intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị tập thơ “Nhật kí trong tù” trong chương trình ngữ văn lớp 8

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

28
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm là với nhiều phương pháp đổi mới trong dạy học mỗi thầy cô là một người lái đò quan trọng để đưa các em qua sông. Hiểu được điều đó với phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh tìm hiểu về giá trị của một tập thơ lại càng có ý nghĩa lớn lao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị tập thơ “Nhật kí trong tù” trong chương trình ngữ văn lớp 8

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu:                   Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ  vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh  hùng giải phóng dân tộc, là một danh nhân văn hoá thế  giới. Cuộc đời và sự  nghiệp của Người là một tấm gương sáng chói về chủ nghĩa yêu nước, về lòng   tự  hào dân tộc, về  ý chí nghị  lực kiên cường của người chiến sĩ cách mạng.  Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Người đã lấy thơ  văn làm ngòi bút   chiến đấu. Vì vậy, đọc tác phẩm của Người ta còn thấy chân dung một con   người ở trong đó. Tiêu biểu cho tác phẩm ấy  chính là  tập thơ “Nhật kí trong tù  ”của Bác.            “Nhật kí trong tù ” thật sự là một tác phẩm có giá trị, một viên ngọc quý  mà Bác đã vô tình “đánh rơi” vào kho tàng văn học Việt Nam. Cho đến nay trải   qua bao thời gian mà dòng người vẫn đến với tác phẩm như  để  hiểu hơn một   con người. Trong chương trình môn Ngữ văn lớp 8 ở trường THCS các em được   tiếp cận với một số bài trích trong tập thơ. Song để hiểu được tác phẩm mà các  em chưa có điều kiện tiếp cận với tập thơ của Người các em cần có sự  hướng  dẫn của người giáo viên. Vì vậy, khi đứng trên lớp qua mỗi bài dạy học về  tác  phẩm văn chương là một lần các thầy cô phải suy nghĩ, trăn trở tìm ra lối đi phù  hợp với học sinh mình nhất. Với nhiều phương pháp đổi mới trong dạy học mỗi  thầy cô là một người lái đò quan trọng để đưa các em qua sông. Hiểu được điều  đó với phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh tìm hiểu về giá trị của một tập   thơ  lại càng có ý nghĩa lớn lao . Vì vậy, tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm   “Hướng   dẫn   học   sinh  tìm   hiểu   giá   trị   tập   thơ   Nhật   kí   trong   tù”   trong   chương trình ngữ văn lớp 8”.       2. Tên sáng kiến:       “Hướng dẫn học sinh  tìm hiểu giá trị  tập thơ  “Nhật kí trong tù” trong   chương trình ngữ văn lớp 8”.       3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  1
  2. ­ Sáng kiến kinh nghiệm này tôi vận dụng vào dạy bồi dưỡng học sinh giỏi môn  Ngữ văn lớp 8 ở trường THCS. ­Học sinh đội tuyển, học sinh giỏi Trường THCS Đồng Cương. 4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng bắt đầu từ ngày 01/09/2015 . 5. Mô tả bản chất của sáng kiến:   5.1. Về nội dung sáng kiến:                       a.Giới thiệu Hồ Chí Minh :    *Tiểu sử :         Chủ Tịch Hồ Chí Minh (lúc còn bé tên là Nguyễn Sinh Cung) khi đi học lấy  tên là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là  Nguyễn Ái Quốc.  Người sinh ngày 19 tháng 05 năm 1890, mất ngày 02 tháng 09   năm 1969.Quê ngoại là làng Hoàng Trù, quê nội là làng Kim Liên, huyện Nam  Đàn, tỉnh Nghệ An.       Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân .Thân  phụ người là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng. Thân mẫu  là bà Hoàng Thị Loan; Người có một chị gái là Nguyễn Thị Thanh, một người anh  là Nguyễn Sinh Khiêm(Tự Tất Đạt, còn gọi là Khiêm), một người em trai mất  sớm là Nguyễn Sinh Nhuận, tên khi mới lọt lòng là Xin.Theo gia phả của dòng họ  Nguyễn ở làng Kim Liên tại Nam Đàn ­ Nghệ An thì bảy đời dòng họ Nguyễn có  nhiều người học giỏi đỗ đạt cao.Vì thế chính gia đình, dòng họ và truyền thống  của quê hương đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh ngay từ thời niên thiếu.  