intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số vấn đề về tội phạm ẩn trong tội phạm học và trên thực tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

79
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nêu những vấn đề lý luận cơ bản của tội phạm ẩn trong tội phạm học, trên cơ sở phân tích, đánh giá một số quan điểm của các nhà tội phạm học trên thế giới và trong nước, tìm ra những nội dung tương đồng và khác biệt. Qua đó, bài viết đưa ra một số quan điểm cụ thể, có giá trị ứng dụng thực tế để có thể làm cho phần “ẩn” của tội phạm hiện ra một cách rõ nét, cùng với tội phạm rõ trên “phông” của tình hình tội phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số vấn đề về tội phạm ẩn trong tội phạm học và trên thực tế

  1. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT MÖÅT SÖË VÊËN ÀÏÌ VÏÌ TÖÅI PHAÅM ÊÍN TRONG TÖÅI PHAÅM HOÅC VAÂ TRÏN THÛÅC TÏË Vũ VăN aNh* Bài viết nêu những vấn đề lý luận cơ bản của tội phạm ẩn trong tội phạm học, trên cơ sở phân tích, đánh giá một số quan điểm của các nhà tội phạm học trên thế giới và trong nước, tìm ra những nội dung tương đồng và khác biệt. Qua đó, bài viết đưa ra một số quan điểm cụ thể, có giá trị ứng dụng thực tế để có thể làm cho phần “ẩn” của tội phạm hiện ra một cách rõ nét, cùng với tội phạm rõ trên “phông” của tình hình tội phạm. Mục đích cuối cùng và chủ yếu là hướng tới việc phòng ngừa tội phạm đạt kết quả tốt nhất. 1. Khái niệm tội phạm ẩn ra dự báo tình hình tội phạm, bởi lẽ “...dự báo Thuật ngữ tội phạm ẩn “dark figure of tình hình tội phạm không chỉ là hướng crime” do nhà thiên văn học người Bỉ nghiên cứu của tội phạm học mà còn là nhu Adolpho Quetelet đưa ra đầu tiên năm 1830. cầu cấp bách của thực tế đấu tranh phòng và Hiện nay, phần ẩn của tội phạm được đề cập chống tội phạm”2. Còn theo V.M. Cogan “Xu dưới các thuật ngữ “phần ẩn của tội phạm”, hướng ẩn là đặc tính của tình trạng tội phạm “phần ẩn của tình hình tội phạm”, “tình hình nói chung cũng như mong muốn che giấu tội phạm ẩn” hoặc “tội phạm ẩn”1. Tội phạm việc thực hiện tội phạm là đặc trưng của từng ẩn là một khái niệm có đời sống thực tế, bên tội phạm riêng biệt”3. Như vậy, nghiên cứu cạnh khái niệm tội phạm rõ, nó là hai bộ tình hình tội phạm không chỉ dựa vào số liệu phận hợp thành của tình hình tội phạm. Trên thống kê tội phạm rõ mà còn phải dựa vào cơ sở nghiên cứu hai nội dung đó, chúng ta tội phạm ẩn, có như vậy thì công tác phòng mới có thể có cơ sở khoa học đầy đủ để đưa ngừa tội phạm mới đầy đủ và toàn diện. * ThS. TAND huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. 1 Phạm Văn Tỉnh, Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, Luận án TS, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004 2 GS,TS. Võ Khánh Vinh, Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000. 3 V.M. Cogan, Các đặc tính xã hội của tình trạng phạm tội. Nxb.. Matxcova, 1977. tr 48. NGHIÏN CÛÁU Söë 07(311) T4/2016 LÊÅP PHAÁP 15
