuyện, việc lựa chọn sự kiện v à sắp đặt các sự kiện đ ể tự chúng bộc lộ ý nghĩa. Trong c ấu trúc nội tại tác phẩm, hành vi k ể t ương đương ho ặc bằng diễn n gôn c ủa ng ười kể cộng với diễn ngôn của các vai. Một truyện kể sẽ không thể tồn t ại nếu chỉ có diễn ngôn của các vai. Khi truyện đ ược kể ra nghĩa là chúng ta s ẽ n hìn ho ặc nghe thấy ở đó thế giới đ ược kể ra và “thế giới đ ược trích dẫn”. Tồn tại với t ư cách một công cụ do nhà văn hư c ấu nhằm chuyển tải một thông điệp n ào đ ó, việc lựa chọn kiểu ng ười kể chuyện không phải ngẫu nhi ên mà hoàn toàn mang t ính quan niệm của nhà văn. Điều này lý giải v ì sao mỗi giai đoạn phát triển của l ịch sử văn học xuất hiện những kiểu ng ười kể chuyện đặc thù mang tâm lý c ủa một nhóm ng ười hoặc một thời đại... Chẳng hạn, trong văn học Trung Quốc có n hững giai đoạn chỉ xuất hiện ng ười kể chuyện ở ngôi thứ ba bất an hoặc bé mọn(15) ; Các truyện ngắn của Ma Văn Kháng v ì chú tr ọng đến nội dung b ình luận, đ ánh giá, đ ịnh h ướng cho độc giả, muốn rút ra các triết luận về một vấn đề n ào đó, nên hình t ượng ng ười kể chuyện trong các tác phẩm của ông chủ yếu l à kiểu ngư ời k ể chuyện to àn t ri, biết hết, thấy tất(16). Có thể nói, từ những lựa chọn mang tính q uan niệm này, ngư ời kể chuyện sẽ chi phối đến việc thiết lập c ơ chế vận động nội
  5. t ại tác phẩm nghệ thuật: xây dựng cốt truyện, xác lập điểm nh ìn, phương thức kể, n gôn ngữ ng ười kể và ngô n ngữ nhân vật… N hững giới hạn hay sự phóng túng của ng ười kể chuyện sẽ chịu sự quy định c ủa nhà văn trong ý t hức hoặc tiềm thức. Tất cả những cảm giác mà chúng ta c ảm n hận đ ược, d ù bao giờ cũng chất chứa những trải nghiệm ri êng tư như niềm vui s ướng, sự sợ hãi hay nỗi cô đ ơn, s ự bần tiện hay cao thượng; những tẻ nhạt, kệch c ỡm hay ưu tư thú v ị… đều bị quy định bởi hệ thống ngôn từ mà nhà văn t ạo ra, mang tư tư ởng của nhà văn. Đ iều này có vẻ như giới hạn độ mở của văn bản t ruyện kể và “xúc phạm” đến giá tr ị tr ường tồn của tác phẩm. Tuy nhiên, có một t hực tế không thể phủ nhận, tác giả sáng tạo ra thế giới truyện kể v à thông qua hệ t hống các hình t ượng hiện hữu trong văn bản giúp ng ười đọc nhận ra ý nghĩa nhân văn sâu xa sau những diễn ngôn, những chi tiết v à hành đ ộng. Từ những ký hiệu và thông điệp này, đ ộc giả nhận ra t ư tưởng chủ đạo xuyên suốt trong tác phẩm. Đ ứa con tinh thần của nhà văn có thể sẽ mang đầy đủ dấu ấn những phẩm chất c ũng như giới hạn của kẻ đã sáng t ạo ra nó. Như thế, khi cầm bút nhà văn l uôn đ ặt ra mục tiêu c ủa sự viết, định r õ chủ ý và khát vọng của mình. Mặc d ù t ừ mục đích và mong muốn đến văn bản thực tế với những lớp ý nghĩa mà người đọc thực sự có t hể khám phá từ những ký hiệu hiện hữu ở văn bản tác phẩm, từ cấu trúc nội tại c ủa nó là một khoảng cách rất lớn, song vấn đề chủ ý của nh à văn vẫn luôn trở t hành đ ề tài gây nhiều tranh c ãi trong quá trình diễn giải văn bản tác phẩm(17). Rõ ràng, hành đ ộng đi t ìm “cấu trúc của một sự tồn tại” l à con đư ờng t ìm đ ến ý thức b ề sâu của tác giả, với một “hệ có tổ chức của những ám ảnh” (R. Barther, 1 954) (18). Nếu coi chủ ý của tác giả nh ư là một giả thuyết về tính nhất quán th ì s ợi d ây liên hệ giữa tác giả với người kể chuyện - người sắp đặt và điều khiển truyện k ể - s ẽ đ ược biểu hiện rất phong ph ú. Tác giả có ý định bộc lộ trực tiếp t ư tưởng c ủa mình qua người kể chuyện hay không? Mức độ v à cách thức tiến hành, ý đ ịnh và năng lực hiện thực hóa t ư tưởng qua một hệ thống các h ình th ức trung gian của một thế giới khác? Ở đây luôn tồn tại một độ ch ênh gi ữa mục đích và hiệu quả của c ác phương thức biểu hiện. Người kể chuyện không phải là tác giả song luôn bị cái b óng c ủa tác giả chi phối. Chủ ý của tác giả ít nhất giúp chúng ta xác lập đ ược hệ
  6. t ư tư ởng chi phối sự vận động nội tại cấu trúc tác phẩm, d ù đ iều này chưa bao gi ờ c hắc chắn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2