intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng giờ học chính tả cho học sinh lớp 4

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

53
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong những năm gần đây, các nhà trường tiểu học luôn quan tâm đến chữ viết qua các phong trào thi “Viết chữ đẹp”. Đây là một hình thức để tuyên truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em rèn chữ đẹp. Viết đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về quy tắc chính tả. Thực tiễn hiện nay, học sinh viết sai lỗi chính tả còn khá phổ biến. Xuất phát từ đặc điểm của chữ viết là “nói sao viết vậy” và chữ viết của chúng ta là chữ ghi âm Tiếng Việt. Chuyên đề sáng kiến này sẽ nêu một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ học chính tả cho học sinh lớp 4. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng giờ học chính tả cho học sinh lớp 4

  1.         UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN HẬU LỘC                PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN HẬU LỘC MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ HỌC CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4  Người thực hiện:   NGUYỄN NHƯ QUỲNH Chức vụ:                Giáo viên     Đơn vị:   TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH LỘC I                   SKKN thuộc môn: Tiếng Việt             
  2. Năm học:  2010 ­ 2011 PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ I.  Lời mở đầu       Thực hiện mục tiêu giáo dục và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục,   đào tạo thế  hệ  trẻ  thành những con người phát triển toàn diện đáp  ứng nhu  cầu của đất nước trong thời kỳ  mới, thì việc lựa chọn và đổi mới phương  pháp dạy học là yếu tố hết sức quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng   cao của xã hội đối với giáo dục. Bộ  Giáo dục ­ Đào tạo đã chủ  trương đổi  mới chương trình tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện   giáo dục toàn diện (đức ­ trí ­ thể ­ mỹ ­ và các kỹ năng cơ bản) đảm bảo sự  cân đối hài hoà giữa các lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường tiểu học.  Bởi vậy, yêu cầu của giáo dục hiện nay là phải đào tạo con người phát triển   toàn diện. Trong đó tiếng mẹ  đẻ  (tiếng phổ  thông) là một trong những điều  kiện đầu tiên quyết định, giúp học sinh nắm bắt được tri thức một cách dễ  dàng.      Chính tả là một phân môn của môn Tiếng Việt, là những chuẩn mực của   ngôn ngữ  viết, được thừa nhận trong ngôn ngữ  toàn dân. Mục đích của việc  dạy chính tả  là trở  thành phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp bằng chữ  viết, bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều  đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự quy định  có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép vận dụng quy tắc   2
  3. một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân. Một ngôn ngữ văn hoá không  thể  không có chính tả  thống nhất. Chính tả  thống nhất là một trong những   biểu hiện của trình độ văn hoá phát triển của một dân tộc.       Phân môn Chính tả trong nhà trường, rèn cho học sinh biết quy tắc và có  thói quen viết chữ ghi Tiếng Việt đúng với chuẩn, cùng với tập viết, tập đọc,   Chính tả giúp cho người học chiếm lĩnh được Tiếng Việt văn hóa, công cụ để  giao tiếp, tư  duy và học tập. Đối với người sử  dụng Tiếng Việt, viết đúng  chính tả chứng tỏ  đó là người có trình độ văn hoá về mặt ngôn ngữ. Viết đúng chính tả giúp cho   học sinh có điều kiện để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học   tập các bộ môn văn hoá, trong việc viết các văn bản, thư từ, ....       Bài chính tả  mang tính chất thực hành. Thông qua luyện tập liên tục kết  hợp với việc ôn tập các quy tắc chính tả  học sinh sẽ  có khả  năng viết đúng  các chữ  ghi Tiếng Việt. Do đó không có tiết học quy tắc chính tả  riêng. Các  quy tắc đều được học thông qua các hoạt động thực tiễn. Ngoài việc cung cấp  cho học sinh các quy tắc và rèn luyện để  các em có kĩ năng và thói quen viết  đúng chính tả, qua môn học này còn rèn cho học sinh một số phẩm chất: tính  kỉ  luật, tính cẩn thận (vì phải viết đúng quy tắc, viết nắn nót từng nét), óc  thẩm mĩ (vì phải viết ngay ngắn, thẳng hàng, đẹp đẽ), đồng thời bồi dưỡng  cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, cách biểu thị  tình cảm tốt đẹp đó trong  viết đúng chính tả.      Như vậy, phân môn Chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện   mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn và phát triển tiếng mẹ  đẻ  cho học sinh,  trong đó có năng lực chữ viết.     Trong những năm gần đây, các nhà trường tiểu học luôn quan tâm đến chữ  viết qua các phong trào thi “Viết chữ  đẹp”. Đây là một hình thức để  tuyên  3