  2. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Thực tế nghiên cứu đã cho thấy phần ẩn không xuất hiện trên phông của tình hình tội của tội phạm chiếm tỷ lệ rất lớn, lớn hơn phạm, ở các công trình nghiên cứu về tội nhiều so với phần hiện của tội phạm. phạm học cũng có đề cập nhưng chỉ dưới Theo số liệu thống kê của Bộ Công an, dạng nêu hiện tượng mang tính chất chung từ năm 1990 đến 1999 tỷ lệ phá án ở nước ta chung, khẩu hiệu mà chưa đi sâu tìm hiểu đạt 41,08% 4. Tỷ lệ phá án ở đây chính là sự bản chất của hiện tượng này. phản ánh thực tế: Những hành vi có dấu hiệu Hiện nay, khái niệm về tội phạm ẩn phạm tội đã được kết thúc điều tra, tức là đang được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. hành vi đó đã được khởi tố vụ án, khởi tố bị Theo Timothy Mason, “tội phạm ẩn là tội can và đã được tiến hành điều tra theo quy phạm có thực nhưng không được tường thuật định và có một trong các kết luận sau: Tạm với cảnh sát”9; Frank Schmalleger cho rằng, đình chỉ điều tra vì bị can bị bệnh tâm thần “tội phạm ẩn là thuật ngữ được đưa ra bởi hoặc bệnh hiểm nghèo khác; tạm đình chỉ các nhà tội phạm học và xã hội học mô tả số điều tra vì không biết rõ bị can đang ở đâu; lượng tội phạm không được tường thuật hoặc đình chỉ điều tra; có kết luận điều tra và đề không bị phát hiện và nó trả lời cho câu hỏi nghị Viện kiểm sát truy tố. Còn trường hợp về độ tin cậy của thống kê tội phạm chính vụ án không xác định được bị can thì không thức”10. Theo PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh, được xem là đã phá được án. Quan điểm về “phần ẩn của tình hình tội phạm là tổng thể tỷ lệ phá án của nước ta cũng phù hợp với các hành vi phạm tội (cùng các chủ thể của quan điểm của các nhà tội phạm học Đức: hành vi đó) đã xảy ra trên thực tế, song “Một hành vi có dấu hiệu phạm tội chỉ được không được phát hiện, không bị xử lý theo xem là đã được “khám phá” (aufgeklaert), quy định của pháp luật hình sự hoặc không khi cơ quan cảnh sát đã tiến hành điều tra mà có trong thống kê hình sự”11. Còn GS.TS. kết quả là bắt quả tang nghi can hoặc chí ít Nguyễn Xuân Yêm cho rằng, “tội phạm ẩn cũng xác định rõ được tên của nghi can”5. là khái niệm chỉ một phần trong tổng thể các Tỷ lệ tội phạm ẩn ở các nước cũng rất tội phạm đã xảy ra trong một khoảng thời khác nhau về tình hình tội phạm nói chung gian và trên một địa bàn nhất định mà chưa và tội phạm cụ thể nói riêng, như: ở Đức năm được các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan 1993 tỷ lệ phá án đạt 43,8%, tỷ lệ này ở tội điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ giết người là 82%, ở tội trộm cắp nghiêm quan khác của Công an có chức năng tiếp trọng là 11,9%6; ở Anh năm 2000 tỷ lệ tội nhận tin tố giác và phát hiện tội phạm) phát phạm ẩn chiếm 70% tổng số vụ phạm tội7; hiện về sự kiện nói chung hoặc chưa nhận theo Tymothy Mason thì số lượng tội phạm biết được sự kiện, hành vi đã phát hiện là tội ẩn lớn hơn từ 6 đến 8 lần tội phạm rõ8. Như phạm”12. vậy, tội phạm ẩn chiếm tỷ lệ rất lớn, nó Tổng hợp các quan điểm nêu trên, kết 4 Phạm Văn Tỉnh, Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay. Tlđd. 5 H-D. Schwind, Kriminologie, Kriminalistik Verlag, Heidelberg, 1995, tr. 19. 6 Phạm Văn Tỉnh, Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, Tlđd. 7 Bài giảng “Extend of Crime” của GS.TS Jock Young. 8 Bài giảng “Official statistics and the dark figure” của Timothy Mason, Paris University, trên trang www.deviance 2- Official statistics and the dark figure.htm ngày 5/6/2006. 9 Bài giảng “Official statistics and the dark figure, Tlđd” . 10 Frank Schmalleger, Criminology today, Prentice Hall in 2002, tr 61. 11 H-D. Schwind, Kriminologie, Kriminalistik Verlag, Heidelberg, 1995, tr. 42. 12 Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 93. NGHIÏN CÛÁU 16 LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
