PHẪU THUẬT TÁN NHUYỄN THỂ THỦY TINH TRÊN MẮT<br />
GLÔCÔM GÓC ĐÓNG CẤP CHƯA HOẶC ĐÃ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CẮT<br />
MỐNG MẮT CHU BIÊN BẰNG LASER<br />
Masamoto Imaizumi, Yasuhiro Takaki, Hiroyuki Yamashita<br />
J. Cataract Refract Surg. 2006; 32: 85-90<br />
Người dịch HỒ THỊ TUYẾT NHUNG<br />
Lớp cao học 13, Đại học Y Hà Nội<br />
<br />
Glôcôm góc đóng cấp xảy ra do<br />
nghẽn góc tiền phòng đột ngột gây tăng<br />
nhãn áp (NA) trầm trọng. Điều trị<br />
glôcôm góc đóng cấp kinh điển bao gồm<br />
hạ NA bằng thuốc uống và thuốc tra, khi<br />
cơn cấp thoái lui thì tiến hành cắt mống<br />
mắt chu biên (MMCB). Tuy nhiên, giải<br />
quyết nghẽn đồng tử bằng cắt MMCB<br />
không phải luôn luôn gây hạ được NA.<br />
Sự tiến ra trước của màn chắn mống mắt<br />
- thể thủy tinh, tiền phòng nông, bán kính<br />
giác mạc nhỏ và độ dày bất thường của<br />
thể thủy tinh (TTT) là những yếu tố nguy<br />
cơ dẫn đến đóng góc tiền phòng, trong<br />
đó độ dày TTT là yếu tố chính.<br />
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy<br />
phẫu thuật tán nhuyễn TTT đặt TTT<br />
nhân tạo (PHACO+IOL) trên mắt<br />
glôcôm góc đóng đã mở rộng góc tiền<br />
phòng và làm hạ NA. Nghiên cứu này<br />
nhằm so sánh hiệu quả của PHACO+IOL<br />
trên những mắt glôcôm góc đóng cấp với<br />
những mắt đục TTT có tiền sử bị glôcôm<br />
cấp đã được điều trị bằng cắt MMCB<br />
bằng laser.<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu gồm 53 mắt<br />
của 53 bệnh nhân người Nhật bị glôcôm<br />
góc đóng cấp hoặc đục TTT nhập viện từ<br />
4/2001 đến 3/2004 tại khoa Mắt, bệnh<br />
viện Oita, Nhật Bản. Thời gian theo dõi<br />
tối thiểu là 6 tháng. Có 3 nhóm đối<br />
tượng: nhóm 1 gồm 18 mắt bị glôcôm<br />
góc đóng cấp lần đầu, nhóm 2 gồm 8 mắt<br />
bị đục TTT với tiền sử cắt MMCB bằng<br />
laser điều trị glôcôm cấp, và nhóm 3 là<br />
nhóm đối chứng gồm 27 mắt bị đục TTT<br />
đơn thuần, không có bệnh lý khác.<br />
Sau điều trị hạ NA ban đầu với<br />
Acetazolamide, Pilocarpine, Manitol và<br />
-Blocker, nhóm 1 được tiến hành<br />
PHACO+IOL để điều trị glôcôm góc<br />
đóng. Nhóm 2 và nhóm 3 cũng được tiến<br />
hành phẫu thuật này với mục đích điều<br />
trị đục TTT.<br />
Để đánh giá hiệu quả của<br />
PHACO+IOL đối với điều trị hạ NA<br />
bằng thuốc sau mổ, qui ước tính 1 điểm<br />
cho mỗi loại thuốc tra được dùng, 2 điểm<br />
nếu dùng Acetazolamide uống.<br />
Thị lực được đo bằng bảng Landolt<br />
và chuyển đổi sang logMAR. Đếm tế bào<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
<br />
97<br />
<br />
nội mô bằng máy Noncon Robo SP-9000<br />
PACHY.<br />
Các cuộc mổ được thực hiện bởi 2<br />
phẫu thuật viên. Sau khi gây tê dưới bao<br />
Tenon, PHACO+IOL được tiến hành với<br />
đường rạch củng giác mạc dài 2,75mm.<br />
IOL mềm được đặt trong túi bao, ngoại<br />
trừ 1 mắt ở nhóm 1. Sau mổ bệnh nhân<br />
được điều trị với tra mắt Betamethasone<br />
0,1% 4 lần/ngày, Levofloxacin 0,5% 3<br />
lần/ngày, Diclofenac 0,1% 4 lần/ngày.<br />
Khi tra giãn đồng tử sau mổ, không có<br />
hiện tượng đóng góc xảy ra. Các kết quả<br />
được thể hiện bằng giá trị trung bình <br />
độ lệch chuẩn. Sử dụng test t ghép cặp,<br />
test t không ghép cặp, test t Bonferroni<br />
hoặc test Kruskal - Wallis để phân tích<br />
thống kê, với p < 0,05 được xem là có ý<br />
nghĩa thống kê.<br />
<br />
NA sau mổ không có sự khác biệt đáng<br />
kể giữa 3 nhóm. NA sau mổ của nhóm 1<br />
(13,0 3,1mmHg) thấp hơn rõ rệt so với<br />
NA trước mổ của nhóm 2 (17,0 <br />
3,9mmHg) (p = 0,04, test t không ghép<br />
cặp).<br />
Thị lực cải thiện rõ rệt sau mổ ở cả<br />
3 nhóm. Ở nhóm 1, thị lực tăng từ 1,3 <br />
0,76 log MAR trước mổ lên 0.29 0,54<br />
logMAR sau mổ (p