intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh lớp 8 - 9 thông qua sử dụng phương pháp tương tự trong giải Toán

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

410
lượt xem
53
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh lớp 8 - 9 thông qua sử dụng phương pháp tương tự trong giải Toán bao gồm những nội dung về cơ sở lý luận; thực trạng của vấn đề; giải pháp và tổ chức thực hiện; kiểm nghiệm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh lớp 8 - 9 thông qua sử dụng phương pháp tương tự trong giải Toán

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TOÁN CHO HỌC  SINH LỚP 8 ­9 THÔNG QUA SỬ DỤNG  PHƯƠNG  PHÁP TƯƠNG TỰ TRONG GIẢI TOÁN Người thực hiện:  Nguyễn  Thị Hòa Chức vụ:  Giáo viên Đơn vị công tác:  Trường THCS Lê Quý Đôn SKKN thuộc môn: Toán
  2. MỤC LỤC TT Nội dung Trang A Đặt vấn đề     2 B Giải quyết vấn đề 4 I. Cơ sở lý luận. 4 II. Thực trạng của vấn đề 4 III.Giải pháp và tổ chức thực hiện 5 1.  Sử dụng phương pháp tương tự để thu gọn lời giải bằng  5 cách không lặp lại các chứng minh như nhau  2. Sử dụng phương pháp tương tự để phát hiện tính chất mới,  7 đề xuất bài toán mới. 3. Sử dụng phương pháp tương tự để tìm tòi cách giải khác  8 cho một bài toán. 4. Giải các bài toán cực trị với nội dung tương tự hoặc giải  10 bằng phương pháp tương tự. 5­ Sử dụng phương pháp tương tự trong giải toán chứng minh  12 bất đẳng thức. IV. Kiểm nghiệm. 15 C  Kết luận  16 2
  3. A­ ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với sự phát triển của đất nước, sự nghiệp giáo dục cũng đổi mới  không ngừng. Các nhà trường càng chú trọng đến chất lượng toàn diện bên  cạnh sự  đầu tư  thích đáng cho giáo dục. Với vai trò là môn học công cụ, bộ  môn Toán đã góp phần tạo điều kiện cho các em học tốt các môn khoa học tự  nhiên khác. Trong dạy học toán, một việc làm không thể  thiếu được đối với mỗi   giáo viên  là cung cấp cho các em kiến thức, phương pháp học tập để đạt kết   quả tốt nhất. Phương pháp tương tự hoá là một trong những phương pháp cần được   áp dụng trong quá trình dạy học sinh học toán, đặc biệt là dạy học sinh giải   toán. Từ  một bài toán học sinh phải đưa ra được những bài toán tương tự.  Từ  một cách giải của 1 bài toán học sinh phải tìm ra được cách giải tương  tự... có như vậy mới: ­ Phát huy được tính tích cực, chủ động của người học. ­ Thông qua việc giải bài tập mà hình thành ở các em kỹ năng, kỹ xảo. ­ Trước bất kỳ một bài toán nào các em cũng có thể tìm ra được những  cách giải khác nhau (nếu có thể), hấp dẫn thú vị hơn.  Xuất phát từ  lý do trên, tôi đã chọn và nghiên cứu đề  tài:    “Nâng cao  chất lượng môn Toán cho học sinh lớp 8­9 thông qua sử  dụng phương   pháp tương tự trong giải toán”      (Trường THCS Lê Quý Đôn­Bỉm Sơn )  3