  3. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT hợp với thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi đưa Tội phạm thực tế đã xảy ra, người bị hại ra khái niệm về tội phạm ẩn như sau: Tội biết nhưng họ không còn cơ hội để tố giác tội phạm ẩn là số lượng hành vi phạm tội đã xảy phạm, vụ án cũng không có bất cứ một nhân ra nhưng không được phát hiện, không được chứng nào cũng như tình tiết quan trọng nào tường thuật, không bị xử lý theo quy định của đề Cơ quan điều tra điều tra vụ án. Ví dụ: Một pháp luật hình sự hoặc không có trong thống thanh niên vào Tây Nguyên làm kinh tế mới, kê hình sự. có mang theo vốn liếng làm ăn. Trên đường 2. Nguyên nhân dẫn tới việc ẩn của tội đi tìm việc, anh ta đã bị giết và bị giấu xác phạm trong rừng. Không có bất kỳ ai chứng kiến vụ 2.1 Nguyên nhân khách quan việc, việc mất tích của anh ta cũng không có Đây là một nguyên nhân nằm hoàn toàn bất kỳ một manh mối nào để điều tra, người bị hại thì không còn cơ hội để tố giác tội ngoài ý muốn của cơ quan có thẩm quyền phạm. Trong trường hợp này, chỉ có thể xem khởi tố vụ án hình sự cũng như bản thân xét để giải quyết tuyên bố anh ta mất tích người bị hại. Họ không có bất kỳ một thông hoặc đã chết để giải quyết các vấn đề dân sự. tin nào về hành vi phạm tội, mặc dù hành vi Hành vi phạm tội hoàn toàn không được phạm tội đã xảy ra trên thực tế. Có các tường thuật hoặc không bị phát hiện xử lý. trường hợp sau: 2.2 Nguyên nhân chủ quan Tội phạm thực tế đã xảy ra nhưng ngay Theo quy định của pháp luật hình sự, cả người bị hại cũng không biết. Do vậy, việc việc phát hiện tội phạm có thể được thực phạm tội đương nhiên không được tường hiện thông qua các hình thức sau đây: Tố thuật hoặc không bị phát hiện. Ví dụ 1: Một giác và tin báo về tội phạm, như tố giác của gia đình của một người giàu có, tiền họ để công dân; tin báo của cơ quan Nhà nước trong tủ, người giúp việc biết và đã rút của hoặc các tổ chức xã hội; tin báo trên các họ 20.000.000 đ, nhưng vì số tiền đã mất quá phương tiện thông tin đại chúng; Trực tiếp ít so với số tiền họ có nên họ đã không hề phát hiện tội phạm của các cơ quan chức phát hiện ra số tiền đã bị mất. Trong trường năng; Người phạm tội tự thú. hợp này, không có bất cứ nhân chứng nào Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác biết, bản thân người mất tiền cũng không biết nhau mà các nguồn thông tin về tội phạm nói mình đã bị lấy cắp. Vụ án đã hoàn toàn trên đã không được thực hiện. Nguyên nhân không được tường thuật hoặc không bị phát chủ quan dẫn đến việc ẩn của tội phạm có hiện xử lý. Ví dụ 2: Khi một người bị tai nạn nhiều nhưng có thể chia ra thành 4 nhóm sau: giao thông trên một con đường vắng, có một a. Nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội người phát hiện. Nhưng khi thấy nạn nhận phạm: Tội phạm thực tế đã xảy ra nhưng vì đã bất tỉnh, nạn nhân lại có nhiều tiền, anh ta những lý do khác nhau như: Không tố giác đã nảy sinh lòng tham, lấy hết tiền rồi bỏ đi. (tỷ lệ không tố giác tội phạm trên thế giới Nạn nhân không được cứu kịp thời nên đến trung bình là 49,9%, trong đó một số nước khi có người thứ hai phát hiện ra thì nạn nhân có tỷ lệ tố giác tội phạm cao là Scottlen đã chết. Vì không có người chứng kiến, nên 62,3%, Pháp 60,8%, Newzealand 59,7%13. Ở hành vi phạm tội hoàn toàn không được Việt Nam tỷ lệ này là 29%14); Sợ dư luận (tội tường thuật hoặc không bị phát hiện xử lý. phạm về tình dục); Sợ trả thù (chủ thể của tội 13 Viện Nghiên cứu pháp lý - Bộ Tư pháp, Tư pháp hình sự so sánh, Hà Nội, 1999. tr. 41. 14 Trần Hữu Tráng, “Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học (Số 3/2000), tr. 53. NGHIÏN CÛÁU Söë 07(311) T4/2016 LÊÅP PHAÁP 17
