intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong các tiết dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập cho học sinh

Chia sẻ: Dung Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

67
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến với mục đích thực hiện mục tiêu đổi mới phương pháp dạy và học, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đồng thời phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng cho các em phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh khi học Văn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong các tiết dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập cho học sinh

  1. PHẦN  THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Người xưa vẫn thường nói: “Biết mà học không bằng thích mà học,  thích mà học không bằng say mà học”. Yếu tố  cảm xúc, say mê chính là   động lực lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng  của mỗi chúng ta. Thế nhưng hiện nay, đa phần các em học sinh không mấy  hứng thú với môn Ngữ  Văn. Hầu như  các em và kể  cả  phụ  huynh học sinh  thường quan tâm tới các môn Tự nhiên. Họ cho rằng: thời kì Khoa học hiện  đại phát triển thì xã hội cần những người tài giỏi về các môn Toán, Lí, Hóa,  Ngoại ngữ, Tin học, còn riêng môn Văn mấy ai để ý tới. Văn vốn lãng mạn, giàu tính tưởng tượng, không khô khan, nhưng vì  cho rằng thiếu “năng khiếu” nên hầu hết các em thấy chán nản, không đam   mê học. Dần rồi thành thói quen, học cho có, học một cách đối phó, miễn  cưỡng.  Xuất phát từ  những thực tại còn tồn đọng và kinh nghiệm giảng dạy   thực tiễn của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ  học văn, học sinh luôn hứng thú, chủ  động, yêu thích môn học. Từ  đó góp  phần nâng cao hiệu quả  dạy học nên tôi chọn đề  tài:  “Đưa phim truyền  hình và phim tư  liệu vào trong các tiết dạy môn Ngữ  văn 9 nhằm làm  tăng hứng thú học tập cho học sinh” trong công tác giảng dạy của mình.  II. Mục đích nghiên cứu Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 9 tôi nhận thấy muốn giờ  dạy đạt hiệu quả  cao, giáo viên phải khơi dậy được hứng thú học tập của  học sinh. Từ đó mới phát huy được tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học  sinh. Thực tế  cũng đã chứng minh rằng, khi giáo viên khơi gợi được hứng  thú học tập thì hiệu quả  được nâng cao, học sinh tích cực chủ  động trong   học tập. Trong phạm vi của Sáng Kiến Kinh Nghiệm, tôi xin đề  cập đến   phương pháp: “Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong các tiết  dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập cho học sinh” với  mục đích thực hiện mục tiêu đổi mới phương pháp dạy và học, tăng cường   ứng dụng công nghệ  thông tin trong giảng dạy. Đồng thời   phát huy được  tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm  từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng cho các em phương pháp tự  học, rèn  luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem   lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh khi học Văn.  PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề 1