  4. Trong lời giải nhiều bài toán, ta gặp những từ  chứng minh tương tự  như trên, giải tương tự như bài.... Tương tự được hiểu là giống nhau, có một  số  nét giống nhau: Hoàn toàn giống nhau, gần hoàn toàn giống nhau. Do đó,  sự vận dụng tương tự trong chứng minh trong hình học rất đa dạng trong Số  học và Đại số lại vô cùng là phong phú.   Trên cơ sở  thực hiện đổi mới phương pháp  dạy học theo hướng phát  huy tính tích cực của học sinh trong học tập , làm   cho học sinh chủ  động  nắm bắt kiến thức, chủ   động tư  duy hình thành các khái niệm, các công  thức…  thì người thầy phải chủ đạo, hướng học sinh nắm bắt kiến thức một  cách khoa học, giáo viên cần tung ra những tình huống nhằm kích thích học  sinh ham tìm tòi sáng tạo. Giáo viên có thể  đưa ra những dạng bài cụ  thể,  mang tính đơn lẻ, có tính chất dễ  dàng lĩnh hội và đặt   học sinh vào tình  huống làm thế  nào để  có được khái niệm, bài toán tương tự  của những bài  toán đơn lẻ  đó, Qua đó học sinh sẽ  tiếp nhận kiến thức một cách chủ  động,   sáng tạo theo tư duy của từng cá nhân. Trên cơ sở  phân loại các dạng bài tập, tôi đưa ra các ví dụ  từ  dễ  đến  khó, từ  đơn giản đến phức tạp từ  đó hình thành bài toán tương tự  nhưng  ở  mức độ cao hơn. 4
  5. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ   I. Cơ sở lý luận : Trong toán học, nhất là trong dạy học toán theo chương trình đổi mới thì việc  dạy học theo phương pháp tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, học  sinh được tiếp cận kiến thức một cách chủ động sáng tạo, từ những hình ảnh,  mô hình, ví dụ ... để hình thành các khái niệm tương tự, tổng quát hơn. Tương tự hóa được các nhà toán học thường xuyên sử dụng, nhờ đó mà  bài toán được giải bao giờ cũng ngắn gọn hơn và kết quả  thu được cũng cho  thấy rõ bản chất của vấn đề. 5
  6. Đối với học sinh thì các em thường hay ngại trình bày đặc biệt là các  bài toán cứ phải lặp đi lặp lại cách trình bày như  nhau . Là ngư ời giáo viên,  chúng ta cần biết gây hứng thú học tập của các em thông qua các lời giải   ngắn gọn, đằng sau mỗi lời giải của các bài toán luôn ẩn chứa nhiều bất ngờ  dành cho các em say sưa tìm  tòi.  Rất nhiều em không dừng lại  ở  những bài toán tưởng chừng như rất  nhỏ, các em luôn cố  gắng suy nghĩ tự  tìm tòi sáng tạo để  thêm giả  thiết,tìm  các bài toán tương tự cho bài toán ban đầu nhưng ở mức độ hay hơn nhiều..   II. Th   ực trạng của vấn đề : Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy đa phần học sinh chỉ   chú trọng  việc giải toán, nhưng giải thế nào để  bài toán có lời giải ngắn gọn thì lại cả  một vấn đề. Thực tế, đó cũng là việc làm rất cần thiết đối với học sinh , tuy  nhiên chỉ dừng lại ở đó thì học sinh không thể phát huy  được tính sáng tạo qua  các bài toán, vấn đề đặt ra là người giáo viên khi đứng trên bục giảng có biết  hướng các em đi đến những bài toán  khác, xây dựng những bài toán mới từ  những bài toán mà các em vừa được làm hay không, từ  