  4. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT phạm hoạt động có tính chất xã hội đen); Có thông qua tình hình tội phạm. sự thỏa thuận giữa người bị hại và gia đình 3. Phân loại tội phạm ẩn họ với tội phạm. Việc phân loại tội phạm ẩn có một ý b. Nguyên nhân từ phía người phạm tội: nghĩa to lớn trong việc xác định nguyên nhân Đe dọa người bị hại, người làm chứng khiến ẩn của tội phạm một cách khoa học, hệ họ không tố giác tội phạm; Thỏa thuận với thống. Việc này sẽ giúp cho bức tranh về tình người bị hại, người làm chứng để họ không hình tội phạm được đầy đủ và toàn diện hơn. tố giác tội phạm; Dùng thủ đoạn tinh vi để Nghiên cứu tội phạm ẩn mục đích chính và che giấu hành vi phạm tội, không tự thú hành chủ yếu là làm cho nó hiện nên một cách rõ vi phạm tội. Hối lộ cơ quan có thẩm quyền nét, thông qua đó sẽ giúp cho công tác dự để thoát tội. báo có hiệu quả và chính xác nhất. Một khi c. Nguyên nhân từ phía người làm công tác dự báo đầy đủ, khách quan và toàn chứng: Người biết về sự việc phạm tội nhưng diện thì công tác phòng ngừa tội phạm mới không dám tố cáo vì sợ bị trả thù hoặc do đạt hiệu quả tốt nhất. Tuy nhiên, hiện nay quen thân thiết với người phạm tội nên họ còn có nhiều quan điểm khác nhau về việc không tố giác, cũng có thể do họ thỏa thuận phân loại tội phạm ẩn. với người phạm tội để nhận một lợi ích vật a. Tội phạm ẩn gồm hai loại: chất nào đó nên họ cũng không tố giác tội - Tội phạm ẩn khách quan: Là tất cả các phạm. tội phạm đã xảy ra trong thực tế, song các cơ d. Nguyên nhân từ các cơ quan tiến hành quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự tố tụng: Có hành vi nhận hối lộ để không xử không có thông tin về chúng. lý hình sự đối với người phạm tội hoặc do nể - Tội phạm ẩn chủ quan: Là trường hợp nang, bao che không xử lý tội phạm... tội phạm đã xảy ra trên thực tế, các cơ quan e. Nguyên nhân do công tác thống kê: điều tra đã nhận được thông tin về vụ việc Do một số lý do khác nhau như kỹ thuật xây nhưng do các nguyên nhân khác nhau mà dựng các cấu thành tội phạm trong Bộ luật hành vi phạm tội không được xem xét xử lý. Hình sự (BLHS) như trường hợp tội ghép, ví b. Tội phạm ẩn gồm ba loại: dụ Điều 194 - Tội tàng trữ, mua bán, vận Ngoài Tội phạm ẩn khách quan và Tội chuyễn trái phép chất ma túy, rất nhiều phạm ẩn chủ quan như trên, còn có Tội phạm trường hợp một người thực hiện đầy đủ cả ẩn thống kê: Là loại tội phạm ẩn tồn tại trong ba hành vi khách quan được mô tả tại Điều phạm vi công tác thống kê tội phạm nhưng 194, nhưng họ cũng chỉ được coi là phạm không phải nằm ở chủ thể tiến hành công một tội danh được quy định tại Điều 194 việc thống kê, không phải ở phương tiện kỹ BLHS. Trong khi đó, các hướng dẫn lập thuật, công nghệ áp dụng cho công tác thống bảng thống kê của các cơ quan tiến hành tố kê lạc hậu hay hiện đại, mà nằm ở các quy tụng cũng hướng dẫn với một tội danh quy định có tính chất pháp lý đối với công tác định tại Điều 194, chứ không đề cập đến các thống kê tội phạm. hành vi cụ thể khác, việc đó dẫn đến hiện Về cơ bản thì hai quan điểm đều thống tượng một số hành vi phạm tội thực tế, thậm nhất hai thuộc tính của tội phạm ẩn là tội chí đã được xét xử và bản án có hiệu lực phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ pháp luật nhưng cũng không được thể hiện quan. Hiện nay, “tội phạm ẩn khách quan” 15 Trần Hữu Tráng, Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, Tlđd.; Phạm Văn Tỉnh, Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, Tlđd. NGHIÏN CÛÁU 18 LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
  5. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT và “tội phạm ẩn chủ quan” còn có tác giả gọi Qua mẫu bảng thống kê này, chúng ta là “tội phạm ẩn tự nhiên” và “tội phạm ẩn thấy các cột tội phạm, điều luật áp dụng, vụ nhân tạo”15. Riêng loại “tội phạm ẩn thống và cột bị cáo. Cột tội phạm có rất nhiều tội kê” còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có tác ghép nhưng cột Điều luật chỉ ghi Điều luật giả cho rằng, tội phạm ẩn thống kê thực chất cụ thể áp dụng, như Điều 194, điều luật này vẫn là tội phạm rõ vì khi đưa ra xét xử rồi thì có ba hành vi mô tả hành vi khách quan, cho đương nhiên vẫn là tội phạm rõ, còn việc nên nếu một bị cáo thực hiện đồng thời cả ba thống kê chính thức của tòa án là do nhiều hành vi trên thực tế thì nhìn qua bảng số liệu nguyên nhân khác nhau16; có tác giả cho thống kê này chúng ta sẽ không thể thấy rằng, việc nghiên cứu “tội phạm ẩn thống kê” được điều đó. Việc này đã làm “ẩn” đi đáng có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá kể số hành vi phạm tội đã thực hiện, điều đó tình hình tội phạm nói chung, nhưng nếu đưa kéo theo việc đánh giá tình hình tội phạm sẽ nó vào phạm trù “tội phạm ẩn” là không phù không được đầy đủ, chính xác và khoa học, hợp với những tiêu chí đánh giá về tình hình từ đó dẫn đến công tác dự báo tội phạm và tội phạm ẩn, như “thời gian ẩn”, “lý do ẩn” công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm sẽ và “độ ẩn”17; có tác giả cho rằng, quan điểm không đáp ứng được yêu cầu. Tương tự như “tội phạm ẩn thống kê” là tội phạm ẩn là vậy, cột vụ và cột bị cáo cũng thế. Thực tế phiến diện, với lập luận: số lượng tội phạm cho chúng ta thấy, có rất nhiều trường hợp này chỉ “ẩn” đối với các số liệu tổng hợp về mà trong một vụ án lại có nhiều hành vi tình hình tội phạm mà thôi, còn thực tế số phạm tội khác nhau (giết người, cướp tài sản, lượng tội phạm này đã bị phát hiện, đã bị xử hiếp dâm) nhưng nếu chúng ta nhìn vào bảng lý bằng các chế tài hình sự18. 1A thì chúng ta sẽ không thấy được điều này. Theo chúng tôi, “tội phạm ẩn thống kê” Qua phân tích số liệu thực tế luôn có một kết là loại tội phạm ẩn có đời sống thực tế, việc quả như sau: nghiên cứu nó có ý nghĩa quan trọng trong ∑ Số hành vi phạm tội > ∑ Số bị cáo > công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. ∑ Số vụ án. Ở đây, việc “ẩn thống kê” không được hiểu Vì vậy, việc đưa “tội phạm ẩn thống kê” là những sai sót thống kê, do sự cẩu thả của là tội phạm ẩn là phù hợp. cán bộ thực hiện hoặc do công nghệ áp dụng 4. Phương pháp xác định tội phạm ẩn thống kê lạc hậu, mà nó nằm ngay trong Hiện nay, các nhà tội phạm học trên thế thuộc tính pháp lý, như kỹ thuật xây dựng giới đưa ra hai phương pháp để xác định tội các cấu thành tội phạm ở