  2. Ông cha ta vẫn thường nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Từ  sự  quan sát chứng kiến thực tế, con người ta sẽ  học hỏi, biết thêm được  nhiều điều mới lạ, bổ ích. Có dịp “khơi những nguồn chưa ai khơi” và biết   những điều nhiều người chưa biết. Từ việc tiếp xúc thực tế, học sinh sẽ có  ấn tượng sâu sắc hơn, rõ nét hơn và chắc chắn là nhớ  lâu hơn nếu chỉ  nghe  bằng tai. Bởi vậy mà phương pháp “trực quan” ­ “mắt nhìn” mà trong giáo  dục có vai trò vô cùng quan trọng. Đối với môn Ngữ văn, trực quan không chỉ dừng ở mức để nhận biết sự  vật, sự  việc mà trực quan còn có giá trị  khơi dòng cảm xúc, gợi hứng thú,  tích cực học tập, từ  những rung động chân thành, người học sẽ  có tâm thế  học tốt hơn, hiệu quả hơn. Như  Hoài Thanh đã từng khẳng định văn chương là hình dung của sự  sống, xuất phát từ  trong cuộc sống. Chính vì thế, người giáo viên dạy Văn   phải biết tái hiện bức tranh hiện thực cuộc sống  ấy trước mắt học sinh,   biến những bài học khô khan trở thành những giờ giải trí, giúp các em khám  phá được bao điều kì thú của cuộc sống con người. Thế nhưng, làm thế nào   để các em cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp của văn chương, có hứng thú   và đam mê học văn hơn? Đó không chỉ là câu hỏi làm nhức nhối biết bao thế  hệ nhà giáo mà đó còn la trach nhiêm chung cua toan xa hôi, cua tât ca nh ̀ ́ ̣ ̉ ̀ ̃ ̣ ̉ ́ ̉ ưng ̃   ngươi lam công tac giao duc va đăc biêt la cua chính b ̀ ̀ ́ ́ ̣ ̀ ̣ ̣ ̀ ̉ ản thân người giao viên ́   giảng dạy bộ môn này.  Là giáo viên dạy văn có lẽ chúng ta đều công nhận rằng cái khó nhất mà  cũng quan trọng nhất trong dạy học văn chính là khơi gợi những cảm xúc,  những rung động trong tâm hồn người học sin h.  Từ  đó hình thành sợi dây  tình cảm gắn kết người học với bộ  môn. Để  làm được điều này, đòi hỏi   người giáo viên vận dụng nhiều phương pháp, biện pháp như  hỏi ­ đáp,   thuyết trình, và đặc biệt là trực quan. II. Thực trạng của vấn đề: 1. Thuận lợi ­ Được sự quan tâm của Sở, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nên hàng  năm các giáo viên đều được bồi dưỡng thường xuyên về vấn đề thay sách và   đổi mới phương pháp dạy học. ­ Bên cạnh đó tôi còn được sự giúp đỡ nhiệt tình và trao đổi những kinh   nghiệm quý báu từ  các đồng nghiệp trong tổ  chuyên môn, cụm tổ  bộ  môn  cũng như các đồng nghiệp cùng bộ môn trong huyện nhà. ­ Bản thân tôi cũng có nhiều cố  gắng học hỏi, tìm tòi những phương  pháp giảng dạy phù hợp nhằm nâng cao chất lượng bộ  môn và đặc biệt là   giúp các em ham thích môn học này. 2
  3. ­ Phần lớn các em đều là học sinh chăm ngoan của những năm học  trước. Vì thế, hầu hết các em đã ý thức được Ngữ  văn là môn học quan   trọng. Các em luôn cố  gắng phấn đấu để  đạt được kết quả  tốt, không bị  khống chế trong xếp loại học lực. Các giờ  học đã có sự  nhiệt tình, năng nổ  nên việc xây dựng bài học theo hướng kích thích nhằm phát huy tính tích  cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh đạt được hiệu quả cao. 2. Khó khăn ­ Với độ  tuổi còn nhỏ, các em chưa được tiếp xúc nhiều với thế giới  bên   ngoài.   Nhiều   lĩnh   vực,   nhiều   hiện   tượng,   sự   vật   trong   tự   nhiên,   xã   hội ...các em chưa biết đến. Thế  nên việc dạy và học văn thuyết minh (đề  cập đến các tri thức ở mọi lĩnh vực đời sống) là một điều tương đối khó. ­ Hơn nữa tài liệu minh họa và đồ  dùng dạy học phục vụ  cho việc  giảng dạy chưa phong phú (chủ yếu chỉ có vài bức tranh ảnh và tài liệu tham  khảo) nên việc chuẩn bị bài đầu tư cho môn học còn gặp nhiều khó khăn. ­ Trường tôi đang dạy là một trường ở thị  trấn nhưng đa phần học sinh  xuất thân từ nông thôn, di cư từ nhiều vùng đến. Hoàn cảnh gia đình các em  còn nhiều khó khăn. Nhiều em do áp lực gia đình về học hành nên học theo  kiểu đối phó.  ­ Tâm lí học sinh đa phần là ngại học Văn. Các em cho rằng Văn “dài  dòng”, đã vậy lại không có cảm xúc thật, điểm không được cao như các môn  khác. Mỗi lần soạn bài các em hầu như  xem sách tham khảo rồi chép, dẫn   đến cách học thụ  động. Cách hiểu và học Văn như  thế  khiến các em học  ngày càng yếu đi, dẫn đến chán học, ngại học, thấy Văn là “buồn ngủ”. ­ Một số  gia đình do hoàn cảnh khó khăn, lo làm ăn để trang trải cuộc  sống nên chưa quan tâm đến việc học tập của con em. Một số khác do công  việc bận bịu nên bỏ bê con cái, phó mặc cho nhà trường nên dẫn đến các em   lơ là, chểnh mảng trong học tập, đặc biệt là môn Văn. * Chất lượng bộ  môn Ngữ  văn của 3 lớp đang tiến hành khảo nghiệm   và thực hiện giải pháp của năm học 2017­2018: Lớp Sĩ  Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ số m  m  m TB m  Giỏi Khá Yếu 8A1 25 0 0 5 20 15 60 5 20 8A2 25 0 0 6 24 15 60 4 16 8A3 32 8 25 12 37.5 12 37.5 0 0 3
  4. Từ  những thực trạng trên, tôi đã lần lượt áp dụng các giải pháp vào 3  lớp mà tôi đang trực tiếp giảng dạy (9A1,9A2,9A3) nhằm phát huy được tính  tích cực, chủ  động của học sinh đồng thời giúp học sinh tăng hứng thú khi  học Văn, nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn. Trước khi tiến hành áp dụng các giải pháp đưa phim tư  liệu và phim  truyền hình vào bài giảng, tôi đã tiến hành khảo sát mức độ  yêu thích của  học sinh đối với môn Ngữ văn. Tôi đưa ra câu hỏi khảo sát đối với 82 em học sinh: Em có thích  học môn Ngữ văn không? Vì sao? Sau khi làm bài, kết quả mà giáo viên thu được như sau: Sĩ số  khảo sát là 82 em, trong đó có 15 em trả  lời yêu thích chiếm   18.3%, còn lại 67 em trả lời không thích hoặc không biết chiếm 81,7%. Đa   số lí do các em nêu ra như sau: ­ Môn Ngữ văn nhiều chữ quá nên khi học dễ mệt mỏi, buồn ngủ. ­ Khi học văn các em ít được xem hình ảnh, tư liệu… nên ít gây được  hứng thú… III.  Các giải pháp tiến hành để giải quyết vấn đề 1. Mục tiêu của giải pháp Thực hiện đề tài này, tôi mong muốn có thể nâng cao được chất lượng   học tập, thay đổi thói quen học Văn của học sinh. Giúp các em có kĩ năng   viết bài cảm nhận về nhân vật, phân tích tác phẩm,  làm bài văn thuyết minh  và phát huy được tính sáng tạo, chủ  động trong cách học và khơi gợi niềm   đam mê học Văn, làm Văn cho các em. Đồng thời tôi cũng muốn lồng ghép  để  giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh để  các em không chỉ  là  những học sinh giỏi mà còn ngoan ngoãn và có đạo đức tốt. 2. Nội dung và cách thức thực hiện Giải pháp 1. Xây dựng hình tượng người thầy mẫu mực    Trước hết giáo viên phải là tấm gương sáng về  đạo đức, lòng yêu  nghề, ham học hỏi và luôn luôn phấn đấu để  trau dồi chuyên môn cho học   sinh noi theo. Bản thân tôi vừa là giáo viên dạy Ngữ văn vừa  tổ trưởng tổ bộ  môn Ngữ  văn nên khi đến trường tôi luôn giữ  tác phong chuẩn mực làm  gương cho học sinh.     Khi lên lớp, theo tôi, giáo viên cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt khoát.  Khi nói nhìn thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em chứ đừng nói như nói   với chính mình hay nói khơi khơi giữa lớp.  Dùng từ, câu dễ  hiểu, phù hợp  với trình độ học sinh. Biết lắng nghe học sinh nói. Mỗi khi các em phát biểu  4