đó tổng  quát lại các  dạng bài toán đã học . Tương tự hoá bài toán giúp học sinh phát huy được tính tích cực, chủ  động sáng tạo, năng lực tự học của học sinh, tạo điều kiện cho các em hứng   thú học tập bộ môn. III. Giải pháp và tổ chức thực hiện Năm học 2012 – 2013 tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy môn Toán của hai lớp   8A – 8C có năng lực học tập như nhau, đề tài này tôi triển khai nghiên cứu thử  nghiệm đối với 45 học sinh lớp 8C. Trong quá trình dạy học tôi hướng dẫn cho  học sinh đi từ những bài toán dễ đến bài toán khó, từ bài toán cụ thể đến một   chuỗi các  bài toán tương tự.  1. Sử dụng phương pháp tương tự để thu gọn lời giải bằng cách không lập   6
  7. lại các chứng minh như nhau. Ví dụ 1:  Cho tam giác ABC, D là trung điểm của AC, E là trung điểm của AB.  Vẽ  các điểm M,N sao cho E là trung điểm của AB, D là trung điểm của BN.  Chứng minh rằng  A là trung điểm của MN. ­ Sau khi chứng minh  AEM =  BEC(c.gc) để suy ra AM = BC và AM // BC,  ta có thể nói: ­ Chứng minh tương tự: AN = BC và AN //BC ­ Chứng minh AN = BC cùng hoàn toàn giống như chứng minh AM = BC ­ Chứng minh AN = BC M A N Cũng hoàn toàn giống như E D chứng minh AM = BC, Chứng minh AN // BC cũng  B C hoàn toàn giống như chứng minh  AM // BC. Do đó để gọn, ta dùng  từ "Chứng minh tương tự" mà không cần lặp lại chứng minh như trên. Ở đây  chứng minh tương tự là một suy diễn chính xác Ví dụ 2: Cho  ABC; Â = 105o, một đường thẳng qua A cắt BC ở D. Chia tam  giác ABC thành hai tam giác cân. Tính số  đo các góc B và C của tam giác  ABC. Giáo viên: Gợi ý: Bài này đòi hỏi học sinh xét nhiều trường hợp vì đề bài không xác định rõ đáy  của tam giác cân ADB và ADC. Ta hãy chú ý đến sự  tương tự  giữa hai góc  ᄋ ADB ;   ADC ᄋ    Nếu thay B bởi C thay C bởi B thì lời giải của bài toán không  đổi: Ta nói rằng hai góc đó có vai trò như nhau và nhờ sự tương tự ấy có thể  ᄋ sắp xếp chúng theo thứ  tự   ADC ᄋ ADB  mà không mất tính tổng quát của bài  toán. Giải 7
  8. ᄋ Giả  sử   ADC ᄋ ADB ᄋ   thì   ADC 900 , dẫn đến tam giác cân ADC phải có  đáy AC. Ta chỉ phải xét 3 trường hợp: ­ Tam giác cân ADB có đáy AD (h.a) hoặc BD (h.b) hoặc AB (h.c) mà  không phải xét đến 9 trường hợp A A 2a (H.b) a (H.a) 2a a B D C B D C ᄋ =a   Đặt  C Trường hợp 1: Cho ta 3a = 1050 nên a = 35o A Trường hợp 2: Cho ta: a + (180o­ 4a) = 105o nên a = 250 (H.c ᄋ Trường hợp 3:  Không xảy ra vì khi đó   BAC = 900    ) Vậy chỉ xảy ra trường hợp 1 và trường hợp 2. B D C Trường hợp 1: a =  C ᄋ = 180o ­ (105o+ 35o) = 40o ᄋ    =  35o   =>    B Trường hợp 2: a = 25o =>  C ᄋ   = 25o =>  B ᄋ    = 180o­ (105o+25o) = 50o Ví dụ  3: Cho tam giác ABC:  A ᄋ      90o,  B ᄋ  là các góc nhọn. Các đường  ᄋ và  C trung trực của AB và của AC cắt nhau  ở O và cắt BC theo thứ  tự  ở E và F.  Chứng minh : AO là tia phân giác của góc EAF. Giải: Ta có EA = EB nên EO là tia phân giác của góc  AEB ᄋ   Chứng minh tương tự FO là tia phân giác của góc  AFC ᄋ . 8
