intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường Dân tộc Nội trú

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

145
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay nhân cách đạo đức học sinh đang là mối lo lắng và là hồi chuông cảnh báo động đối với nhà trường, gia đình và xã hội. Vậy làm thế nào để giáo dục học sinh rèn luyện nhân cách, phẩm chất đạo đức một cách có hiệu quả? Mời các bạn cùng tham khảo sáng kiến kinh nghiệm "Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường Dân tộc Nội trú" để tìm hiểu nội dung chi tiết về vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường Dân tộc Nội trú

  1. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Lê Văn Mười 2. Ngày tháng năm sinh: 10/06/1976 3. Nam, nữ: Nam 4. Địa chỉ: Khu 12, thị trấn Tân Phú, Tân Phú, Đồng Nai 5. Điện thọai: 0613856483 ( CQ); 0613697447 ( NR) 6. Fax: 7. Chức vụ: Phó Hiệu trưởng 8. Đơn vị  công tác:  Trường PT Dân Tộc Nội Trú Liên huyện Tân Phú ­ Định   Quán, Đồng Nai II.TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO ­ Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học  ­ Năm nhận bằng: 2005 ­ Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC ­ Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Môn Ngữ văn ­ Số năm có kinh nghiệm: 13 năm ­ Các chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm đã làm ( trong 5 năm gần đây): + Nâng cao hiệu quả một tiết dạy truyện ngắn Lão Hạc  Ngữ văn 8 + Nâng cao hiệu quả một tiết dạy bằng phương pháp “ đọc sáng tạo” + Nâng cao hiệu quả một tiết dạy truyện ngắn Chiếc Lược Ngà  Ngữ văn 9 + Nâng cao khả năng diễn đạt của học sinh khi nói, viết Tập làm văn + Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh + Nâng cao hiệu quả phụ đạo học sinh yếu trong Trường dân tộc nội trú                            1
  2. NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG DÂN TỘC NỘI TRÚ I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI                      Lịch sử  phát triển của loài người gắn liền với giáo dục, sự  tồn tại và phát   triển của giáo dục luôn chịu sự chi phối của kinh tế xã hội và ngược lại giáo dục   có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế  xã hội; giáo dục là công cụ, là   phương tiện để  cải tiến xã hội. Khi xã hội phát triển, giáo dục được coi vừa là   động lực vừa là mục tiêu cho việc phát triển tiếp theo của xã hội.        Giáo dục trong nhà trường giúp học sinh phát triển toàn diện về “đức, trí, thể,   mỹ” và các kỹ năng sống cơ  bản; phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và   sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa , xây dựng tư   cách và trách nhiệm công dân, nhằm thực hiện tốt mục tiêu nguyên lý giáo dục của   Đảng.        Đức và tài là hai mặt cơ bản hợp thành trong một cá nhân; đạo đức là gốc của   nhân cách. Người thành đạt trong học thức mà không thành đạt trong đạo đức coi   như là không thành đạt. Giáo dục đạo đức là một phần quan trọng không thể thiếu   trong hoạt động giáo dục như Bác Hồ đã nói " Có tài mà không có đức thì cũng vô   dụng." . Vì vậy, việc quan tâm tới công tác quản lý và giáo dục đạo đức trong nhà   trường là một việc làm cần thiết. Trường dân tộc nội trú  ở  nước ta ra đời theo yêu cầu của sự  nghiệp cách   mạng miền núi, vùng dân tộc. Trường  ở  vị trí mũi nhọn trong sự  nghiệp giáo dục   miền núi được coi là trường chuyên biệt đào tạo cán bộ nguồn cho dân tộc. Nhiệm   vụ  của các trường Dân tộc nội trú bậc THCS là đào tạo học sinh con em dân tộc   thiểu số có đủ trình độ học vấn, phẩm chất đạo đức để tiếp tục học cấp cao hơn;   khi đủ  sức, đủ  đức, đủ  tài trở  về  xây dựng quê hương, làng bản thoát khỏi lạc   hậu, đói nghèo hoặc có thể  sẵn sàng phục vụ  xây dựng đất nước trong thời kỳ   công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trường PT DTNT liên huyện Tân Phú – Định Quán, đối tượng giáo dục là  con em của 12 dân tộc thiểu số thuộc các xã vùng sâu, vùng khó khăn ở hai huyện   Tân Phú, Định Quán. Trong một năm thì có 9 tháng các em ăn, học và sinh hoạt tại   trường, đạo đức, nhân cách của các em phát triển tốt hay xấu, chất lượng hạnh   kiểm cao hay thấp là do một phần lớn công tác giáo dục của nhà trường .  Trong thực tế cho thấy, hiện nay nhân cách đạo đức học sinh đang là mối lo   lắng và là hồi chuông cảnh báo động đối với nhà trường, gia đình và xã hội. Các   em có những biểu hiện thiếu văn hóa, thậm chí là vô lễ, hỗn láo, xúc phạm nhân                              2