BLHS (trường hợp phạm ẩn sau. tội phạm ghép đã được đề cập ở trên), hoặc Phương pháp điều tra về tội phạm tự do hướng dẫn lập biểu bảng thống kê của các tường thuật (offender self - report surveys) cơ quan tiến hành tố tụng. Ở các nước Anh, Mỹ, Australia, điều tra Chúng tôi xin trích một phần mẫu 1A do tội phạm tự tường thuật được tiến hành hàng Tòa án nhân dân tối cao ban hành để Tòa án năm. Đây là phương pháp cần bảo đảm an nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện sử dụng trong toàn, đồng thời phải cam kết bảo vệ bí mật việc lập báo cáo thống kê.(Xem biểu trang danh tính của người tham gia tự tường thuật sau) về tội phạm mà họ đã thực hiện, họ không 16 Dương Tuyết Miên, Bàn về tội phạm rõ, tội phạm ẩn trong tội phạm học; Tạp chí Luật học (3/2010), tr. 30. 17 Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Tlđd, tr. 94. 18 Trần Hữu Tráng, Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, Tlđd; NGHIÏN CÛÁU Söë 07(311) T4/2016 LÊÅP PHAÁP 19
  6. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 19 Mẫu 1A, Tòa án nhân dân tối cao. NGHIÏN CÛÁU 20 LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
  7. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT phải lo lắng về những điều mà mình đã khai khách quan cụ thể trong BLHS. Đối với các ra với cơ quan điều tra cũng như sợ hãi về hành vi khách quan này cần được mô tả đầy việc họ sẽ bị bắt giữ và bị xử lý về hình sự đủ, cụ thể, tránh tồn tại nhiều cách hiểu khác do đã thực hiện tội phạm. Đối tượng các nhà nhau hoặc vì một số mục đích khác mà điều tra hướng tới thường là những người trẻ những người có thẩm quyền áp dụng tùy tiện tuổi, bởi họ là nhóm có nguy cơ phạm tội nên không phản ánh đúng hành vi phạm tội cao. Kết quả của phương pháp này cho thấy, đã xảy ra trên thực tế. Ví dụ “Tội tàng trữ vận tội phạm xảy ra trên thực tế cao hơn rất nhiều chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt ma tuý” số tội phạm có trong thống kê chính thức. quy định tại Điều 194 BLHS, đây là dạng tội Phương pháp này có một số hạn chế là ghép. Thực tế rất khó tách bạch hành vi trong phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn đối với giới quy định này. Để tách bạch các hành vi trong trẻ, còn một số lượng lớn các đối tương khác tội danh này, người ta phải phân tích mặt chủ chưa được đánh giá nghiên cứu. quan của tội phạm, cụ thể là yếu tố “động Phương pháp điều tra về nạn nhân của cơ”, “mục đích” là yếu tố lỗi thuộc mặt chủ tội phạm (the victimization survey) quan của tội phạm mà chủ thể thực hiện hành Đối với phương pháp này, nhà điều tra vi phạm tội đã thực hiện để xác định xem là hành vi “vận chuyển”, “mua bán” hay “tàng phải cam kết giữ bí mật danh tính cho nạn trữ”. Như vậy, vô hình chung các biểu hiện nhân, để đảm bảo chắc chắn rằng họ sẽ được về mặt khách quan đã có phần bị “ẩn”, bởi an toàn. Đây là các đối tượng đặc biệt, họ bị các mục đích khác nhau mà người thực hiện tổn thất về sức khỏe, tinh thần và vật chất do hành vi có thể khai sao cho có lợi cho mình hành vi phạm tội gây ra. Khác với phương hoặc vì lý do nể nang, nhận hối lộ mà những pháp điều tra về tội phạm tự tường thuật, người có thẩm quyền “lách luật” để vụ lợi. điều tra về nạn nhân của tội phạm cũng có Như vậy, cần phải hạn chế tối đa những điều cách thức điều tra khác biệt, ví dụ như bảng luật có sử dụng dấu hiệu “động cơ”, “mục