  9.                           O E A B F C H.a O H.b B F E C A Vì EO và FO là các tia phân giác của đỉnh E và F của   AEF nên AO là tia  phân giác của góc EAF lời giải này ứng với trường hợp   A ᄋ   90o (h.b) lời giải cũng tương tự như trên chỉ khác ở chỗ EO và FO là   các tia phân giác của góc ngoài tại đỉnh, E và F của   AFE ta vẫn có AO là tia  phân giác của góc EAF (đpcm). * Trong trường hợp này sự  tương tự  hoàn toàn như  nhau. Không cần  lặp lại toàn bộ  chứng minh như  trên, nhưng cần nêu lên chỗ  khác nhau:  Ở  đây chứng minh tương tự cũng là một suy diễn chính xác. 2. Sử dụng phương pháp tương tự để phát hiện tính chất mới, đề  xuất  bài toán mới ­ Tương tự  còn có nghĩa là những nết giống nhau từ  một số  tính chất giống  nhau của hai đối tượng ta dự  đoán các tính chất giống nhau, khác nhau của   chúng. Chẳng hạn: Nếu đối tượng X có các tính chất a,b,c, d. Còn đối tượng Y có   các tính chất a,b, c, thế thì Y cũng có thể có tính chất d. Ví dụ  1: Các đường trung tuyến, đường cao, phân giác của tam giác có 1 số  tính chất giống nhau. Chẳng hạn trong tam giác cân, các đường trung tuyến   ứng với cạnh bên thì bằng nhau.  Ở đây tương tự có vai trò như một phương pháp thực nghiệm nhờ so sánh các  đối tượng có một số  thuộc tính giống nhau mà ta để  ra giả  thuyết tương tự  rồi kiểm tra các giả  thuyết  ấy. Đó chính là tác dụng của tương tự  trong quá   trình sáng tạo toán học, nhờ đó mà ta có thể đề xuất các bài toán mới. 9
  10. Chú ý rằng cách nhìn hai đối tượng là tương tự cũng rất khác nhau tuỳ  theo mục đích nghiên cứu. Trong tam giác tam giác và tứ  giác có thể  xem là  tương tự vì chúng là các trường hợp riêng của đa giác. Những suy luận bằng   tương tự thuộc loại "suy luận nghe có lý". Nó mới cho ta những dự đoán, còn   để khẳng định hay bác bỏ  dự  đoán đó thì phải chứng minh. Sẽ sai nếu bằng   tương tự, ta cho rằng giao điểm các đường phân giác của tam giác cũng cách  2 mỗi định bằng    độ  dài đường phân giác đi qua đỉnh  ấy (!) hoặc cho rằng   3 trong hai tam giác bất kỳ đối diện với 2 cạnh bằng nhau là 2 góc bằng nhau. 3. Sử dụng phương pháp tương tự để  tìm tòi cách giải khác cho một bài  toán: a. Bằng cách nghĩ đến bài toán có nét tương tự với bài toán đang giải: Ví dụ: Vẽ về phía ngoài tam giác ABC ( B ᄋ  
  11. Tương tự với   ACE vuông cân, được CK=AH. Do đó BI = CK Nhờ liên hệ đến một bài toán tương tự đã giải mà ta tạo ra đường thẳng AH   làm trung gian để so sánh BI và CK Giải: Kẻ đường cao AH   BC Xét hai tam giác vuông   BID và   AHBcó BD = BA (gt) ᄋ BAH  ᄋ = DBI   (cùng phụ với  ABH ᄋ  ) =>   BID =   AHB =>AH = BI Chứng minh tương tự:   AHC =   CKE => AH = CK => BI  =CK (đpcm) b) Bằng cách sử dụng phương pháp tương tự với phương pháp đã sử  dụng ở  một bài toán