  3. phẩm và danh dự  của giáo viên mà trường PT DTNT liên huyện Tân Phú – Định   Quán không phải là trường hợp ngoại lệ. Vậy làm thế  nào để  giáo dục học sinh   rèn luyện nhân cách, phẩm chất đạo đức một cách có hiệu quả? Đó chính là lý do   khiến tôi thực hiện chuyên đề này.  II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Nhân cách là tư  cách và phẩm chất, đạo đức của con người (theo Từ  điển  Tiếng Việt thông dụng Nhà xuất bản Giáo dục, chủ  biên Nguyễn Như  Ý). Như  vậy giáo dục và hình thành nhân cách cho học sinh chính là rèn luyện, bồi dưỡng,   phẩm chất, đạo đức cho các em ở  lứa tuổi thanh, thiếu niên từ  11 đến 16 tuổi. Ở  lứa tuổi này, các em như  một tờ  giấy trắng, chúng ta tô, vẽ  như  thế  nào thì nhân  cách, tâm hồn của các em sẽ  như  thế   ấy. Bác Hồ  kính yêu đã nói “Hiền dữ  phải   đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Giáo dục đạo đức cho học sinh không chỉ giúp các em có tư cách, phẩm chất   tốt mà còn giữ được nền nếp, trật tự, kỷ cương, góp phần thúc đẩy các hoạt động  học tập, hoạt động phong trào khác trong nhà trường ngày càng đi lên. Nhà trường là một trong những công cụ mạnh nhất, mà chúng ta có trong tay   để  sáng tạo nên tương lai, chính đây là nơi cung cấp nguồn nhân lực đủ  sức, đủ  đức, đủ  tài để  xây dựng và bảo vệ  tổ  quốc XHCN Việt Nam đàng hoàng hơn, to   đẹp hơn. Vì vậy giáo dục và rèn luyện nhân cách cho học sinh là một nội dung rất  cần thiết không thể  thiếu được trong nhà trường, đây là việc làm thường xuyên,  liên tục không được gián đoạn, nghỉ ngơi. *Thực trạng nhà trường: Với đối tượng là học sinh dân tộc, các em ăn,  ở  sinh hoạt tại trường ngôn   ngữ, phong tục tập quán bất đồng, nhân cách của các em chưa được hoàn thiện.   Hơn nữa, nhà trường  nằm  ở  Trung tâm Thị  trấn Tân Phú, học sinh dễ  bị   ảnh  hưởng, tác động, lôi cuốn của thanh niên bên ngoài. Do vậy rất cần  được rèn  luyện, bồi dưỡng tiếp tục ở bậc THCS để trẻ trở thành con ngoan, trò giỏi đáp ứng   lòng mong muốn của phụ  huynh, của xã hội. Làm cho học sinh tiến bộ, trưởng   thành đó là việc làm đầy tính nhân đạo của người giáo viên nói riêng, người làm  công tác giáo dục nói chung.   Phần đa phụ  huynh, học sinh  ở  xa trường, nên việc phối kết hợp giữa nhà  trường với gia đình có khi không kịp thời, có một số  phụ  huynh phó thác toàn bộ  con em mình cho nhà trường. Những em là học sinh lớp 6, mới tuyển vào trường, lần đầu tiên xa nhà, xa  bố  mẹ, người thân, không tránh khỏi  ảnh hưởng về  tâm lý, tư tưởng cũng như  tự                             3
  4. phục vụ  bản thân mình (hay khóc, buồn chán, chưa thích  ứng với môi trường tập  thể).  Hầu hết học sinh ở các xã vùng sâu, vùng xa, quen với cách sống tản mạn, tự  do, tùy tiện, có phong tục, tập quán, ngôn ngữ, lứa tuổi khác nhau, do vậy đưa các  em vào kỷ cương, nền nếp không hề dễ dàng. Học sinh ở lứa tuổi từ 11 đến tuổi 16 có đặc điểm tâm lý diễn biến phức tạp   ( nhất là tuổi: 14,15) các em tiếp thu cái mới, cái lạ, cái xấu rất nhanh, hay bắt  chước, a dua, đua đòi, tính tình bồng bột, tự phát, ít kìm chế được bản thân, không   thích người lớn nói nặng, lớn tiếng với mình, có khi phản ứng  gay gắt, thậm chí  chửi lại thầy cô, công nhân viên bằng những lời tục tĩu, nhất là các em nam thường   ngang tàng, bướng bỉnh, thích làm người lớn, thể hiện những hành động của người   lớn như  hút thuốc, uống rượu, nhuộm tóc, ăn mặc mô del, thích làm nổi trội hơn  người khác… Hơn nữa, giáo viên không ai biết tiếng dân tộc, trong khi đó các em giao tiếp   với nhau, với người thân toàn bằng tiếng dân tộc riêng của mình, nên việc giao tiếp   giữa thầy và trò, giữa thầy với phụ  huynh để  nắm bắt tâm tư  nguyện vọng của  học sinh cũng là một trở ngại không nhỏ  trong công tác giáo dục đạo đức cho học  sinh.  * Thống kê số liệu về hạnh kiểm học sinh trước khi thực hiện chuyên đề:  Khối  Tổng  Xếp loại hạnh kiểm lớp số   học  Tốt % Khá % TB % Yếu % sinh 6 66 50 75.8 16 24.2 7 73 45 61.6 19 26.0 7 9.6 2 2.7 8 68 46 67.7 15 22.1 7 10.3 9 71  41 57.8 16 22.5 10 14.1 4 5.6 TC  278 182 65.4 66 23.7 24 8.63 6 2.16 7 4 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1.Nội dung và hình thức giáo dục:  *Nội dung giáo dục:   ­ Giáo dục các em thực hiện nghiêm túc nội quy nhà trường; chấp hành   tốt luật pháp, các  quy định; tích cực tham gia đấu tranh với các hành động tiêu cực,   phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội; ­ Giáo dục các em lòng nhân ái, kính yêu ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, tôn   trọng người lớn tuổi, thương yêu và giúp đỡ  các em nhỏ  tuổi; có ý thức xây dựng   tập thể đoàn kết, được các bạn tin yêu. ­ Giáo dục lòng yêu đất nước, yêu nhân dân, yêu nhân loại, yêu hòa bình,  yêu quý và tự hào lịch sử vẻ vang của dân tộc, truyền thống văn hóa                            4