  5. ý kiến hay nói một điều gì, thầy cô dù bận rộn cũng phải lắng nghe các em  nói. Có như vậy khi thầy cô nói các em mới chú ý nghe trở lại.     Giải pháp 2. Cuẩn bị tốt giáo án, bài dạy nhằm tạo niềm tin, tình  yêu của học sinh đối với môn Ngữ văn  ­ Biện pháp 1. Xác định phương pháp, kĩ thuật dạy học Đây là một bước vô cùng quan trọng, bởi nó là kim chỉ  nam giúp giáo   viên tổ chức tiết dạy hiệu quả hay không. Mỗi một bài dạy, một phân môn  có những phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Vì thế giáo viên cần làm  chủ kiến thức, xác định được phương pháp dạy học phù hợp nhằm phát huy   tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình tiếp nhận kiến thức.  Để  thực hiện tốt biện pháp này, trước hết, ngay buổi học đầu tiên, tôi dành một  phần ba thời gian tiết học để  làm quen với các em. Cho các em thẳng thắn  trao đổi về vai trò và ý nghĩa của việc học Văn. Từ đó định hướng bước đầu   cho các em về  cách thức, phương pháp học bộ  môn này sao cho hiệu quả.   Tôi hướng dẫn cụ thể cách chuẩn bị bài ở nhà như thế nào cho phù hợp với   từng loại bài.  ­ Biện pháp 2. Chuẩn bị  phương tiện dạy học, giáo án tốt trước khi   vào tiết dạy. Sau khi xác định được mục tiêu, phương pháp, kĩ thuật dạy học, giáo  viên yêu cầu học sinh chuẩn bị  tốt các phương tiện dạy học cần thiết. Ví  dụ,  ở  những tiết dạy cần có phim tư  liệu, phim truyền hình thì giáo viên  phải chuẩn bị máy chiếu, máy tính (tivi có kết nối internet), bảng phụ, tranh  ảnh…cần thiết; học sinh chuẩn bị  bảng phụ, phiếu học tập… Để  tổ  chức   tốt một tiết học thì điều không thể thiếu là giáo viên phải soạn kĩ bài trước   khi đến lớp. Giáo viên làm chủ kiến thức, nắm chắc nội dung bài dạy.  Giải pháp 3. Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong tiết  dạy  ­ Biện pháp 1. Lựa chọn phim tư liệu, phim truyền hình cần đưa   vào bài giảng. Một nhiệm vụ quan trọng để có những tiết dạy sinh động, hấp dẫn là   giáo viên phải lựa chọn phim tư liệu hấp dẫn, phù hợp với nội dung bài dạy.   Bởi khối lượng phim tư  liệu, hình  ảnh…trên internet là vô cùng lớn, nếu  không tìm hiểu kĩ sẽ  khiến cho tiết học nhàm chán hoặc mất thời gian làm   ảnh hưởng đến các hoạt động học khác. Không chỉ yêu cầu học sinh mà giáo  viên cũng phải chuẩn bị  tốt bài dạy nếu muốn tiết dạy hiệu quả, học sinh   hứng thú với môn học. Đối với phần Văn bản: cần đọc kĩ tác phẩm, tìm hiểu thêm thông tin   về đời tư, sự nghiệp sáng tác của tác giả. Từ đó sẽ thấu hiểu được những tư  5
  6. tưởng, những ý đồ mà tác giả muốn gửi gắm. Tìm hiểu nội dung văn bản để  xác định vị trí cần đưa phim tư liệu hay phim truyền hình để  tránh việc lạc  đề hay mất thời gian của tiết học làm loãng kiến thức bài dạy. Đối với phần Tiếng Việt: cần đọc kĩ và thử  phân tích ngữ  liệu có   trong sách giáo khoa. Không bắt buộc các em làm đúng mà yêu cầu các em   đọc kĩ, trình bày theo cách hiểu của bản thân.  Có thể  lấy thêm ngữ  liệu  ở  sách tham khảo hoặc những bài tập trong các sách khác. Phần Tập làm văn: ngoài việc đọc hiểu kĩ, phân tích ngữ liệu, các em  cũng cần phải áp dụng lí thuyết vào bài văn cụ  thể. Thường xuyên lập dàn  bài và tập viết những đoạn văn ngắn để rèn luyện cách viết. Mỗi tuần sẽ có  thêm bài tập về  nhà phần Tập làm văn. Thường là viết những đoạn văn  ngắn theo chủ  đề  và lập dàn bài cho một đề  văn cụ  thể  ( có thể  sử  dụng  bằng sơ đồ tư duy).  Từ  định hướng  ấy, tôi bắt đầu thao tác soạn giảng giáo án điện tử,  chuẩn bị đồ dùng dạy học và chèn các đoạn truyền hình, phim tư liệu vào bài   giảng. Biện pháp 2. Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào bài giảng Các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn sau Cách mạng  tháng Tám đã phản ánh sâu sắc đời sống của nhân dân; sự  cống hiến quên  mình, vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn, hiểm nguy vì quê hương đất nước.   Là thế  hệ sau, được sống trong điều kiện vật chất tương đối đầy đủ  , một   cuộc sống hòa bình nhiểu em chưa cảm nhận được những năm tháng chiến   tranh gian khổ  của cha ông. Bởi thế  mà, việc tái hiện lại cuộc chiến đấu   gian khổ, ác liệt mà hào hùng của dân tộc ta là một điều cần thiết để các em   hiểu sâu sắc hơn nội dung tư tưởng mà các tác phẩm văn học mang lại. Khi dạy văn bản “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến  Duật,  văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê tôi yêu cầu các  em chuẩn bị bài tốt  ở  nhà để  khi lên lớp các em tiếp nhận kiến thức nhanh   hơn. Trước khi đi vào tìm hiểu nội dung văn bản, tôi chiếu một đoạn phim  tư  liệu về  hình  ảnh những chiếc xe không kính, những người lính lái xe,  những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong cuộc   kháng chiến chống Mĩ ác liêt. Qua việc cảm nhận bằng ngôn từ, các em học  sinh còn được quan sát từ  đó các em dễ  hình dung ra sự  gian khổ  khốc liệt   của những năm tháng chiến tranh. Từ đó sẽ tạo được sự đồng cảm ở các em.   Tất cả  những điều các em quan sát và ngẫm nghĩ được sẽ  là một kho “tư  liệu” quý giá để các em hoàn thành bài kiểm tra văn bản sau này của mình. 6
  7. Học sinh xem phim tư liệu về những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn Học sinh xem phim tư liệu về những cô gái Thanh niên xung phong Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Tây Nguyên, rất nhiểu em chưa từng biết đến  Sa Pa như thế nào. Nếu khi dạy văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” giáo viên chỉ đơn  thuần tổ chức các hoạt động dạy học để học sinh tìm hiểu kiến thức thì tiết  học rất dễ nhàm chán, học sinh khó hình dung ra vẻ đẹp của Sa Pa. Vì thế,  tôi đã chiếu một đoạn phim tư liệu về vẻ đẹp của Sa Pa để các em quan sát  và cảm nhận. Tôi tin chắc rằng, sau tiết học,  khi hỏi về vẻ đẹp của Sa Pa  các em sẽ nhớ lâu và cảm nhận tốt hơn rất nhiều so với tiết dạy chỉ sử dụng  tranh ảnh. Vậy, một vấn đề  đặt ra là đưa đoạn phim tư  liệu vào phần nào của  tiết dạy để đảm bảo nội dung và thời lượng hợp lí. Phần này là sự linh động  7
  8. trong cách tổ chức hoạt động học của giáo viên. Bản thân tôi, tiến hành như  sau: Sau khi cho học sinh tiến học tìm hiểu chung về văn bản, tìm hiểu tình   huống truyện, đến đoạn vẻ đẹp của thiên nhiên SaPa tôi sẽ  dành thời lượng  một phút để các em quan sát và cảm nhận qua đoạn phim tư liệu. Sau khi các  em quan sát đoạn phim và đọc văn bản ở phần trước, sẽ dễ dàng cảm nhận  được vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên SaPa. Học sinh quan sát đoạn phim tư liệu về vẻ đẹp của Sa Pa Đối với các văn bản nhật dụng, việc đưa phim tư  liệu, phim truyền   hình vào tiết dạy là một điều vô cùng cần thiết. Ví dụ, khi dạy văn bản   “Phong cách Hồ Chí Minh” (Lê Anh Trà) tôi đã cho các em xem đoạn phim tư  liệu về Bác khi giới thiệu về vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh.   8