  4. truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em rèn chữ  đẹp. Viết  đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về quy tắc chính tả.     Thực tiễn hiện nay, học sinh viết sai lỗi chính tả  còn khá phổ  biến. Xuất   phát từ đặc điểm của chữ viết là “nói sao viết vậy” và chữ viết của chúng ta  là chữ ghi âm Tiếng Việt. Vì thế một phần là do giáo viên và học sinh bị ảnh   hưởng phương ngữ, còn phát âm chưa chuẩn theo tiếng phổ  thông. Hơn nữa  trình độ  Tiếng Việt của một số  giáo viên còn hạn chế, việc nắm quy tắc  chính tả  chưa sâu nên rất lúng túng trong việc giảng dạy chính tả. Mặt khác  do một bộ phận phụ huynh chưa quan tâm đến việc rèn chữ viết cho con em.  Phần nữa là do ý thức học tập  của các em còn hạn chế, không đồng bộ…      Bản thân là một giáo viên đứng lớp, ngày ngày được nghe, được đọc và  được nhìn thấy trực tiếp các bài viết của học sinh, tôi đã phát hiện ra không ít  những lỗi sai cơ bản về chính tả mà học sinh lớp tôi chủ nhiệm mắc phải. Tôi  không khỏi suy nghĩ và trăn trở: Vậy phải làm thế nào đây để học sinh của tôi   viết chính tả cho đúng, cho đẹp, vì điều đó là vô cùng quan trọng, nó là sự liên   quan chặt chẽ giữa phân môn Chính tả với tất cả các môn học khác. Nhìn thấy  được tầm quan trọng đó, tôi đã nhanh chóng bắt tay ngay vào việc tìm ra các   giải pháp trước mắt, xây dựng các biện pháp cụ  thể  để  nhằm giúp học sinh   lớp tôi nâng cao chất lượng chữ  viết, cũng chính là “ Nâng cao chất lượng   giờ học chính tả”. II.  Thực trạng dạy học phân môn Chính tả trong nhà trường tiểu học        hiện nay 1. Thuận lợi:  ­ Năm học 2010 – 2011 tôi được phân công chủ  nhiệm và giảng dạy lớp 4B.  Lớp gồm 28 em (12 nữ, 16 nam). Hầu hết các em đều ngoan ngoãn, biết nghe  lời thầy cô dạy bảo, chịu khó học tập. 4
  5.  ­ Được Ban Giám hiệu nhà trường cùng với phòng Giáo dục ­ Đào tạo quan   tâm.  ­ Đồ dùng và thiết bị dạy học được trang bị khá đầy đủ.   ­ Với sự  đổi mới chương trình học hiện nay, các em được học tập rất tốt,   phù hợp với khả  năng của   mình. Đây là điều kiện thuận lợi cho giáo viên  giảng dạy.     2. Khó khăn:   ­ Học sinh lớp tôi phụ  trách đa phần là con gia đình nông nghiệp và ngư  nghiệp, cuộc sống khó khăn, bấp bênh, trình độ  dân trí chưa cao nên việc  chăm lo đến việc học tập của một số bộ phận phụ huynh đối với con em còn   rất hạn chế. Có nhiều em đi học còn hay quên vở hay bút, sách...  ­ Phân môn Chính tả  theo phân phối chương trình chỉ  có 1 tiết / 1 tuần, như  vậy là ít, nên việc rèn luyện chữ  viết đúng, viết đẹp cho học sinh còn nhiều   hạn chế.     Vì lẽ  đó mà bài làm khảo sát chữ  viết đầu năm lớp tôi có chất lượng như  sau:  STT Chữ viết Số  Tỉ lệ(%) Xếp loại lượng(em) 1 Chữ viết đúng, đẹp  0 em 0 2 Chữ viết đúng mẫu (chưa đẹp) 1 em 3,6% A 3 Chữ viết đẹp (không đúng  4 em 14,4% A mẫu)  4 Chữ viết sai tư thế, cẩu thả 10 em 36% B 5 Sai lỗi về âm 7 em 24,4% C 6 Sai lỗi về vần 6 em 21,6% C       Với kết quả khảo sát trên, lại càng thôi thúc tôi nhanh chóng tìm ra giải pháp   và biện pháp cụ  thể  giúp học sinh khắc phục dần những lỗi về  âm, vần, và  chữ  viết. Nhưng vì điều kiện không cho phép nên tôi chỉ  đi sâu tìm tòi, giải   5