  5. ­ Tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, giản dị,   khiêm tốn; chăm lo giúp đỡ gia đình; ­ Tích cực rèn luyện thân thể, lao động vệ  sinh, giữ  gìn và bảo vệ  môi  trường, giữ gìn và bảo quản tài sản.   ­ Giáo dục và rèn luyện đức tính, phẩm chất tốt đẹp như: thật thà, trung  thực, giản dị, khiêm tốn, tiết kiệm, đoàn kết dân tộc, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ  nhau lúc  ốm đau, khó khăn, hoạn nạn, tính tự  giác, siêng năng, không ăn gian, nói   dối, không gian lận trong học tập, sinh hoạt … ­ Giáo dục và bồi dưỡng tình yêu: trường, lớp, quê hương, đất nước, yêu  hòa bình, có niềm tin và biết ơn Hồ Chủ Tịch, Đảng, Nhà nước XHCN Việt Nam,   biết ơn những người đã hy sinh giành được độc lập, tự do cho đất nước, biết giữ  gìn và phát huy những di sản tinh hoa của dân tộc. ­ Rèn luyện cho các em tính tự giác, tích cực, chủ động thực hiện và tuân  thủ  đúng thời gian biểu và nội qui, qui định của nhà trường (ngăn nắp, gòn gàng,  giờ nào, việc nấy) ­ Giáo dục học sinh lòng kính yêu Bác Hồ, học tập và làm theo “tấm   gương đạo đức của Hồ Chí Minh”. ­ Lồng ghép giáo dục các em thông qua cuộc vận động “Hai không” và  phong trào thi đua xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực’. * Hình thức giáo dục: ­ Giáo dục đạo đức cho học sinh vào các buổi chào cờ sáng thứ Hai hàng   tuần; ­ Giáo dục các em qua các môn học trên lớp; ­ Giáo dục các em trong các tiết sinh hoạt lớp, các tiết hoạt động NGLL   (theo chủ điểm) của giáo viên chủ nhiệm; ­ Lồng ghép giáo dục các em trong các buổi “rèn kỹ năng sống” vào chiều  thứ sáu hàng tuần; ­ Ngoài ra, còn giáo dục đạo đức cho các em qua gương người tốt, việc  tốt, tham gia phong trào “đền  ơn, đáp nghĩa”, phòng chống các tệ  nạn trong xã  hội… 2.2 Biện pháp thực hiện: 2.2.1 Tăng cường sự chỉ đạo của chi bộ  Đảng và hiệu lực quản lý của Ban   giám hiệu nhà trường: ­ Trong trường học, chi bộ Đảng là tổ  chức cao nhất, nắm quyền lãnh đạo,  chỉ  đạo toàn bộ  hoạt động của nhà trường; là hạt nhân, là nền tảng của sự  đoàn   kết. Chi bộ  nhà trường luôn thực hiện theo phương châm “Đảng lãnh đạo, nhân  dân làm chủ, nhà nước quản lý”.                            5
  6. ­ Triển khai kịp thời sâu rộng mọi văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước để  công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và học  sinh đạt hiệu quả cao.  ­  Phân công các đảng viên vào các vị  trí quan trọng của nhà trường để  các   đảng viên phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của mình trong công tác giáo dục  đạo đức cho học sinh. ­ Chi bộ  Đảng, Ban giám hiệu lập kế  hoạch cụ  thể, phù hợp, sát thực với  từng thời điểm, gắn liền với việc giáo dục đạo đức học sinh từng tháng, từng tuần  theo các chủ điểm; giao cụ thể cho từng bộ phận, tổ công tác và cá nhân thực hiện. 2.2.2 Phân công, chỉ  đạo nhiệm vụ  cụ  thể  trong công tác giáo dục đạo đức   cho học sinh Giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh là một công việc khó, đòi hỏi phải   có sự chung tay góp sức của nhiều lực lượng trong nhà trường và xã hội. Ngay từ  đầu năm học, nhà trường đã phân công, chỉ đạo, giao trách nhiệm cụ thể như sau:  a .Đối với Ban giám hiệu: *Giáo dục dưới cờ: Đối với học sinh, tiết chào cờ đầu tuần góp phần quan trọng trong việc giúp  các em rèn luyện nhân cách, từ  những việc nhỏ  như: ham học, siêng làm, cần  kiệm…đến những việc lớn như hun đúc tinh thần dân tộc, lòng yêu nước.             Giáo dục đạo đức cho học sinh là việc làm “không của riêng ai”, đây là trách  nhiệm của toàn thể đội ngũ trong nhà trường, Ban giám hiệu không chỉ là người chỉ  đạo mà là người trực tiếp giáo dục đạo đức cho học sinh. Ngay từ  đầu năm học,  Ban giám hiệu đã họp phân công cụ  thể  cho từng thành viên luôn phiên giáo dục   học sinh vào sáng thứ  hai trong tiết chào cờ  và chiều thứ  Sáu trong buổi giáo dục  kỹ  năng sống cho học sinh. Khi được phân công cá nhân phải chuẩn bị  trước nội  dung sinh hoạt dưới cờ với học sinh.  