  9. Học sinh quan sát đoạn phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh Hay khi dạy văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” ngoài việc  tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa thì việc chiếu những thước phim tư  liệu về tội ác, sự khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh và chiến tranh hạt nhân  là một giải pháp giúp học sinh nắm được kiến thức nhanh nhất.  Học sinh quan sát đoạn phim nói về sự khốc của chiến tranh Đối với phần Tiếng Việt: Tiếng Việt vốn là phân môn có kiến thức mang tính chính xác cao. Tuy   nhiên tôi đã mạnh dạn lồng ghép những đoạn phim truyền hình vào vừa để  tạo hứng thú, rèn luyện kĩ năng quan sát và tư  duy đồng thời củng cố  về  kiến thức. Hơn nữa, đó lại là những đoạn phim trong các văn bản đã học.   Thế nên ngoài việc bổ trợ kiến thức Tiếng Việt, nó còn giúp các em hiểu sâu   hơn về  các tác phẩm đã học, biết kết hợp nhuần nhuyễn kiến thức phân  môn, liên môn. Khi dạy tiết 43: “Nghĩa tường minh và hàm ý”. Với phần tìm hàm ý  trong câu nói của chị Dậu,  tôi đã lồng đoạn phim “Chị Dậu 1989” với cảnh   chị  Dậu đau đớn thông báo với cái tí là mình sẽ  bán con cho nhà cụ  Nghị.   Yêu cầu học sinh xem phim xong, cô mới cho các em tìm hàm ý trong những   câu đối thoại của hai  nhân vật. Từ  cuộc đối thoại, các em vừa hiểu được  tình cảnh đáng thương của gia đình chị  Dậu, lại vừa xác định được hàm ý.  Không chỉ thế, giáo viên còn có thể nâng cao kiến thức cho học sinh khi lồng   ghép với bài tập 1 trong sách giáo khoa.  Khi dạy bài “Các phương châm hội thoại”, giáo viên có thể tìm những  đoạn phim hài để  thấy được việc sử  dụng các phương châm hội thoại đa  dạng như  thế  nào. Từ  đó vừa tạo không khí vui vẻ, thoải mái cho tiết học   vừa giúp học sinh nhớ lâu. 9
  10. Đối với phần Văn bản và Tập làm văn  phần văn thuyết minh, tôi tiếp  tục đưa các đoạn phim tư liệu vào bài giảng để tạo hứng thú cho các em học  tập.  Khi dạy bài “Sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh ”,   tôi đã lòng ghép phim tư  liệu “Cây chuối trong đời sống con người Việt  Nam” vào bài giảng để  học sinh vừa nghe vừa quan sát về  cây  chuối.  Với  khoảng thời gian 3 phút, học sinh được quan sát hình dáng, đặc điểm, lợi ích  từ  cây chuối mang lại cho đời sống con người. Từ  phương pháp trực quan  sinh động này, học sinh có thể ghi nhớ   kiến thức lâu hơn bởi trước mắt các  em là những  hình  ảnh minh họa  cụ  thể, rõ ràng, đầy  ấn tượng.  Bên cạnh  những hình ảnh chân thực ấy, lời bình vô cùng hấp dẫn trong phim còn có tác  dụng giúp học sinh có thêm vốn từ, kiến thức thực tế để sau này viết bài tốt  hơn. Hình ảnh minh họa: Học sinh xem phim tư liệu về lợi ích của cây chuối Khi   dạy   bài   “Một   số   biện   pháp   nghệ   thuật   trong   văn   bản   thuyết   minh”, tìm hiểu ngữ liệu về ruồi xanh qua văn bản “Ngọc hoàng sử tội ruồi  xanh”, sau phân tích ngữ  liệu, học sinh xác định được các biện pháp nghệ  thuật sử  dụng trong văn bản thuyết minh, tìm hiểu về  đặc điểm của loài  ruồi xanh, giáo viên lồng ghép cho học sinh xem đoạn phim tư  liệu về  loài  ruồi. Làm như vậy, học sinh không chỉ nhớ được kiến thức về các biện pháp  nghệ thuật mà các em còn khắc sâu về những đặc tính của loài ruồi xanh. 10