Bởi vậy Nguyễn Sinh Cung là một học trò thông minh, chăm chỉ học tập và ham  tìm hiểu những điều mới lạ. Ngoài những sách phải học, Người còn ham đọc  truyện và thơ ca yêu nước. Lúc ở quê nhà, Nguyễn Sinh Cung học chữ Hán. Lớn  lên Người theo cha vào Huế học. N ăm 1911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường  cứu nước. Năm 1918 Nguyễn Tất Thành tham gia đảng xã hội Pháp. Năm 1920  Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập đảng xã hội Pháp. Từ 1923đến 1941 Nguyễn  Ái Quốc chủ yếu học tập và hoạt động ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan. Năm  1941Người về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.Tháng tám năm  1942 Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng chống  Nhật thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam .Trong những ngày bị đày  2
  3. đoạ vô cùng cực khổ Người đã viết tập thơ “Nhật kí trong tù”.Tháng 9 năm 1943  Người được trả tự do, trở về nước lãnh đạo phong trào cách mạng giành thắng  lợi. Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945 Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí  Minh chính thức được bầu làm Chủ tịch nước. Từ 1945 với cương vị Chủ tịch  nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến  chống thực dân Pháp, khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Ngày mùng 2 tháng 9  năm 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần . *Sự nghiệp :  ­Văn xuôi hình tượng : Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố  hay là Va Ren và Phan Bội Châu … ­Văn chính luận : Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Bản  án chế độ thực dân Pháp  ­Thơ : Tập thơ “Nhật kí trong tù”, Thơ Hồ Chí Minh b. Tập thơ “Nhật kí trong tù ”: b.1.Giới thiệu chung :  * Hoàn cảnh sáng tác :  ­Tháng 8 ­1942,Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung  Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Khi đến gần  thị trấn Túc Vinh thì Người bị chính quyền địa phương ở đây bắt giữ, rồi bị giải  tới giải lui gần 30nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đoạ cực  khổ hơn một năm trời. Trong những ngày đó, Người đã viết “Nhật kí trong tù”  bằng chứ Hán, gồm 133 bài, phần lớn là thơ tứ tuyệt. *Thể loại :   “Nhật kí trong tù”là một tập nhật kí bằng thơ gồm 133 bài, được viết bằng thơ  chữ Hán. b.2Giá trị nội dung và nghệ thuật : ­Giá trị nội dung: b.2.1 Nhật kí trong tù phản ánh chế độ đen tối của nhà tùTưởng Giới  Thạch :  3
  4.    * “Nhật kí trong tù” lên án chế độ nhà tù cực kì vô nhân đạo:   Người ở trong tù bị bóc lột một cách tàn nhẫn, vào tù phải nộp đủ mọi khoản  tiền: “ Nhập lung yếu nạp đăng quang phí, Vào lao anh phải nộp tiền đèn Quế tệ nhân nhân các lục nguyên ” Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu “nguyên” (Tiền đèn) Người tù phải tự lo lấy muối, dầu, gạo, củi: “ Giam phòng dã thị tiểu gia đình, Nhà lao mà giống tiểu gia đình, Sài, mễ, du, diêm tự kỷ doanh; Gạo củi, muối, dầu tự sắm  sanh; Mỗi cá lung tiền nhất cá táo, Trước mỗi phòng giam bày một bếp,  Thành thiên chử phạn dữ điều canh.” Suốt ngày lụi hụi với cơm,  canh. (Nhà lao Quả Đức) “ Sơ lai yếu nạp nhập lung tiền, Mới đến nhà giam phải nộp tiền Chí thiểu nhưng tu ngũ thập nguyên” Lệ thường ít nhất năm mươi “nguyên” (Tiền vào nhà giam ) Và còn phải chịu đựng cái “luật rừng” : “ Chiếu lệ sơ lai chư nạn hữu, Lệ thường tù mới đến Tất tu thụy tại xí khanh biên Phải