Là thành viên trong Ban giám hiệu, chịu trách nhiệm về  việc giáo dục đạo  đức cho học sinh, tôi thường xuyên giáo dục các em bằng nhiều nội dung khác  nhau như: lòng biết  ơn, tinh thần đoàn kết, lễ  phép, kính trọng người lớn, nói lời  hay, làm việc tốt, kiên trì, siêng năng trong học tập, lao động: Ví dụ: +Để giáo dục học sinh về ý thức tự giác và tính chuyên cần trong học tập,  tôi đã kể cho các em câu chuyện về “Có công mài sắt, có ngày nên kim”           Tương truyền, thuở niên thiếu, Lý Bạch là cậu bé không chịu khó học hành,  ham chơi như bao đứa trẻ bình thường khác. Một hôm, cậu bé chán học, lẻn sang  chơi ở chân núi phía Đông. Kỳ lạ quá ! Trước mặt cậu bé là một bà lão đang cắm  cúi mài một thanh sắt bên một tảng đá lớn. "Bà già tóc bạc đến dường kia mà lại  chăm chắm mài một thanh sắt làm gì nhỉ ?" Cậu bé hết sức phân vân, bèn rón rén                             6
  7. đến bên cạnh cụ già rồi cất tiếng hỏi :  ­ Cụ ơi ! Cụ mài sắt để làm gì vậy ?  Bà lão ngoảnh mặt lên, hiền từ trả lời :  ­ Để làm kim khâu, cháu ạ.  ­ Làm kim khâu ư ? Thanh sắt thì làm thế nào mà trở thành cái kim khâu được ?  Cậu bé chất vấn bà lão.  ­ Mài mãi cũng phải được. Kể có công mài sắt thì có ngày nên kim chứ ­ Bà lão trả  lời một cách tin tưởng như vậy.          Lý Bạch nửa tin nửa ngờ hỏi lại. "Liệu hôm nay có xong được không hở cụ ?"   Bà lão thong thả trả lời hòa nhịp với động tác mài kim : "Hôm nay không xong thì  mai lại làm tiếp vậy, năm nay không xong thì sang năm tiếp tục mài, ngày lại ngày,  già nhất định mài xong".          Nghe đến đây, Lý Bạch chợt hiểu ra và im lặng. Về nhà, Lý Bạch thường  ngẫm nghĩ về những lời của bà lão mà càng chuyên tâm học tập. Chẳng bao lâu,  Lý Bạch trở thành nhà thơ lỗi lạc với những áng thơ Đường tuyệt mỹ, có một  không hai trong nền văn học Trung Quốc.          Từ đó, trong dân gian lưu truyền câu tục ngữ "chỉ yếu công phu thâm, thiết  chữ ma thành châm" với nghĩa là "có công mài sắt, có ngày nên kim". Thoạt đầu, nó   như một nhận xét về cuộc đời, văn nghiệp của Lý Bạch : từ chỗ lười học, nhờ sự  tỉnh ngộ qua cuộc gặp gỡ với cụ già mà siêng năng, kiên trì học tập và cuối cùng  trở thành tài.  Hoặc: Để giáo dục về tinh thần đoàn kết dân tộc cho học sinh sống trong nội trú thì  tôi đã phân tích, giáo dục cho các em qua lời dặn của Bác trong Thư gửi Đại hội  các dân tộc thiểu số miền Nam” họp tại Plei Ku ngày 19/4/1946, Người đã viết:  “… Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xơ đăng hay Ba na  và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.  Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ có nhau, no đói giúp nhau...”. Hoặc:  Để giáo dục các em về sự lễ phép, lịch sự trong giao tiếp, kính trọng người  lớn tuổi… thì tôi thường lấy những câu tục ngữ, ca dao như: “Tiên học lễ, hậu học  văn”, “ lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”…vv. Ngoài ra, tôi thường xuyên giáo dục các em bằng hình thức đó là: trong ca  trực của mình, tôi thường gọi những học sinh vi phạm lên phòng hoặc ngồi ghế đá  để tâm tình, trò chuyện với các em như một người anh, người cha; từ đó hiểu được  hoàn cảng, tính tình cũng như điểm mạnh, điểm yếu của từng em để chỉ đạo giáo  viên chủ nhiệm có những biện pháp thích hợp giáo dục các em đạt hiệu quả.  *Giáo dục kỹ năng sống:  Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nói chung và học sinh là người dân  tộc nói riêng là một việc làm vô cùng thiết thực, đòi hỏi tính thường xuyên, liên tục                             7
  8. và là sự kết hợp của tất cả tập thể hội đồng nhà trường. Ngoài giáo viên chủ  nhiệm, phụ trách đoàn đội, quản lý nội trú thì ban giám hiệu cũng trực tiếp tham  gia. Giáo dục các em những kỹ năng tối thiểu nhất như: cách chào hỏi, cách xưng  hô, cách giao tiếp không nói trống không; cách sắp xếp chỗ ở khoa học, sạch sẽ,  gọn gàng, ngăn nắp, cách hòa mình vào cuộc sống tập thể, cuộc sống tự lập, đặc  biệt là cách tôn trọng bản sắc dân tộc trong cuộc sống đa sắc tộc...  *Tăng cường công tác kiểm tra:  Kiểm tra, giám sát là việc làm cần thiết cho tất cả  các hoạt động nhà  trường nói chung, công tác giáo dục đạo đức nói riêng. Kiểm tra có tác dụng phát   hiện những việc làm được, chưa được của tổ chức, cá nhân, từ đó có ý kiến, chấn   chỉnh, điều chỉnh, bổ sung, khắc phục những hạn chế, phát huy những mặt tốt để  hỗ trợ công tác khen thưởng công bằng hơn. Mặt khác là động cơ giúp học sinh tự  kiểm tra mình, kiểm tra lẫn nhau, giúp công tác giáo dục đạo đức, nhân cách học   sinh đạt hiệu quả cao hơn.  Kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất các hoạt động của học sinh như  việc ăn, giờ ngủ trưa, ngủ tối hàng ngày; việc ở trật tự, ngăn nắp, vệ sinh phòng ở,  khu vực, lớp học hàng tuần; nền nếp, tác phong, trang phục trên lớp hàng ngày.  