khác: Ví dụ  1b: Cho tam giác ABC : AB = AC và     A ᄋ  = 200  lấy điểm D trên cạnh  AB sao cho AD = BC. Tính  ACD ᄋ   * Nhận xét: ­ Nhớ  lại bài tập: Cho   ABC: B = C = 500. Gọi K là điểm trong tam  giác sao cho  KBC ᄋ   = 100;   KCB ᄋ   = 300 Chứng minh rằng:   ABK là tam giác cân và tính số đo góc  BAK ᄋ   Ở bài tập này ta có  E ᄋABC   +  KBC ᄋ   = 500 + 100 = 60 Do đó ta vẽ   EBC đều A (E và A cùng phía đối với BC) xuất hiện  I ᄋABE   =  KBC ᄋ   còn trong ví dụ 1b) ta lại có  BCA ᄋ   ­  ᄋA   = 800 ­ 200 = 600 K B C cũng là góc của tam giác đều Do đó, mặc dù hai bài toán hoàn toàn khác nhau, nhưng sự  tương tự  trên ra  cách vẽ tam giác đều BEC 11
  12. Giải: Vẽ   BEC đều (E và A cùng phía đối với BC) A Cách vẽ này làm xuất hiện  ECA ᄋ   =  DAC ᄋ   dẫn đến   ECA =   DAC (cgc) D suy ra  CAE ᄋ   =  ᄋACD   ta dễ dàng E tính được  CAE ᄋ   = 100, do đó  ᄋACD   = 100 ­ Ngoài ra còn có nhiều cách giải khác B C Ví dụ 1c: a) Chứng minh rằng nếu trên các cạnh đối diện với các đỉnh A, B, C ta lấy  các điểm A', B', C' sao cho AA', BB', CC' đồng quy thì:  .  .  = 1  (Đ.lý xê va) b) Chứng minh rằng kết luận trên vẫn đúng nếu các điểm A', B', C' thuộc các  đường thẳng chứa các cạnh của tam giác, trong đó có đúng hai điểm nằm   ngoài tam giác. Giải: M A N a) Qua A vẽ đường thẳng // BC cắt BB', CC' ở N, M B' C' ta có:   = ;  O  =  ;  =  Nhân các đẳng thức trên từng vế, ta được điều phải ch Bứng minh A' C b) Chứng minh tương tự (câu a) B' C' Chú ý: Các hệ thức viết ở định lý. Mênê­laúyt và các định lý Xêva như nhau. A N M Chỗ khác nhau là vị trí của các điểm A', B', C' B A' C ­ Ở định lý Mênê­laúyt có đúng 1 điểm hoặc  cả 3 điểm nằm ngoài tam giác. ­ Ở định lý Xêva: không có điểm nào, hoặc có  O đúng hai điểm nằm ngoài tam giác. 12
  13. 4.   Giải   các   bài   toán   cực   trị   với   nội   dung   tương   tự   hoặc   giải   bằng   phương pháp tương tự. Ví dụ  1: Cho hai điểm A, B cùng nằm về  một nửa mặt phẳng bờ là đường   thẳng Tìm trên đường thẳng A một điểm P sao cho PA + PB là nhỏ nhất. Giải: Lấy A' đối xứng với A qua đường thẳng nối A'B cắt đường thẳng a tại  P' Đường thẳng a là trung trực của AA' B Ta có: PA = PA'; P'A = P'A' A Theo quy tắc điểm PA + PB   A'B dấu "=" xảy ra khi P   A'B mà P   a nên P' P a PA + PB nhỏ nhất khi P   P' A' ᄋ Ví dụ 2: Cho  xOy  điểm A nằm trong góc đó. Hãy tìm trên Ox, Oy lần lượt hai  điểm B và C sao cho AB + BC + CA nhỏ nhất Giải: Lấy A1 đối xứng với A qua Oy A2 x Lấy A2 đối xứng với A qua Ox ta có: Ox là trung trực của AA2 C Oy là trung trực của AA1 A O nên: CA = CA2; BA = BA1 B y AB + AC + BC = A1B + BC + CA2    A1A2 (không đổi) dấu "=" xảy ra khi B, C    A1A2 A1 mà B, C   Ox; Oy  nên để AB + BC +AC nhỏ nhất thì B, C là giao điểm của   A1A2 với Ox, Oy. Ví dụ 3: B N C Cho hình vuông ABCD và tứ  giác MNPQ  có   bốn   đỉnh   thuộc   bốn   cạnh   hình   vuông  E P ABCD (MNPQ gọi là tứ giác nội tiếp hình  M F G vuông). Tìm điều kiện để  MN + NP + PQ   + QM là nhỏ nhất. A Q D 13