  6. quyết một số vấn đề thuộc phạm vi cải tiến phương pháp dạy học phân môn  Chính tả theo hướng tích cực vào người học và chỉ thực hành, thực nghiệm ở  lớp 4B ­ Trường tiểu học Minh Lộc I ­ Hậu L ộc nh ằm “Nâng cao chất lượng  chữ viết cho học sinh”. PHẦN II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.  Các giải pháp thực hiện  1. Điều tra thực tế ­ phân loại đối tượng học sinh.  2. Xây dựng nề nếp tự quản, tự học, thi đua học tập, rèn nề nếp lớp học. Rèn   nề nếp tác phong cho học sinh khi ngồi viết chính tả.  3. Lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng  học sinh, phù hợp với từng loại bài chính tả, từng dạng bài tập chính tả.  4. Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, gần gũi quan tâm đến chất  lượng học sinh.  5. Kiểm tra, đánh giá học sinh theo tuần học, tháng học và kì học để nắm bắt   kết quả và kịp thời đề ra biện pháp thích hợp nhất.     Từ các giải pháp trên tôi đã tiến hành thực hiện các biện pháp sau: II.  Các biện pháp thực hiện 1.  Điều tra thực tế ­ Phân loại học sinh.       Điều tra thực tế, phân loại đối tượng học sinh là việc làm rất quan trọng   trong bất cứ  một quá trình dạy ­ học nào, việc làm này không chỉ  tạo điều  kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá trình lựa chọn phương pháp dạy học mà   còn là cơ hội để học sinh được học theo khả năng, đây là điều cần thiết trong  6
  7. việc nâng cao chất lượng giờ  Chính tả. Nếu như  không phân loại đối tượng   học sinh sẽ  khó cho  việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng  đối tượng học sinh. Vì vậy sau khi  ổn định tổ  chức lớp trong vòng hai tuần  đầu, tôi đã từng bước tiến hành điều tra học sinh. Qua bài kiểm tra đầu năm   của các em, qua thực tế 2 bài viết trong 2 tuần đầu, ngoài ra tôi còn tham khảo   thêm qua giáo viên dạy các em năm trước. Sau đó tôi tiến hành phân loại học   sinh theo tiêu chí chữ viết:  ­ Những em viết đúng mẫu nhưng chưa đẹp, hoặc viết đẹp nhưng chưa đúng  mẫu được xếp loại A (có 5 em) đó là các em: Hưng, Hoàng Dung, Nguyễn  Anh, Uy, Nhung.  ­ Những em viết đúng chính tả nhưng sai thế chữ, chữ viết còn cẩu thả được  xếp loại B (có 10 em) đó là:  Tô Sơn, Thuỳ Trang, Vũ Trang, Phạm Phương,   Trọng, Phạm Anh, Chiến, Bình, Thuý, Khánh.  ­ Những em viết sai nhiều lỗi về âm, vần, dấu thanh xếp loại C (gồm 13 em)   như  em  Tình, Dân, Văn,  Cương, Trường,  Đới Phương, San, Nguyễn Sơn,   Tuyết, Thắm, Hằng, Thắng, Thương.    Qua điều tra tôi chia học sinh thành ba nhóm. Hàng ngày, hàng giờ  trên lớp  tôi quan tâm gần gũi đặc biệt tới các em, tạo ra các nhóm thi đua học tập, phân  công những em chữ viết khá trong lớp kèm cặp, động viên, giúp nhau cùng rèn  luyện. Từ  việc phân loại đúng đối tượng học sinh tôi tiến hành đi vào xây   dựng nề nếp lớp. 2. Xây dựng nề nếp tự quản, thi đua học tập, rèn tác phong khi ngồi viết   chính tả.       Ngay sau khi phân loại học sinh theo nhóm chữ  viết, tôi bắt tay ngay vào   việc xây dựng nề nếp tự quản, tự học, nề nếp thi đua học tập vì tôi thiết nghĩ  trong dạy chính tả  mọi hoạt động học tập đều phải là hoạt động có ý thức,   học sinh phải thấy rõ được tầm quan trọng của chính tả  trong quá trình học   7
  8. để từ đó xây dựng cho mình ý thức tự học, học theo bạn (tạo ra những nhóm   tự  học trong lớp để  học sinh có cơ  hội giúp đỡ  nhau), đánh giá nhận xét kịp   thời để tạo không khí thi đua học tập (bạn với bạn, nhóm với nhóm), từ đó rèn  nề nếp lớp học. Trong giờ học chính tả tôi luôn chú ý giúp học sinh nắm được   các quy tắc chính tả, cách viết đúng chính tả  mà không đòi hỏi ghi nhớ  máy  móc từng trường hợp chính tả riêng biệt. Rèn luyện được khả năng tư duy cho  học sinh. Trong quá trình tổ chức học chính tả, học sinh vận dụng các thao tác  tư duy như phân tích, so sánh đối chiếu, khái quát hoá, trừu tượng hoá để rút ra  quy tắc chính tả.      Mặt khác, rèn tư thế ngồi viết chính tả cũng hết sức quan trọng. Trước hết   muốn học sinh viết đẹp thì người giáo viên phải rèn nề  nếp, tác phong cho   học sinh khi viết, tư thế ngồi viết của học sinh là yếu tố quan trọng đầu tiên   giúp học sinh có nét chữ đẹp. Vì vậy ngay từ buổi đầu bước vào lớp, tôi chú ý  đến tư thế ngồi viết của từng em. Nhiều em lên lớp 4 rồi mà khi viết mắt cúi  sát xuống vở, ngực tì áp vào cạnh bàn, ngồi vẹo cả lưng... Để giúp những em  này ngồi đúng tư thế khi viết, tôi đã giải thích cho các em hiểu vì sao cần phải   ngồi viết đúng tư  thế  (giúp chữ  viết của các em ngay ngắn, có lợi cho sức  khoẻ...), nếu ngồi xiêu vẹo thì sẽ  bị tật vẹo cột sống, tì ngực vào bàn sẽ làm  cho ngực bị lép, cơ quan hô hấp làm việc sẽ khó khăn hơn, nhìn sát xuống vở  sẽ  bị  cận thị,...sau đó tôi làm mẫu cho học sinh quan sát và yêu cầu học sinh   làm theo tư thế ngồi viết đúng: ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào  mép bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở  khoảng 20 ­ 25 cm, tay phải cầm bút, tay   trái đặt phía trước bên trái quyển vở  giữ  mép vở  khi viết không bị  xê dịch,   quyển vở được đặt hơi chếch về phía tay trái, hai chân để  thẳng, vuông góc.  