Kiểm tra công tác chủ nhiệm của giáo viên như dự giờ sinh hoạt lớp, kế  hoạch chủ  nhiệm, các hồ  sơ  khác cho công tác chủ  nhiệm mà nhà trường đã qui  định. *Đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng: Thi đua – khen thưởng là một việc làm vô cùng hữu hiệu. Có hoạt động là   phải có thi đua, có thi đua phải có khen thưởng. Khen thưởng kịp thời có tác dụng   khích lệ, vươn đua lẫn nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ, thi đua, khen thưởng góp  phần giáo dục, bồi dưỡng đức tính linh hoạt, năng động, sáng tạo, nhạy cảm và   biết yêu đồng đội, bạn bè, trường, lớp. Do vậy, nhà trường đã đưa ra những hình  thức thi đua, khen thưởng sau: ­ Xây dựng tiêu chuẩn phòng ở đạt tiên tiến và khen thưởng 1tháng/ lần. ­ Xây dựng tiêu chuẩn lớp học đạt tiên tiến; khen thưởng học kỳ/lần  ( trước đó lãnh đạo chỉ  định rõ 2 lớp, nên không có hiệu quả), do vậy yêu cầu tất  cả các lớp đều đăng ký và tham gia thi đua này. Khen thưởng cho nhóm, trưởng nhóm thực hiện tốt theo yêu cầu của nhà   trường 1tháng/ lần.  Khen thưởng cho giáo viên chủ  nhiệm, phụ  trách phòng  ở  đạt được lớp,   phòng tiên tiến; học kỳ/lần  Khen thưởng lớp có học sinh mà nhà trường giải quyết về thăm nhà ngày  chủ nhật lên đúng thời gian qui định: (1tuần/ lần bằng điểm cộng), bằng hiện vật   1 học kỳ/ lần (vì hiện trạng nhiều em về  lên không đúng giờ, ngày qui định, khó  khăn cho bảo vệ quản lý hàng ngày, mặt khác ảnh hưởng đến việc học tập và sinh   hoạt gây mất kỷ cương, nền nếp của nhà trường)                            8
  9. Giáo viên chủ  nhiệm phát động phong trào thi đua và khen thưởng kết   thúc phong trào  ở  lớp như: “Kiên quyết không vi phạm nội quy trường, lớp; kiên   quyết không nói tục, chửi thề; nhặt được của rơi trả bạn…” b. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh:: Giáo viên chủ  nhiệm là lực lượng quan trọng trong công tác giáo dục đạo  đức cho học sinh; có thể  nói: giáo viên chủ  nhiệm gần như  quyết định đến nhận   thức, cũng như hình thành nhân cách cho học sinh, nhất là những học sinh có hoàn  cảnh éo le, khuyết tật hoặc có những năng khiếu đặc biệt. Để người giáo viên làm  tốt công việc của mình, ngay từ  đầu năm học nhà trường đã tổ  chức hội thảo về  công tác chủ nhiệm lớp với các nội dung: +Triển khai cho giáo viên chủ  nhiệm học một số  quyền và nghĩa vụ  của  người giáo viên chủ  nhiệm. Trao đổi, học tập một số  kinh nghiệm giáo dục học   sinh cá biệt, cách phát hiện học sinh năng khiếu, lựa chọn cán bộ  lớp. Xây dựng   tập thể lớp tự quản. Mục đích giúp cho giáo viên chủ nhiệm (nhất là giáo viên mới  ra trường) học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để  áp dụng vào lớp mình phụ  trách. +Chỉ đạo khi giáo viên khi nhận lớp phải phân loại, tìm hiểu hoàn cảnh gia   đình, tính tình, năng lực của từng học sinh; qua đó có biện pháp giáo dục sao cho có   hiệu quả. Thường xuyên thay đổi hình thức trong các tiết sinh hoạt lớp, tránh để  các em nhàm chán hoặc sợ tiết sinh hoạt. +Mỗi giáo viên chủ  nhiệm đều có sổ  theo dõi học sinh, nắm bắt kịp thời  những vi phạm của học sinh. Khi xử lý phải có tính giáo dục cao, biết khơi dậy các   em phần tích cực, tạo điều kiện các em sửa chữa khuyết điểm, lập thành tích mới.   Tránh hiện tượng thành kiến, trù dập học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải có trách   nhiệm thông tin những trường hợp của lớp mình với Ban giám hiệu để cùng tìm ra  biện pháp giải quyết. Phối kết hợp tốt với bảo vệ, quản sinh, giáo viên bộ  môn…  để  cùng quản lý giáo dục học sinh. Tăng cường mối liên hệ  với phụ  huynh học  sinh để  kịp thời phát hiện uốn nắn những hành động biểu hiện bất thường trong   lối sống của học sinh. Đối với học sinh cá biệt, nhà trường đã chỉ đạo một số biện pháp như sau:                Thứ nhất: Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt  này, nếu không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở lại  về phía học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng hạn trong  vấn đề xử phạt "mềm nắn, rắn buông".           Thứ hai: Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc  nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học  sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng.  Như vậy học sinh sẽ có tâm lý bất cần " Thầy cô kệ thầy cô, ta là ta". Ta phải làm  sao tạo cho học sinh có cảm giác là giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm                             9