  14. Giải: Nối BD; NQ.Gọi E, F, G lần lượt là trung điểm của MN, NQ, PQ.  BMN vuông tại B; BE là trung tuyến ứng với cạnh huyền MN nên  BE =     MN = 2BE Tương tự   QP = 2 GD MQ = 2 EF (EF là đường trung bình của   MNQ) NP = 2 FG (FG là đường trung bình của   QNP) MN + NP + PQ + QM = 2 (BE + EF + FG + GD)   2BD dấu "=" xảy ra khi và chỉ khi E, F, G    BD Khi đó MN // AC // PQ và MQ // BD // NP. 5. Sử dụng phương pháp tương tự trong giải toán chứng minh bất đẳng   thức. Bài 1: Cho   ABC có các cạnh a, b, c, và các trung tuyến ma,  mb, mc Chứng minh rằng: a + b + c     (ma + mb + mc) Giải: A Gọi G là trọng tâm   ABC ­ Xét   BGC có: GB + GC   BC m a trong đó: GB =  mb, GC =  mc m G m     (mb + mc) > BC B b c C     (mb + mc) > a  (1) Tương tự:  (mc + ma) > m (2)  (ma + mb) > c (3) Cộng (1), (2), (3) vế với vế ta được  (ma + mb + mc) > a + b + c . Bài 2:  Trong tam giác ABC có chu vi 2P = a + b + c (a,b,c là độ dài 3 cạnh) CMR:  +  +    2 ( +  + ) Dấu bằng trong bất đẳng thức xảy ra khi tam giác ABC có đặc điểm gì ? 14
  15. Giải: Ta có P ­ a =  ­ a =  > 0 Tương tự  P ­ b > 0 P ­ c > 0 áp dụng bất đẳng thức Cauchy P ­ a + P ­ b   2    +         [(P­a) + (P­b)] [ + ]   4    +     =  =   +    Tương tự:  +    ,             +     Dấu bằng xảy ra khi a = b = c     Tam giác ABC đều. Bài 3:  Cho tam giác ABC có độ dài 3 cạnh là: a,b,c chu vi 2P. CMR:    (P­a) (P­b) (P­c) Giải: Ta có P ­ a > 0 P ­ b > 0 P ­ c > 0 Áp dụng bất đẳng thức Cauchy P­a + P­b   2  c       2  (1) Tương tự: b        2 (2) a        2 (3) Nhân từng vế của (1), (2), (3)    (P­a) (P­b) (P­c)       (đpcm) Bài   4:  Chứng   minh   rằng,   với   mọi   a,   b   >   0   thỏa   mãn   a   +   b   =   1,   thì:   15
  16. 1 1 + 2 2 6  ab a + b Hướng dẫn: Áp dụng 1 1 4 + ( x > 0, y > 0) x y x+y 1 1 4 + 2 2 2 2 2ab a +b a +b +2ab     1 1 4 = + 2 2 4 2ab a +b a+ b) 2 1 Do a +b 2� ab 1 4ab 2 2ab 1 1 1 1 1 Vậy:  ab + a 2 + b 2 = 2ab + a 2 + b 2 + 2ab 4 + 2 = 6   Dấu “=” xảy ra khi và chỉ khi a = b = ½. d) Nêu và giải toán tương tự với các bài toán sau: Bài toán 1: Cho   ABC vẽ ở phía ngoài tam giác ấy, các tam giác đều ABD,  ACE. Tính góc tạo bởi các đường thẳng BE, CD Bài toán tương tự: Thay "tam giác đều" bởi "tam giác vuông cân tại A) Bài toán 2:  Cho     ABC vuông cân tại A, trung tuyến AM. Gọi d là đường  thẳng đi qua A sao cho B và C thuộc cùng một nửa mặt phẳng có bờ  d. Kẻ  BH và CK vuông góc với d. CMR tam giác MHK là tam giác vuông cân. Bài toán tương tự: Thay "B và C thuộc cùng một nửa mặt phẳng đối nhau có  bờ d" Giải: Ta có: AB = CA,  BAH ᄋ   =  ᄋACK   (cùng phụ với  CAK ᄋ ) nên  ABH =   CAK (cạnh huyền­góc nhọn) A suy ra: AH = CK  ABC cân có trung tuyến AM là H đường cao, từ đó suy ra:  AMC vuông cân nên AM = MC B M C ᄋ MAH   =  MCK ᄋ   vì cũng bằng  BAH ᄋ   ­ 450 K d 16