nằm cạnh cầu tiêu Giả như nhĩ tưởng hảo hảo thụy, Muốn ngủ cho ngon giấc Nhĩ yếu đa hoa kỷ khối tiền.” Anh phải trả  tiền nhiều (Quán trọ) Không những người tù phải nộp đủ mọi khoản tiền mà còn bị bòn rút từng hào  một: “ Chử nhất oa phạn lục mao tiền Thổi một nồi cơm, trả sáu hào Nhất bồn khai thủy ngân nhất nguyên Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác Một đồng của đáng sáu hào chỉ Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.” Giá cả trong tù định rõ sao! (Tiền công) Người tù bị đày đọa đến mức tàn khốc nhất. Họ phải chịu cảnh ăn đói: 4
  5. “ Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn Lót lòng mỗi bữa lưng cơm đỏ Vô diêm, vô thái, hựu vô thang” Không muối, không canh cũng chẳng cà (Cơm tù) Phải ngủ rét: “ Thu thâm vô nhục diệc vô chiên Đêm  thu không đệm cũng không chăn Súc hĩnh cung yêu bất khả miên” Gối quắp lưng còng ngủ chẳng an (Đêm  lạnh) Người tù bị hạn chế cả những chuyện nhỏ nhất: “ Một hữu tự do chân thống khổ Đau khổ chi bằng mất tự do Xuất cung dã bị nhân chế tài; Đến buồn đi… cũng không cho Khai lung chi thì đỗ bất thống, Cửa tù khi mở không đau bụng Đỗ thống chi thì lung bất khai.” Đau bụng thì không mở cửa tù. (Bị hạn chế) Người tù còn phải chịu cảnh: “ Tứ nguyệt ngật bất bão Bốn tháng cơm không no Tứ nguyệt thụy bất hảo Bốn tháng đêm thiếu ngủ Tứ nguyệt bất hoán y, Bốn tháng áokhông thay Tứ nguyệt bất tẩy tảo” Bốn tháng không giặt giũ (Bốn tháng rồi) Chính vì bốn tháng bị đày đọa: cơm không no, đêm thiếu ngủ, áo không thay,  không giặt giũ là đủ biến một con người khỏe mạnh, bình thường thành một con  người khác hẳn: “ Hắc sấu tượng ngã quỷ Gầy đen như quỷ đói Toàn thân thị lại sa” Ghẻ lở mọc đầy thân (Bốn tháng rồi) Bị ghẻ lở khắp người: “ Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm, Đầy mình đỏ tím như hoa gấm Thành nhật lao tao tự cổ cầm; Sột soạt luôn tay tựa gẩy đàn Xuyên cẩm, tù trung đô quý khách, Mặc gấm bạn tù đều khách quý Cổ cầm, nạn hữu tận tri âm.” Gẩy đàn trong ngục thẩy tri âm 5
  6. (Ghẻ lở) Vì thế mà người tù bị bệnh tật hành hạ và cái chết lúc nào cũng có thể xảy ra: “ Tha thân chỉ hữu cốt bao bì Thân anh ra bọc lấy xương Thống khổ cơ hàn bất khả chi Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc, Đêm qua còn ngủ bên tôi Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.” Sáng nay anh đã về nơi suối vàng (Một người tù cờ bạc vừa chết cứng)     Hình ảnh nhà tù cực kì vô nhân đạo cũng chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội  Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.   * Nhật ký trong tù lên án một chế độ xã hội đầy rẫy sự bất công: Quyền sống của con người không được đảm bảo, người lương thiện vô tội bị  bắt giam bừa bãi: “ Oa…! Oa…! Oa…! Oa…! Oa…! Oa…! Gia phạ đương binh cứu quốc gia; Cha sợ sung quân cứu nước nhà; Sở dĩ ngã niên tài bán tuế, Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi Yếu đáo ngục trung căn trước ma.” Phải theo mẹ đến ở nhà pha (Cháu bé trong ngục Tân Dương) Nhân vật trong bài thơ là một em bé sáu tháng. Tiếng nói ở đây là tiếng khóc,  tiếng khóc tố cáo xã hội Trung Quốc. Đã là xã hội mà pháp luật trừng trị, hành  hạ cả những nạn nhân đáng thương vô tội đáng lẽ phải được trân trọng, chăm  sóc, yêu thương. Chế độ xã hội ấy, nền tảng pháp luật ấy mất đi bản chất nhân  đạo và sự công bằng của nó. Cũng vẫn là âm hưởng trữ tình, pha châm biếm, ở một bài thơ khác, tiếng nói  của người phụ nữ vừa gây sự thương cảm xót xa, vừa mang tính chất mỉa mai,  chua chát: “ Lang quân nhất khứ bất hồi đầu Biền biệt anh đi không trở lại Sử thiếp khuê trung độc bão sầu Buồng the trơ trọi thiếp ôm sầu Đương cục khả liên dư tịch mịch, Quan trên xót nỗi em cô quạnh Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.” Nên lại mời em  tạm  ở tù (Gia quyến người bị bắt lính) 6