  10. tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ  với thầy cô, khích lệ mình khi mình khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập.           Thứ ba: Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những việc mà học sinh hỏi, tránh  để học sinh cảm thấy mình lạc lỏng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan  tâm, ai cũng khi dễ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình.          Thứ tư: Giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn  phải thức sớm một chút để không phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu khó, siêng  làm bài tập hơn các bạn, khi nào làm bài tập, học sinh mệt thì nên giải lao để tinh  thần thoải mái rồi làm tiếp, không nên cố gắng quá sức. Giáo viên không nên giáo  dục ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi  phạm nhẹ, như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh cá  biệt, tính tình ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học  sinh không quan trọng mà học sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương" hàng ngày,  không phải làm những việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà.          Thứ năm: Chúng ta phải tác động vào động cơ học tập, để các em này thấy rõ  tầm quan trọng của việc học. Có thể đưa ra một số tranh ảnh về nạn thất học ­ chỉ  mới mấy tuổi đầu không được đến trường, phải làm những việc nặng nhọc của  người lớn rồi lại bị bạn bè khinh thường, xa lánh, cơm không đủ ăn, áo không đủ  mặc. Ngược lại những em có học thì làm việc thuận lợi dễ dàng, càng ngày càng  tiến thân, bạn bè ngưỡng mộ phải trầm trồ khen ngợi, cha mẹ được nở mày, nở  mặt.         Qua những biện pháp nêu trên giúp các em nhận thức được vai trò của việc  học tập, rèn luyện đạo đức để từ đó có động cơ học tập, tu dưỡng đạo đức ngày  càng tiến bộ hơn. c. Chỉ đạo giáo viên bộ môn trong việc giáo dục đạo đức học sinh:: Giáo dục đạo đức cho học sinh không chỉ  là trách nhiệm của giáo viên chủ  nhiệm mà  giáo viên bộ  môn cũng là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành  nhân cách cho các em qua mỗi bài giảng, tiết học. Một giờ dạy trên lớp không chỉ  đơn thuần là truyền thụ  kiến thức cho học sinh mà còn giáo dục các em những   hành vi, cử chỉ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Trong tất cả các  môn học ở trường THCS đều có tích hợp hình thành rèn luyện hành vi đạo đức cho   học sinh, nhất là môn Giáo dục công dân, môn Ngữ Văn và Lịch sử: + Môn Ngữ  văn bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, lòng thương yêu con người,   biết phân biệt các việc nên làm, và việc không nên làm, biết cái xấu, cái tốt; biết   làm theo điều thiện; biết giúp đỡ những người khi gặp hoạn nạn khó khăn… + Môn Lịch sử  giúp hiểu biết về  lịch sử  của  đất nước,  lịch sử  của  địa   phương; truyền thống đấu tranh dựng và giữ  nước của cha ông ta; biết tự  hào và   trân trọng những truyền thống đó. Qua đó thấy rõ trách nhiệm của mình đối với   quê hương, đất nước.                            10
  11. + Môn Địa lý giúp học sinh hiểu thêm về quê hương, đất nước, những danh   lam thắng cảnh, di sản, tài nguyên của đất nước. Qua đó giáo dục các em về  sự  trân trọng và giữ gìn những di sản, tài nguyên quý báo đó. Đồng thời, giúp học sinh  hiểu thêm về môi trường và có trách nhiệm bảo vệ môi trường.  ­ Nhiệm vụ của giáo viên trong giảng dạy là biết khai thác, liên hệ vận dụng   thích hợp để  bồi dưỡng tình cảm, hình thành niềm tin đạo đức cho các em. Qua   mỗi tiết học giáo viên không bỏ qua yêu cầu giáo dục tư tưởng tình cảm.  ­ Thực hiện tốt việc tổ chức thực hành các hành vi đạo đức qua bộ môn văn  hoá tốt thì việc thực hiện giáo dục đạo đức trong trường học coi như  thành công   tốt đẹp. Ngay từ  lớp đầu cấp là lớp 6 cho đến lớp 9 mọi công tác chỉ  đạo từ  kế  hoạch, cho đến kiểm tra, uốn nắn phong trào phải thường xuyên chú ý hình thành  và tổ chức cho các em thực hành có nề nếp các hành vi đạo đức. Cụ thể như: biết  vâng lời thầy cô giáo, chú ý nghe giảng, xây dựng bài, hợp tác trong nhóm để  tìm  hiểu kiến thức mới, có ý thức học bài cũ và chuẩn bị  bài một cách thường xuyên.  Chuẩn bị dụng cụ học tập đầy đủ, có ý thức cố gắng vươn lên trong học tập..., tất   cả những điều đó là hành vi đạo đức mà học sinh cần phải có. Giáo viên bộ môn thường xuyên kiểm tra theo dõi việc thực hiện nội quy của   lớp, khen chê kịp thời. Sử  dụng phương pháp giáo dục bằng tình cảm, trong mọi  lúc, mọi khi.   