Rồi tôi hướng dẫn cho các em cách cầm bút sao cho dễ viết, không quá cao sẽ  khó viết, nếu quá thấp mực dây ra tay sẽ làm bẩn bài viết. Khi hướng dẫn cho   học sinh tôi khuyến khích các em thực hiện, em nào làm đúng với những gì cô   8
  9. giáo hướng dẫn sẽ được tuyên dương. Cứ  như thế trong các tiết học (cả tiết   Chính tả  và các tiết học các môn học khác) tôi luôn nhắc nhở  các em nhớ  và   ngồi đúng, tạo thói quen khi viết, đồng thời rèn cho các em đức tính cẩn thận,  kiên trì trong học tập. Nhờ sự uốn nắn thường xuyên đó mà các em dần có ý   thức và thói quen tốt trong khi viết bài và làm bài.     Khi học sinh đã có được những thói quen và ý thực tự giác trong học tập tôi  nhanh chóng lựa chọn các phương pháp và hình thức dạy học trong từng dạng   bài chính tả. 3.  Lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp.     Phân môn Chính tả lớp 4 có hai dạng bài cơ bản đó là:  Dạng bài chính tả   đoạn  ­ bài và dạng bài chính tả âm ­ vần.  * Dạng bài chính tả đoạn ­ bài có hai dạng bài cơ bản đó là: chính tả nghe ­   viết và chính tả nhớ ­ viết.  * Dạng bài chính tả âm ­ vần là các dạng bài tập chính tả.      Việc lựa chọn các phương pháp giáo dục phù hợp theo từng dạng bài hết   sức cần thiết. Phương pháp dạy phân môn chính tả không chỉ có một mà là có  rất nhiều phương pháp thích hợp để  giáo viên có thể  lựa chọn cho phù hợp   với từng dạng bài chính tả. Tôi đã lựa chọn các phương pháp sau đây để  áp  dụng vào từng dạng bài chính tả trong quá trình giảng dạy cho học sinh: ­ Phương pháp điều tra, phân loại. ­ Phương pháp quan sát (trực quan) ­ Phương pháp phân tích. ­ Phương pháp gợi mở, vấn đáp. ­ Phương pháp luyện nói. ­ Phương pháp thực hành. ­ Phương pháp trò chơi. 3.1. Dạng bài chính tả đoạn ­ bài  9
  10. 3.1.1. Dạng bài chính tả  nghe ­ viết: Đặc điểm của loại chính tả  này là học  sinh nghe từng câu, từng đoạn do giáo viên đọc (có bài được trích trong các  bài tập đọc đã học, có bài lấy từ bên ngoài), nhẩm lại để  xác định hình thức   viết của từng từ, rồi viết. Việc nghe hiểu  ở đây giữ  vai trò quan trọng đặc   biệt, có tác dụng quyết định đối với việc viết đúng chính tả của học sinh.  * Yêu cầu đối với giáo viên khi dạy dạng bài chính tả  này giọng đọc cần  phải thong thả, rõ ràng. Điều quan trọng nhất là giáo viên cần phải phát âm  chính xác. Khi đọc từng câu giáo viên chỉ đọc mỗi câu 2 lần, trường hợp đọc  câu dài, giáo viên có thể  đọc ngắt từng phần rõ nghĩa, giáo viên không nên   đọc từng từ riêng lẻ vì như vậy học sinh sẽ thiếu chỗ dựa ngữ nghĩa để  xác  định cách viết.  * Để hướng dẫn học sinh viết chính tả đoạn ­ bài có kết quả, tôi đã áp dụng  một số biện pháp như sau:   ­ Giúp học sinh nắm được hoặc nhớ lại nội dung đoạn ­ bài cần viết.    ­ Giúp học sinh nhận xét về  các hiện tượng chính tả  chính tả  đáng chú ý  trong bài và tập viết trước những trường hợp dễ viết sai.  ­ Tổ chức cho học sinh viết bài theo đúng tốc độ quy định.  ­ Chấm, chữa bài viết cho học sinh. 3.1.2.  Dạng bài chính tả  nhớ  ­ viết:    Ở  dạng bài này biện pháp thực hiện   tương tự như dạng bài nghe ­ viết, chỉ khác ở phần viết bài (học sinh tự viết   bài theo trí nhớ, giáo viên không đọc bài).  3.1.3. Cách dạy một bài chính tả đoạn ­ bài:  Thực tế chứng minh là không có  một mẫu cứng nhắc cho mọi trường hợp. Vì thế  tôi đã lựa chọn cho mình  cách dạy một bài chính tả đoạn ­ bài như sau: VD:   Khi dạy bài chính tả tuần 7 (TV4­T1)   A. Bài cũ: 1 HS lên bảng làm lại một bài tập chính tả  tiết trước (hoặc viết   một số từ khó, hoặc nêu các quy tắc chính tả). 10