biểu điều tra, câu hỏi điều tra cũng phải có đích” thuộc yếu tố lỗi thuộc mặt chủ quan tính chất khác biệt. Ở các nước Anh, Mỹ, của tội phạm của chủ thể thực hiện hành vi Australia, điều tra về nạn nhân được tiến phạm tội làm căn cứ xác định tội danh đối hành hàng năm và nó đã giúp cho các nhà tội với hành vi của chủ thể. Theo Thông tư liên phạm học có đánh giá chính xác hơn về tội tịch của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ phạm ẩn. Qua đó bức tranh về tình hình tội Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Tư phạm sẽ đầy đủ hơn và giúp cho công tác pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại phòng ngừa tội phạm đạt được kết quả tốt Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” hơn. của BLHS năm 1999, thì quy định tại mục 5. một số kiến nghị nhằm làm rõ tính “ẩn” 3.6 20 rất dễ xảy ra hiện tượng sai lệch về của tội phạm ẩn hành vi phạm tội ban đầu vì những lý do Chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị cơ khác nhau, dẫn đến việc xác định hành vi bản, có tính khả thi cao trong việc làm rõ tội phạm tội không đúng hoặc bỏ sót hành vi phạm ẩn: phạm tội. Thứ nhất, sửa đổi BLHS hoặc các văn Thứ 2: Cần xây dựng luật bảo vệ nhân bản hướng dẫn. Cần quy định rõ các hành vi chứng và thiết lập cơ quan bảo vệ nhân 20 Thông tư số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007. NGHIÏN CÛÁU Söë 07(311) T4/2016 LÊÅP PHAÁP 21
  8. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT chứng độc lập. Cần nâng cao ý thức tố giác tâm, an toàn trong việc phát hiện và tố giác tội phạm trong nhân dân để giảm tính “ẩn” tội phạm. Qua đó, mới đảm bảo cho công của tội phạm. Muốn như vậy, chúng ta cần cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt phải pháp điển hóa các chế định đảm bảo sự kết quả. an toàn cho người tố giác tội phạm. Trong Thứ ba: Khắc phục tội phạm ẩn thống các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam đã kê. Tòa án nhân dân tối cao cần phải thay đổi có những quy định để bảo vệ nhân chứng. mẫu quy định về thống kê toàn ngành, ví dụ Tuy nhiên, hiệu quả của nó thì vẫn chưa đáp như mẫu 1A cần phải sửa đổi theo hướng ứng được yêu cầu, tỷ lệ tố giác tội phạm ở phải lấy cơ số hành vi phạm tội làm trung Việt Nam chỉ là 29,9%21. Vì vậy, việc quy tâm, có như vậy mới phản ánh đúng tình hình định các biện pháp bảo vệ nhân chứng một tội phạm. Cụ thể ở cột “tội phạm” nên tách cách cụ thể trong các văn pháp luật hình sự các tội ghép thành các hành vi cụ thể, còn cột sẽ đảm bảo cho nhân chứng và người thân “tội danh” vẫn giữ nguyên điều luật được của họ được an toàn, điều này sẽ khiến họ quy định trong BLHS, các cột về “số vụ” và không còn cảm giác lo sợ bị trả thù, nên họ “bị cáo” có thể giữ nguyên. Chúng ta chấp sẽ hợp tác với cơ quan chức năng để tố giác nhận một nguyên tắc thực tế ∑ Số hành vi tội phạm. Do vậy, chúng tôi kiến nghị nước phạm tội > ∑ Số bị cáo > ∑ Số vụ án, làm ta cần nhanh chóng xây dựng Luật Bảo vệ như vậy mới phản ảnh đúng tình hình tội nhân chứng cũng như thành lập cơ quan bảo phạm. Khi đó “tội phạm ẩn thống kê” mới vệ nhân chứng. Làm như vậy, chúng ta sẽ được làm “rõ” có thể tới mức được loại trừ đảm bảo rằng mọi người dân đều được yên hoàn toàn n 21 Trần Hữu Tráng, Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, Tlđd. NGHIÏN CÛÁU 22 LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2