Lồng ghép giáo dục “kỹ năng sống” cho học sinh vào trong bài giảng. d. Chỉ  đạo hoạt động Đoàn ­ Đội tạo nên môi trường tốt để  rèn luyện các   hành vi đạo đức của học sinh: Đây là tổ  chức và môi trường để  lứa tuổi học sinh có thể  phát huy chủ  thể  của mình trong việc rèn luyện hành vi và thói quen nếp sống quân sự hoá trong nhà   trường. Qua tổ  chức Đoàn­ Đội các em rèn luyện cho mình ý thức phê và tự  phê   khép mình vào nếp sống tập thể, từ đó hành vi đạo đức ngày được hình thành và  củng cố.        Nội dung giáo dục: ­ Giáo dục truyền thống thông qua tuyên truyền, cổ động các ngày lễ lớn. ­ Giáo dục truyền thống thông qua phút sinh hoạt truyền thống: khai giảng   năm học, Đại hội Đoàn ­ Đội, các đợt sinh hoạt chủ đề, chủ điểm qua các ngày lễ  lớn. ­ Giáo dục truyền thống thông qua các hội thi tìm hiểu truyền thống cho hội   đồng Đội TW và hội đồng Đội các cấp phối hợp tổ chức. ­ Giáo dục truyền thống thông qua việc tổ chức các hoạt động lớn, thông qua   các ngày lễ lớn của năm học: Khai giảng năm học, 20/11; 22/12; 3/2; 26/3; 19/5... ­ Giáo dục kỹ năng sống cho các em vào các buổi chiều thứ sáu. ­ Đẩy mạnh phong trào “Nói lời hay làm việc tốt” phấn đấu trở  thành con   ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ kính yêu.                            11
  12. Từ  nâng cao nhận thức cho các em thông qua hoạt động giáo dục truyền   thống, đến những việc làm hàng ngày đã góp phần giáo dục đạo đức cách mạng  cho thanh thiếu niên trong trường học. *, Hoạt động góp phần nâng cao chất lượng “Vượt khó học tốt” thông qua   đó rèn luyện các hành vi đạo đức. Tập trung chỉ đạo Liên Đội thực hiện một số biện pháp cơ bản sau: ­ Đưa tiêu chuẩn giờ học tốt, tuần học tốt, thi đua hàng tuần, được đánh giá   và xếp thứ vị vào buổi chào cờ đầu tuần. ­ Phát động phong trào tự quản giờ học ở lớp, xây dựng được phong trào học   tập trong trường. Biết hợp tác nhóm trong giờ học để tìm hiểu bài. ­ Tổ chức có hiệu quả đôi bạn điểm tốt, đôi bạn cùng tiến, giúp đỡ bạn yếu   vươn lên. ­ Tổ chức các hoạt động bổ trợ học tập như: “Truy bài đầu buổi” thông qua  các nhóm cán sự bộ môn... Trọng tâm là thực hiện phong trào “Hai không” của ngành phát động. Mục  đích của chương trình này là giáo dục vượt khó, giúp bạn vượt khó, say mê sáng  tạo học tập, phát huy tính năng động tự giác, tạo không khí thi đua trong học tập. *, Tổ  chức hoạt động “Vui khoẻ” thông qua đó giáo dục phẩm chất đạo   đức, ý thức tập thể của học sinh. ­ Tổ chức phong trào “Hát­ múa” theo chủ đề, chủ điểm tham gia hội thi văn  nghệ cấp trường, huyện. ­ Tổ chức thi đấu thể thao cấp huyện trong năm học. ­ Tổ chức hội thi nghi thức cấp trường và dự thi cấp huyện. Hoạt động văn hoá văn nghệ  – thể  dục thể  thao – các trò chơi dân gian là   một loại hình hoạt động không thể thiếu được, loại hình này rất phù hợp với tâm  lý của học sinh cấp THCS. Thông qua đây tập thể  giáo viên chủ  nhiệm, tổng phụ  trách Đội và các đoàn thể trong nhà trường có trách nhiệm hoàn thành và rèn luyện  phẩm chất đạo đức cho học sinh. *, Tổ chức các hoạt động Đội góp phần giáo dục nhận thức thẩm mĩ, nâng   cao trình độ của các em học sinh. ­ Xây dựng nếp sống văn minh, vui tươi, lành mạnh và tác phong quân sự hoá  ở khu ký túc xá nhà trường. ­ Thực hiện tốt đồng phục và các hoạt động tập thể, góp phần tạo nên màu  cờ sắc áo cho tổ chức các em. ­ Tổ chức phong trào “Xanh ­Sạch ­ Đẹp” với các hoạt động trồng cây, chăm  sóc bồn hoa, cây cảnh, góp phần tạo nên bộ  mặt nhà trường luôn luôn sạch đẹp  hướng tới đạt chuẩn Quốc gia. ­ Tổ  chức các hoạt động làm sạch môi trường trên toàn bộ  khuôn viên nhà  trường...                            12
  13. ­ Giáo dục thẩm mĩ, nhận thức về  cái đẹp, vươn tới cái đẹp “Chân­ thiện­  mỹ” là việc làm thường xuyên, là môi trường tốt để hình thành và rèn luyện phẩm  chất đạo đức tốt cho học sinh. e. Kết hợp tay ba giữa nhà trường ­ gia đình và xã hội: Trong thư Bác Hồ gửi cán bộ, thầy cô giáo nhân ngày khai trường 1968­1969  có   viết:   “Giáo   dục   là   sự   nghiệp   của   quần   chúng,   cần   phải   phát   huy   dân   chủ  XHCN, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và trò, giữa trò  với nhau, giữa cán bộ  các cấp, giữa nhà trường và nhân dân hoàn thành tốt thắng   lợi đó”. Giáo dục đạo đức cho học sinh là một công việc lớn lao, đầy khó khăn  phức tạp và nhiều thử thách. Ngoài giáo viên đứng lớp làm công tác giảng dạy, còn  yêu cầu có sự phối hợp chặt chẽ , đồng bộ giữa trong và ngoài nhà trường. Do đó  nhà trường đã chỉ  đạo giáo viên thường xuyên liên lạc với cha mẹ  học sinh, quan   hệ chặt chẽ với gia đình các em nhằm mục đích kiểm tra việc thực hiện các chuẩn   mực hành vi đạo đức đã được xây dựng rèn luyện ở trường. Đầu năm học nhà trường đã tổ  chức Đại hội cha mẹ  học sinh, bầu chọn   những người có trách nhiệm cao, nhiệt tình, phân bổ  đều trên địa bàn hai huyện.   