  11. ­ 2 HS lên bảng tìm từ láy có tiếng chứa âm s/x. (BT3 chính tả tuần 6)  B. Bài mới:     a. Giới thiệu bài: GV giới thiệu mục đích yêu cầu của tiết học.   b. Hướng dẫn chính tả:   ­ GV + HS đọc bài viết chính tả một lượt.     ­ Nêu câu hỏi giúp học sinh nắm được ý chính tả của bài chính tả sắp viết: VD:  Theo em tác giả viết bài thơ này nhằm mục đích gì?  ­ Hướng dẫn HS nhận xét về các hiện tượng chính tả cần chú ý trong bài:       VD:   Cần ghi tên bài vào giữa dòng; dòng 6 chữ biết lùi vào 1 ô; dòng 8 chữ  viết sát lề; chữ đầu các dòng thơ phải viết hoa; viết hoa tên riêng hai nhân vật   trong bài thơ là Gà Trống và Cáo; lời nói trực tiếp của Gà Trống và Cáo phải   viết sau dấu hai chấm, mở ngoặc kép.     ­ Tổ chức cho HS tập viết vào giấy nháp những từ, tiếng khó dễ sai.   VD:  dụ, loan tin, quắp đuôi...  ­ Giúp học sinh phân tích cấu tạo chữ ghi các từ (tiếng) để học sinh phân biệt   chính tả, tránh viết sai lỗi.  VD:          d + u  + thanh nặng   = dụ  khác với  giụ, rụ                 l + oan + thanh ngang = loan khác với loang, noan, noang                   qu + ăp + thanh sắc  = quắp khác với quắc, quắt  ­ GV đọc bài viết từng câu hay cụm từ 2 lần ­ HS viết bài (hoặc HS chép bài  theo trí nhớ)                                        ­ GV đọc lại bài viết ­ HS soát bài (HS đổi chéo bài tự soát lỗi)                 c. Chấm và chữa bài chính tả:   ­ Mỗi giờ  Chính tả, tôi chọn chấm 1/3 bài của HS. Đối tượng được chọn   chấm bài ở mỗi giờ là :              + Những HS đến lượt được chấm bài.              + Những học sinh viết hay mắc lỗi, cần được rèn luyện. 11
  12.   Qua những bài chấm đó tôi rút ra nhận xét và nêu hướng khắc phục lỗi   chính tả  cho cả  lớp. Tôi giúp cả  lớp tự  kiểm tra lại bài và chữa lỗi chính tả  như: GV viết sẵn bài viết lên bảng phụ; học sinh tự đổi chéo vở  và tự  kiểm  tra vở cho nhau; có khi tôi đọc lại từng câu chỉ dẫn cách viết từng chữ dễ sai   chính tả sau đó học sinh tự rà soát lại bài viết của mình.  * Với cách dạy một bài chính tả  đoạn bài như  trên tôi nghĩ rằng chất lượng  không chỉ chữ viết mà khả năng tư duy của học sinh lớp tôi sẽ dần dần được  nâng lên. 3. 2. Dạng bài chính tả âm ­ vần.    Chính tả âm ­ vần chính là các dạng bài tập của phân môn Chính tả. Thông  qua các bài tập chính tả  rèn luyện cho học sinh cách phát âm, củng cố  nghĩa   từ, trau dồi về  ngữ  pháp tiếng Việt, góp phần phát triển một số  thao tác tư  duy cơ bản như so sánh, liên tưởng, ghi nhớ....Ngoài ra thông qua nội dung các  bài tập chính tả, mở  rộng vốn hiểu biết về  cuộc sống, con người cho học   sinh. Thông qua cách tổ  chức thực hiện các bài tập chính tả, bồi dưỡng cho   học sinh một số đức tính và thái độ  cần thiết trong công việc như: cẩn thận,  chính xác, có óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm...  3.2.1. Nội dung các bài chính tả  âm ­ vần là luyện viết đúng các từ  có âm ­  vần ­ thanh dễ viết sai chính tả do ảnh hưởng phương ngữ +  Phụ âm đầu:  l/n; tr/ch; s/x; r/d/gi.    + Vần: an/ang, ăn/ăng, ân/âng, uôn/uông,  ươn/ương, iên/iêng, ăt/ăc, im/iêm,  iêt/iêc.....   +  Thanh: thanh hỏi / thanh ngã.  3.2.2. Bài chính tả âm ­ vần có nhiều kiểu bài:  * Kiểu bài điền âm (vần) vào chỗ trống hoặc đạt dấu thanh trên chữ chưa có  dấu thanh.    VD:  Điền vào chỗ trống:  12
  13.  a) l hay n  (Không thể .... ẫn chị Chấm với bất cứ người nào khác. Chị có thân  hình …ở …ang, cân đối. Hai cánh tay béo …ẳn, chắc …ịch. Đôi …ông mày)...  b) an hay ang   (Mấy chú ng…con d....hàng ng…lạch bạch đi kiếm mồi)…  * Kiểu bài điền tiếng vào chỗ trống:     VD:  Điền vào chỗ trống tiếng có âm đầu r, d hay gi ( ...Diều bay, diều lá tre  bay lưng trời. Sáo tre, sáo trúc bay lưng trời. ...đưa tiếng sáo, ...nâng cánh ...).  * Kiểu bài chọn tiếng trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh đoạn văn, bài văn.    VD:   Chọn cách viết đúng từ đã cho trong ngoặc đơn (BTCT2/trang 16/tuần  2)     “ Rạp đang chiếu phim thì một bà đứng dạy len qua hàng ghế ra ngoài. Lát  ( sau / xau), bà trỏ lại và hỏi ông ngồi hàng ghế đầu (rằng / rằn):  ­  Thưa ông phải (chăng / chăn) lúc ra ngoài tôi vô ý dẫm vào chân ông?  ­  Vâng, nhưng (sin / xin) bà đừng (băng khoăng / băn khoăn), tôi không  (sao / xao).  ­ Dạ  không! Tôi chỉ  muốn hỏi để  (sem / xem) tôi có tìm đúng hàng ghế  của   mình không.”  * Kiểu bài tìm tiếng có nghĩa trong bảng kết hợp phụ âm đầu ­ vần.  * Kiểu bài đặt câu để phân biệt các từ có hình thức chính tả dễ lẫn.  * Kiểu bài giải câu đó để phân biệt các từ có hình thức chính tả dễ lẫn.  * Kiểu bài tìm từ láy phù hợp với mô hình cấu tạo đã cho.  Mỗi một kiểu bài tập cần có mỗi cách tổ  chức khác nhau để  tạo sự  hào  hứng, thích thú cho học sinh trong học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học   chính tả âm ­ vần.    3.2.3. Luyện viết đúng phụ âm đầu.      Trong bài chính tả  nghe ­ viết học sinh phải qua ba hoạt động: tai nghe ­  mồm đọc thầm ­ tay viết. Lời đọc của thầy phải một lần thông qua lời đọc   của trò mới thể  hiện thành chữ  viết trong bài chính tả. Nếu thầy đọc đúng  13
  14. nhưng trò nhận sai thì vẫn cứ viết sai. Từ những điều vừa nói trên ta có thể đi   tới kết luận:  Kết hợp với rèn phát âm khi dạy chính tả cực kỳ quan trọng.     Để  giúp học sinh viết đúng một số  phụ  âm đầu dễ  lẫn lộn như  ch/tr; x/s;   gi/d /r;     ng/ngh/gh, l/n, ... trong mỗi giờ chính tả  tôi kết hợp nhiều phương  pháp dạy học một cách linh hoạt, trong từng bài cụ thể đối với từng cặp phụ  âm mà học sinh hay sai để  cho bài dạy sinh động, giúp các em dễ  phân biệt   được cách viết đúng, sai. Chẳng hạn, với phương pháp trực tiếp, tôi cho học   sinh nghe, đọc, nhận xét các chữ viết đúng bằng mắt, tập viết vài lần chữ khó  vào vở  nháp cho quen tay. Bước đầu tôi đọc toàn bài, sau đọc từng câu, từng  cụm từ, chú ý nhấn mạnh những tiếng khó để  luyện tập cách nghe cho học   sinh. Tiếp theo tôi đặt câu hỏi bằng phương pháp gợi mở vấn đáp để giúp các  em nhận ra những tiếng, từ các em hay viết sai. Sau đó tôi cho một số em nhắc  lại một số quy tắc chính tả, các em đã được học.   ­  Những âm đi với “K” chỉ có thể là: e, ê, i, y ( VD: kể;  kẻ, kỉ, kỹ…)  ­  Những âm còn lại đi với “C”: o, ơ, a, u…. ( VD: có, cô, ca, cụ…)   ­ Những âm đi với “gh, ngh” chỉ  có thể  là: e, ê, i (VD: ghế; ghé; ghi, nghỉ;  nghé….)    Sau khi các em nhắc lại được một số quy tắc chính tả, thì cho các em được  luyện viết nhiều lần trên giấy nháp để các em nhớ.  a.  Dạng bài tập phân biệt r/d/gi:  Đây là dạng bài tập khó, đa số  các em còn  rất lúng túng khi tìm ra quy tắc phân biệt khi nào viết d, r hay gi. Vì vậy với  bài tập so sánh trên tôi cho các em phân biệt bằng nhiều cách như  sau: Đầu  tiên cho các em dựa vào nghĩa để phân biệt.   VD:    Bài tập chính tả trang 38 ­ tuần 4 ­ TV4  Bước 1:  Cho học sinh đọc kỹ đoạn văn, tìm ra những tiếng từ có phụ âm đầu   r/d/gi thích hợp để điền vào chỗ trống:     ­  Học sinh tìm được là: gió, diều  14
  15.  Bước 2:  Cho học sinh viết trên nháp, 2 em lên bảng viết (GV nhận xét, giảng  giải cách viết) phát âm, giải nghĩa từ, tìm từ có tiếng đó.   ­  Với tiếng  “gió”, “diều” gi + o + thanh sắc = gió d + iều + thanh huyền + diều  + Phát âm (gv làm mẫu, gọi 1; 2 học sinh phát âm lại)  gi ­ o ­ gio ­ sắc ­ gió;  d ­ iêu ­ diêu ­ huyền ­ diều.   + Giải nghĩa (giáo viên có thể gợi ý cho học sinh giải nghĩa).  ? Em hãy đọc lại câu có chứa tiếng “diều” mới tìm được trong bài và cho cô  biết “diều” ở đây là gì? (chỉ vật được làm bằng giấy hoặc vải dán vào khung  tre, có thể bay được lên bầu trời theo hướng gió).  + Học sinh tìm từ có tiếng “diều”: cánh diều, thả diều, diều hâu,…  Bước 3:  Cho học sinh phân biệt r/d/gi  bằng cách lập bảng: o iêu r ro, co ro, rò rỉ, đầu rò,...  riêu, riêu bông.  d do, tự do, dò tìm, do dự,...  diêu, cách diều, kỳ diệu,... gi gio, gió thổi, giỏ tích,...  không có   VD: Hay trong (bài tập chính tả số 2 trang 115/tuần 30/TV4), tôi hướng dẫn  học sinh cách lập bảng để phân biệt r/d/gi: a ong ông ưa r ra   lệnh,   ra   vào,  Rong chơi, đi  rộng rãi, rỗng,  rửa sạch, thối  ra   mắt,   rà   soát,  rong, rong biển,  rồng, nhà  rữa, dao rựa,... rã rời,.... bán hàng rong,... rông,... d da   thịt,   da   trời,  dòng nước, dõng  cơn giông quả dưa, quả  giả da,... dạc, dong dỏng,  dừa, dứa gai,... 15