  17. và  ᄋACK   ­ 450 (hoặc 450 ­  BAH ᄋ   và 450 ­ ) Do đó   MAH =   MCK (cgc) Từ đó chứng minh   MHK vuông cân. IV. Kiểm nghiệm Sau khi áp dụng đề  tài trên đối với 45 học sinh của lớp 8C tôi nhận  thấy các em giải toán linh hoạt hơn, yêu thích học Toán, so sánh với lớp 8A   cũng do tôi giảng dạy nhưng không áp dụng đề  tài có sự  chênh lệch về chất   lượng. Cụ thể như sau: Lớp Điểm   dưới  Từ 5.0 – 6.5 Từ 7 – 8.5 Từ 9 ­ 10 5 SL % SL % SL % SL % Lớp 8A  (44HS) 1 2.3% 10 22.8% 18 40.8% 15 34.1%  (không áp dụng) Lớp 8C  (45HS) 0 0% 4 8.9% 16 35.6% 25 55.5% (Áp dụng) 17
  18. C.KẾT LUẬN: Từ vài kinh nghiệm nhỏ rút ra qua quá trình giảng dạy cũng bản thân tôi nhận   thấy: Để chất lượng giảng dạy đạt hiệu quả cao, người giáo viên cần đầu tư  nhiều thời gian và trí tuệ  vào mỗi bài giảng. Từ  đó bằng  phương pháp đặc  trưng của bộ  môn, chuyển tải đến học sinh những kiến thức trọng tâm một  cách chính xác, sâu sắc và hấp dẫn nhất.  Học sinh là yếu tố quan trọng cho thành công của mỗi giờ học nên cần   động viên, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra một cách thường xuyên để các em  có ý thức và hứng thú trong học tập .   Khi dạy cần cho   học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thoải mái,   chủ  động, rõ ràng, có hệ  thống, học sinh phải phân biệt và nhận dạng được  các bài toán , tổng hợp và khái quát bài toán, từ đó hầu hết giải được các bài  tập, xoá đi cảm giác khó và phức tạp ban đầu là không có quy tắc giải tổng  quát. Qua đó rèn luyện cho học sinh trí thông minh, sáng tạo, các phẩm chất  trí tuệ  khác và học sinh cũng thấy được dạng toán này thật phong phú chứ  không đơn điệu, giúp học sinh hứng thú khi học bộ môn này.     Để học sinh nắm vững và hứng thú học tập, chúng ta cần chọn lọc hệ  thống bài tập theo mức độ  tăng dần từ dễ  đến khó. Cần rèn luyện nhiều về  cách lập luận và trình bày của học sinh  18
  19. Với mỗi dạng tuy không có quy tắc tổng quát, song sau khi giải giáo   viên nên chỉ  ra một đặc điểm, một hướng giải quyết nào đó để  khi gặp bài  tương tự, học sinh có thể  tự  liên hệ  được và hình thành những bài toán đặc  trưng rồi từ  đó đi đến các bài toán tổng quát cho từng dạng bài, có như vậy  nác em nắm kiến thức một cách chắc chắn và có hệ thống.           Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu còn nhiều hạn chế, bài viết không   thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong được hội đồng khoa học các   cấp góp ý kiến để tôi hoàn thành đề tài một cách tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!  XÁC NHẬN CỦA THỦ  Bỉm Sơn ngày 10 tháng 4 năm 2013 TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,  không sao chép nội dung của người khác ( Ký và ghi rõ họ, tên) Nguyễn Thị Hòa 19
  20. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2