Ban giám hiệu và Ban chấp hành thường xuyên liên hệ  với nhau. Nếu có học sinh  nào nghỉ  học nhiều hoặc có biểu hiện chán học thì nhà trường sẽ  thông báo với  Ban chấp hành hội, Ban chấp hành cử  người đến tận gia đình để  vận động học  sinh trở  lại trường, trao đổi những ý kiến về  giáo dục học sinh đến tận từng gia   đình phụ huynh.  Nhà trường, giáo viên chủ  nhiệm phối kết hợp kịp thời để  giáo dục những   học sinh vi phạm  sao cho có hiệu quả. III.HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Tóm lại: Kể  từ  đầu năm học cho đến nay dưới sự  lãnh đạo của Chi bộ  và   ban giám hiệu nhà trường, các hành vi đạo đức của học sinh được hình thành và   cũng cố một cách tương đối khả  quan. Các em đã biết phát huy tinh thần làm chủ  tập thể  của tuổi trẻ  học đường, thực hiện tốt năm điều Bác Hồ  dạy, chất lượng  văn hoá thực chất từng bước  ổn định và đi lên. Đại đa số  các em đã biết vâng lời   thầy cô giáo, bố  mẹ  và người lớn, chấp hành các nội quy của nhà trường đề  ra,   tiêu biểu như em: K’ Việt lớp 7a, Điểu Văn lớp 7b, K’ Cương lớp 9a… Sau khi vận dụng chuyên đề, tỷ lệ học sinh có hạnh kiểm Khá tốt đã tăng  lên, tỷ  lệ  hạnh kiểm trung bình, yếu đã giảm hẳn so với trước khi vận dụng   chuyên đề.  Cụ thể theo bảng thống kê sau:    So sánh kết quả trước và sau khi áp dụng SKKN: *Kết quả về hạnh kiểm trước khi thực hiện chuyên đề  Khối  Tổng  Xếp loại hạnh kiểm lớp số   học  Tốt % Khá % TB % Yếu %                            13
  14. sinh 6 66 50 75.8 16 24.2 7 73 45 61.6 19 26.0 7 9.6 2 2.7 8 68 46 67.7 15 22.1 7 10.3 9 71  41 57.8 16 22.5 10 14.1 4 5.6 TC  278 182 65.4 66 23.7 24 8.63 6 2.16 7 4 *Kết quả về hạnh kiểm sau khi thực hiện chuyên đề Khối  Tổng  Xếp loại hạnh kiểm lớp số   học  Tốt % Khá % TB % Yếu % sinh 6 66 54 81.8 12 18.2 7 71 51 71.8 16 22.6 4 5.6 8 68 57 83.8 7 10.3 2 2.9 2 2.9 9 70  50 71.4 10 14.3 10 14.3 TC  275 212 77.0 45 16.3 16 5.82 2 0.73 9 6 Được kết quả  như  vậy là do sự  nổ  lực của toàn thể  đội ngũ nhà trường,   nhất là công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu và công lực của tập thể sư phạm nhà   trường. Đó cũng chính là phần thưởng quý giá nhất dành cho tập thể  nhà trường   chúng tôi.  Trong quá trình thực nghiệm, bản thân tôi đã rút ra một điều, để  nâng cao   công tác giáo dục đạo đức cho học sinh là việc làm không của riêng ai và cũng   không phải một sớm, một chiều mà cần phải có sự đồng bộ, đồng lòng, tâm huyết,   nhân hậu, thực sự  yêu thương học sinh như  con, em mình của cán bộ, viên chức,   công chức nhà trường với phương châm giáo dục là” Kỷ cương, tình thương, trách   nhiệm”.  Trong khuôn khổ  cho phép, tôi nghĩ rằng trong SKKN này sẽ  không tránh   khỏi đươc thiếu sót và hạn chế  nhất định. Vì vậy tôi rất mong được đón nhận   những ý kiến đóng góp chân thành của hội đồng thẩm định để  SKKN  này của tôi   được hòan thiện hơn. IV.ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Với SKKN này đã áp dụng thực tế  vào công tác giáo dục đạo đức học sinh  trong nhà trường chúng tôi đạt hiệu quả  cao. Tôi nghĩ rằng với những biện pháp   mà tôi đề ra trong sáng kiến này có thể áp dụng cho toàn ngành, đặc biệt là cho các   trường Dân tộc nội trú.                            14
  15. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO  ­ Từ  điển tiếng việt thông dụng nhà xuất bản giáo dục chủ  biên Nguyễn  Như Ý. ­ Một  số  vần  đề  cơ  bản về  giáo dục trung học cơ  sở  (sách bồi dưỡng   thường xuyên chu kỳ 1997­2000 cho giáo viên THCS) của Bộ Giáo dục và Đào tạo   ban hành (Tham khảo về vấn đề giáo dục lại). ­ Một số  kinh nghiệm giáo dục đạo đức của giáo viên chủ  nhiệm trong  trường THCS­ nhà xuất bản giáo dục 1998. NGƯỜI THỰC HIỆN Lê Văn Mười PHỤ LỤC                I. Lý do chọn đề tài Trang 1 II. Tổ chức thực hiện đề tài Trang 2       1. Cơ sở lý luận Trang 2       2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài Trang 3 III. Hiệu quả của đề tài Trang 11  IV. Đề xuất, khuyến nghị khả năng áp dụng Trang 12                                 15
  16.                            16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2