  16. dỏng tai,...  gi gia đình, tham  giong buồm,  giống nhau,  giữa chừng, ở  giữa,... gia, giá cả, giá  gióng hàng,  giống nòi,... đỗ, giã gạo, giả  giọng nói, giong  dối, già nua,... trống mở cờ,...    Gợi ý cho học sinh điền từ bằng cách dùng câu hỏi gợi ý. Em hãy ghép các  từ đã cho với âm a?, vần ong?, vần ông?, vần ưa?. Học sinh tìm đến đâu tôi  ghi lên bảng đến đấy. Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa, tôi đều phải theo  dõi, quan tâm uốn nắn từng em. Những em viết sai s/x là do các em phát âm  sai. Khi dạy tôi phải phát âm lại cho các em nghe, phát âm “s” cong lưỡi, đầu  lưỡi chạm ngạc phía trên. Còn viết là “x” khi đọc lưỡi thẳng đầu lưỡi đưa ra  phía ngoài, luồng hơi thẳng ra ngoài. Sau đó tôi cho cả lớp phát âm lại nhiều  lần cho đúng, viết bảng con theo sự phát âm của cô như: Thi viết nhanh và  đúng, cô đọc “sắp sửa” cả lớp viết vào vở nháp, bạn nào viết sai bị đứng lên  phát âm lại 10 lần hoặc một số từ có tiếng khác như (suôn sẻ, xanh xao, xuất  sắc, ...). Hoặc khi dạy chính tả tiết thứ 3, phần luyện tập tôi chọn bài tập 2a  (bài lựa chọn) giúp các em làm quen với cách phân biệt ch/tr qua các dạng bài  tập.  b. Dạng bài tập:   Điền vào chỗ trống ch hay tr ?  VD: “ Như …e mọc thẳng, con người không …ịu khuất. Người xưa có câu: “  …úc dẫu …áy, đốt ngay vẫn thẳng”. …e là thẳng thắn, bắt khuất! Ta kháng  chiến, …e lại là đồng …í …iến đấu của ta. …e vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta  mà cùng ta đánh giặc.”  ­ Trước khi làm bài tôi cho 2; 3 em đọc to nội dung yêu cầu của bài tập, cả  lớp đọc thầm. 16
  17.  ­ Sau khi học sinh hiểu được nội dung yêu cầu bài tập, tôi tiến hành tổ chức   các hình thức luyện tập như sau:    + Giáo viên phát 2 băng giấy cho 2 em học sinh thi làm bài tại chỗ. Cả  lớp   làm bài trên vở bài tập.   + Mỗi em làm bài xong (trên băng giấy) dán bài lên bảng đọc kết quả.     + Cả  lớp và giáo viên nhận xét về  nội dung lời giải, phát âm, kết luận bài  làm đúng. Bạn nào mà làm đúng nhanh nhất là thắng cuộc.   + Cả lớp và giáo viên nhận xét và sửa lỗi bài làm trên bảng lớp được dán.  “ Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất. Người xưa có câu: “ Trúc   dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Tre là thẳng thắn, bất khuất! Ta kháng chiến,   tre lại là đồng chí chiến đấu của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà đánh   giặc”.   + Những em thắng cuộc được tôi khen ngợi và cả lớp thưởng một tràng vỗ  tay khuyến khích.   Để phân biệt được s/x tôi đưa ra cho các em nhiều dạng bài tập như dạng   câu đố giúp học sinh học tập sôi nổi hơn. Từ đó các em làm quen và biết cách  dùng đúng khi viết chính tả.   c. Hoặc dạng bài tập:  Tìm các từ láy chứa tiếng bắt đầu bằng s hay x :  VD: ­  suôn sẻ, sạch sẽ, sẵn sàng, sung sức, sung sướng, sù sì, sùng sục,…. ­ xôn xao, xanh xao, xu xu, xụt xịt, xụt xùi, xinh xinh,…  Với những dạng bài tập trên tôi đều tổ chức cho các em trao đổi theo nhóm.  Sau đó đại diện nhóm lên thực hiện hay trình bày, các nhóm khác nhận xét bổ  sung, giáo viên chốt lại lời giải đúng, để tuyên dương những nhóm làm đúng.   Để giúp học sinh lớp tôi viết đúng chính tả, cũng như biết phân biệt được các   phụ  âm đầu, tôi thường linh hoạt khi dạy chính tả  như  (dạy tiết 5 tuần 5).   Các bài tập trong sách giáo khoa được đưa ra phân biệt  l/n hoặc en/eng,  cho  17
  18. các em được luyện đọc, viết nhiều và từ  việc hiểu nghĩa của từ  các em dễ  nhớ và viết đúng chính tả.   Với việc dạy phân biệt ?/  hay tr/ch các em hay nói sai và dẫn đến viết sai,  nên tôi luôn luyện cho các em như  các hình thức luyện tập  s/x  nói trên. Khi  dạy chính tả, trước khi viết bài tôi luôn coi trọng việc tìm luyện viết chữ khó  (chữ các em hay viết sai) trong bài. Đối với bước luyện viết từ khó này, ở tiết   nào tôi cũng thực hiện và trước hết cho các em tìm trong đoạn bài viết những   từ nào em thấy khó viết, học sinh nêu ra trước lớp sau đó giáo viên cho các em  được luyện viết trên giấy nháp và gọi vài em lần lượt lên bảng viết, học sinh   và giáo viên nhận xét đúng ­ sai.     Song song với việc phân biệt phụ âm đầu, tôi luyện cho các em viết đúng   các vần khó trong các tiếng, từ.    3.2.4.  Luyện viết đúng tiếng có vần khó.     