  11. Học sinh xem phim tư liệu về loài ruồi xanh Khi dạy văn học địa phương, tôi đã đưa những đoạn phim tư liệu vào   bài giảng một cách phù hợp để học sinh có thể quan sát và dễ hình dung hơn.   Ví dụ  khi dạy bài “Vườn quốc gia Yok Đôn”, khi tôi hỏi “các em đã được  đến thăm vườn Quốc gia Yok Đôn chưa?”, thì hầu như các em đều trả lời là   chưa. Vậy thì việc sử dụng những đoạn phim tư  liệu trên mạng Internet để  giới thiệu về địa điểm này là một giải pháp hay. Bởi nó giúp cho các em “du   lịch bằng mắt” để tìm hiểu những đặc trưng, giá trị của vườn Quốc gia Yok   Đôn đối với đời sống của con người Đăk Lăk nói riêng và nước Việt Nam  nói chung. Học sinh quan sát đoạn phim tư liệu về vườn quốc gia Yok Đôn trước khi tìm hiểu nội   dung bài học IV.  Tính mới của giải pháp 11
  12. Đây là phương pháp mang tính giáo dục cao. Được hình thành từ  việc  tiếp thu kiến thức đã học qua việc quan sát, tìm hiểu và khả  năng tư  duy  sáng tạo một cách khoa học, để  áp dụng vào thực tiễn bằng những tình  huống cụ thể. Từ đó giúp học sinh có kiến thức, kĩ năng viết bài cảm nhận   và làm bài văn thuyết minh tốt hơn, đồng thời giúp các em có thêm tinh thần   tự  giác học tập, tích cực, chăm phát biểu, làm bài hơn và đặc biệt yêu thích   môn Ngữ văn hơn. Điều này thấy rõ trong bài kiểm tra cuối học kì. Tỉ lệ bộ  môn tăng lên rõ rệt so với các lớp khác. V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Sau khi áp dụng những phương pháp trên, đa số  giờ  học Văn của lớp  tôi dạy học sinh đều hứng thú, hăng hái phát biểu xây dựng bài, làm bài tốt,   đầy đủ  ý. Từ  đó mà kết quả  học tập của học sinh lớp 9 qua các năm học  2017­2018; 2018­2019 đã có sự chuyển biến rõ rệt. Riêng lớp 9ª1,9ª2,9ª3 của   năm học 2018­2019 đã có những chuyển biến ró nét về  chất lượng bộ  môn   so với năm trước. Kết quả trung bình môn cả năm của các lớp tôi đã dạy và áp dụng giải  pháp: Năm học 2017­2018. Khi áp dụng giải pháp chưa triệt để Lớp Sĩ  Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ số m  m  m TB m  Giỏi Khá yếu 9A4 32 2 6.25 10 31.25 17 53.13 3 9.4 9A5 35 4 11.4 15 42.9 15 42.9 1 2.9 Năm học 2018­2019. Khi áp dụng giảo pháp triệt để, linh hoạt Lớp Sĩ  Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ Điể Tỉ lệ số m  m  m TB m  Giỏi Khá Yếu 9A1 25 4 16 10 40 9 36 2 8 9A2 25 3 12 10 40 11 44 1 4 9A3 32 10 31.6 16 50 6 18.8 0 0 Khảo sát tỉ  lệ  yêu thích bộ  môn Ngữ  văn của 3 lớp tôi trực tiếp  giảng dạy. Trong tổng số 82 em thì có 70 (85,4%) em trả lời là yêu thích môn  Ngữ văn, rất thích học, thích lắng nghe cô giảng bài. Các em đều nói, khi học  12
  13. được xem phim tư liệu, phim truyền hình, tranh ảnh phong phú kết hợp với  lời giảng, bình của cô nên tiết học sinh động, các em không còn có trạng thái  buồn ngủ hay cảm thấy mệt mỏi khi đến tiết học nữa. Tỉ lệ yêu thích môn   Ngữ văn tăng lên từ 18.3% lên 85.4%. Đó là một con số đáng mừng cho thấy   giải pháp tôi áp dụng là hiệu quả. Từ tổng hợp kết quả trên cho thấy, học sinh đã có những chuyển biến   tích cực trong việc học môn Ngữ  văn. Vì vậy, có thể  nói: một trong những   nguyên nhân để tạo ra kết quả đáng mừng đó chính là việc giáo viên đã đưa  phim truyền hình và phim tư liệu vào bài giảng, hướng dẫn, kích thích cũng  như khơi gợi tiềm năng  học Văn và làm Văn trong các em.  PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I. Kết luận   Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích  cực cho học sinh trong học tập bộ môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng   là đổi mới phương pháp dạy học, dạy học theo hướng lấy hoạt động học  tập của học sinh làm trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội   kiến thức, người thầy đóng vai trò là người tổ  chức, chỉ  đạo. Vì vậy, việc  nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận bài học linh hoạt, khoa học, hợp lí  nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh trong dạy học Ngữ văn là rất cần  thiết. Qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng nâng cao chất lượng bộ  môn, tạo hứng thú học tập  ở  các em ta cần phải biết chọn điểm xuất phát  thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng đối tượng học   sinh,…Muốn có được kết quả  tốt trong giáo dục cần có các phương pháp  giảng dạy phù hợp với đối tượng và kết hợp tốt các phương tiện dạy học.   Bên cạnh đó, cần không ngừng nâng cao bồi dưỡng chuyên môn, áp dụng các   phương pháp dạy học mới để  kết quả  học có chất lượng hơn. Và đặc biệt  cần phải kích thích được khả năng sáng tạo, tư duy, niềm đam mê học Văn   từ chính học sinh.  Đề  tài sáng kiến kinh nghi ệm:   “Đưa phim truyền hình và phim tư  liệu vào trong các tiết dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học  tập cho học sinh” mang một ý nghĩa rất quan trọng và là một việc làm hết  sức cần thiết. Bởi lẽ, qua quá trình quan sát, học tập và rèn luyện này học   sinh sẽ  có thêm nhiều kiến thức hữu ích giúp các em dễ  dàng tiếp cận và  trình bày cảm nhận của mình trước một tác phẩm, một nhân vật văn học  hơn. Hơn nữa, việc quan sát, tìm hiểu những Danh lam th ắng c ảnh, làng  nghề  nổi tiếng…sẽ  giúp các em làm tốt dạng văn thuyết minh và bồi đắp  thêm tình yêu  đối  với quê hươ ng  đất nướ c và yêu thích môn Văn hơn.  Cũng từ đó mà kết quả học tập cùng nhận thức của các em đượ c nâng cao   rõ rệt. Các em biết quý trọng, yêu thươ ng, biết nhận thức cái đúng, sai,  13
  14. biết tự  hoàn thiện mình.   Các em sẽ  tích cực hơn trong việc tham gia các  hoạt động học tập, rèn luyện, kể cả các hoạt động mang ý nghĩa cộng đồng.  Trong quá trình áp dụng đề  tài này vào trong thực tiễn giảng dạy, tôi  thấy kết quả  có chuyển biến, chất lượng bộ  môn được nâng lên. Số  học  sinh mà tôi dạy ngày càng yêu thích học môn Ngữ văn hơn. Các em chủ động  sáng tạo trong giờ học, mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài học. Và đặc  biệt học sinh làm tốt dạng viết đoạn văn cảm nhận về nhân vật và dạng văn  thuyết minh. Điều này được thể hiện cụ thể qua các kì thi học kì. II. Kiến nghị Sau khi nghiên cứu đề tài này, tôi thấy kết quả đạt được rất khả quan,  vì vậy tôi rất mong muốn phương pháp mà tôi đưa ra có thể  được áp dụng   trong việc dạy học để nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Tôi cũng  rất mong nhận được sự  góp ý quý báu của Ban giám hiệu, Tổ  chuyên môn  cùng các đồng nghiệp để cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.  Tôi xin chân thành cảm ơn. Buôn Trấp, ngày 25 tháng 4 năm 2019 Người viết sáng kiến Trần Thị Lệ 14
  15. NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… …………………… 15
  16. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập một – NXB Giáo Dục 2. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập hai – NXB Giáo Dục 3. Sách giáo viên Ngữ văn 9, tập một và hai ­  NXB Giáo Dục 4. Tài liệu tập huấn giáo viên của Bộ giáo dục và đào tạo về đổi mới  phương pháp dạy học (Tài liệu lưu hành nội bộ) 5. Bộ giáo dục và đào tạo – Dự án phát triển Giáo dục THCS II Một số  chuyên đề bồi dưỡng Cán bộ quản lí và giáo viên THCS. (Tài liệu lưu hành  nội bộ) 6. Tham khảo tài liệu trên google.vn   16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD


ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2