Trong quá trình viết các em thường gặp phải những tiếng, từ  có vần khó:  uyu/ uôn/oang/uyết… một số  tiếng có vần dễ  lẫn lộn: oe/eo/uê/oa/ao/…một  số từ khó: “cuội” khác với “cụi” trong bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”; Chiêm,  Tuyên, khúc khuỷu, gập ghềnh  trong bài “Mười năm cõng bạn đi học”…Để  rèn viết đúng các lỗi này, trước khi viết bài tôi gọi học sinh phân biệt từng   tiếng, cho học sinh khác nhau nhận xét và thống nhất cách viết. ch + iêm + thanh ngang = chiêm khác với chim t + uyên + thanh ngang = tuyên khác với tiên kh + uyu + thanh hỏi = khuỷu   Vần khó nên khi phân tích tôi chú ý nhấn giọng vào phần vần, sau đó cho học  sinh viết nháp, lớp nhận xét, tự  sửa sai. Với những bài viết có ít những vần  khó tôi có thể lấy thêm một số tiếng có vần khó đó, đọc cho học sinh viết, để  khắc sâu vần cần chú ý. Trong các tiết chính tả tôi thường chọn các dạng bài   18
  19. tập khác nhau cho các em được làm nhiều, luyện viết nhiều để  các em nhớ  cách viết đúng.   3.3.  Chấm, chữa bài chính tả.       Để  nâng cao chất lượng giờ  chính tả, việc chấm chữa bài cũng rất quan  trọng, giúp các em biết tự sửa lỗi sai của mình, nhớ viết đúng, lần sau không  bị  mắc lỗi sai đó. Có nhiều hình thức chấm chữa bài, những khi dạy thì tôi  thường sử dụng biện pháp như  sau:­ Sau khi viết bài xong, cô đọc chậm cho  các em tự soát bài sau đó cho các em tự đổi vở cho nhau (2 em ngồi cạnh nhau)   theo sự chỉ đạo của giáo viên. Nếu phát hiện ra lỗi sai của bạn, kịp thời chỉ ra   cho bạn sửa lại ngay. Sau khi các em thực hiện xong, tôi cho các em nêu kết  quả mình đã được kiểm tra vở bạn. Tôi hỏi sau khi các bạn kiểm tra bài bạn  xong: (Em thấy có bài nào không viết sai lỗi nào hoặc bài nào sai 2; 3 lỗi   không? bài nào còn sai rất nhiều lỗi?). Giáo viên kịp thời tuyên dương những   bạn không sai lỗi nào. Từ  việc học sinh tự  chữa lỗi theo tôi có những điểm  tích cực sau đây:  +  Các em được tiếp xúc (có thức) với văn bản viết một lần nữa, qua đó góp  phần cũng cố những kiến thức vừa được hướng dẫn.  +  Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện ra những lỗi chính  tả. Từ đó, các em có điều kiện để tái hiện lại quy tắc viết đúng chính tả cho  mỗi trường hợp. Nên góp phần cũng cố, khắc sâu hơn cho học sinh những   khả năng chính tả.   ­  Trường hợp, những em học sinh yếu, chuyên viết sai lỗi chính tả thì không   tự  phát hiện được lỗi của bạn. Đối với những em này, giáo viên đi đến từng   em để hướng dẫn cách sửa lỗi. Từ đó giúp các em có thể nắm bắt được luật  chính tả một cách thuận tiện. 19
  20.    ­  Thông qua việc tự  chữa lỗi của các em, tôi đã giáo dục các em tính cẩn   thận, chính xác, không để  sai sót đồng thời cũng kết hợp giáo dục lòng trung   thành cho các em, sai lỗi nào bảo bạn sửa lỗi ấy.    ­   Hình thành ý thức giữ  gìn đồ  dùng của bạn cũng như  của mình (giữ  vở  sạch, viết chữ  đẹp), không được làm rách, bẩn vở  của bạn trong quá trình  chữa soát lỗi.   ­  Hình thành ở các em ý thức nhiệm vụ được giao (tính tự giác).   Để thực hiện mục tiêu này, tôi tiến hành thường xuyên đối với tất cả các   tiết Chính tả. Tạo cho các em thói quen và giữ trật tự khi trao đổi bài. Tôi luôn   tuyên dương và khuyến khích những em viết đúng, viết đẹp. Với những biện  pháp trên, học sinh rất thích viết đúng và đẹp để cho bạn không tìm ra lỗi sai   của mình và được cô khen trước lớp. Chính vì thế chỉ một thời gian không lâu  tôi đã thu được kết quả đáng khả quan.               3.4. Luyện viết chữ đúng, đẹp.   Để nâng cao chất lượng giờ Chính tả, thì việc luyện chữ viết cho các em là   rất cần thiết. Viết đẹp nó còn thể  hiện được tính cách của con người “Nét   chữ  ­ nết người”. Trong lớp tôi dạy có rất nhiều em viết chữ  chưa đẹp vì   nhiều lý do. Đó là các em viết chưa đúng kích cỡ: độ  cao, rộng của các con  chữ, khoảng cách giữa các chữ  hay các con chữ  chưa đều, các nét chữ  chưa  liền mạch….Khắc phục những tình trạng trên tôi đã lập kế  hoạch sử  dụng   các biện pháp khác nhau áp dụng để  từng đối tượng. Tôi hướng dẫn các em  cách nhớ độ cao con chữ bằng cách chia độ cao các chữ cái thành 4 nhóm (đối  với chữ viết thường).  ­ Nhóm 1:   Nhóm chữ cao 1 đơn vị như: a, ă, â, c, e, ê, i, n, m, o, r, s, u, v, x…  ­ Nhóm 2:   Nhóm chữ cao 1,5 đơn vị như chữ:  t.  ­ Nhóm 3:  Nhóm chữ cao 2 đơn vị như: đ, d, p, q.  ­ Nhóm 4:   Nhóm chữ cao và dài 2,5 đơn vị như chữ b, g, h, k, l, y. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1