  7. Bài thơ là tiếng nói nhỏ nhẹ, mềm mại của người phụ nữ với cảnh ngộ trớ trêu  của mình. Nạn nhân là một người phụ nữ vô tội và kẻ trắng trợn gây tội lỗi lại  nghiễm nhiên là những người đại diện cho pháp luật. Điều đó càng làm bật lên  tính chất vô nhân đạo của chế độ Tưởng Giới Thạch. Đến đại biểu của một nước láng giềng đến công cán cũng bị bắt giam vô tội vạ,  bị giải tới giải lui qua hơn ba mươi nhà  lao mà không hề được giải quyết: “ Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân Ta là đại biểu dân Việt Nam Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân; Tìm đến Trung Hoa để hội đàm Vô nại phong ba bình địa khởi, Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió Tống dư nhập ngục tác gia tân.” Phải làm khách quý tại nhà giam (Đường đời khó khăn) Nhật ký trong tù là bản án đanh thép chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. b.2.2: Nhật kí trong tù như một bức chân dung tự hoạ con người Hồ Chí  Minh: Đọc tác phẩm “Nhật kí trong tù” ,chúng ta bắt gặp con người Hồ Chí Minh với  tất cả vẻ đẹp , phong phú sâu sắc trong tâm hồn, trong tính cách, trong cách nhìn,  cách suy nghĩ về cuộc đời và người. “Nhật kí trong tù” đúng là một bức chân  dung tự hoạ bằng thơ về con người tinh thần của người sáng tạo ra nó.            *Đó là niềm khao khát tự do cháy bỏng:     Hồ Chí Minh đau khổ vô hạn và thấm thía sâu sắc nỗi “mất tự do”.Nỗi đau  khổ này được tác giả bộc lộ trong nhiều bài thơ. Trong lần chuyển lao có bọn  “cảnh binh khiêng lợn cùng đi”Bác đã viết những câu thơ đầy cay đắng, biểu lộ  một quy luật trong cuộc sống đau khổ của chính mình:                           “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng                              Cay đắng chi bằng mất tự do”                                                (Cảnh binh khiêng lợn cùng đi)   Trong bài thơ “Bị hạn chế”Bác cũng khẳng định :                            “Đau khổ chi bằng mất tự do”   Nỗi sốt ruột khắc khoải chờ mong kéo dài theo ngày tháng đã chuyển thành sự  giận giữ, phần nộ:                            “Quảng Tây đi khắp lòng oan ức 7
  8.                              Giải đến bao giờ, giải tới đâu?”     Bên cạnh đó ở Người còn là tự do về mặt tinh thần trong “bài thơ đề từ” :                             “Thân thể tại ngục trung                               Tinh thần tại ngục ngoại”                              (Thân thể ở trong lao                              Tinh thần ở ngoài lao)     Và không ít lần, Hồ Chí Minh thấy mình là khách tự do, thanh thản ung dung, tự  tại như là một khách tiên.Trong bài “ngắm trăng” Bác viết :                               “Ngục trung vô tửu diệc vô hoa                                Đối thử lương tiêu nại nhược hà                                Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt                                 Nguyệt tòng song khích khán thi gia”                             (Trong tù không rượu cũng không hoa                                Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ                                Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ                                Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ) Trong bài thơ hoàn toàn không thấy tác giả nói đến nỗi đau khổ, bồn chồn vì  mất tự do, mà chỉ thấy hình tượng một thi sĩ hết sức nhạy cảm và tinh tế trước  vẻ đẹp của thiên nhiên. Ánh trăng vô tri vô giác qua tâm hồn của người tù thi sĩ  trở thành nhân vật đáng yêu có tâm trạng, có linh hồn.     *Tập thơ còn là lòng yêu nước sâu sắc của người chiến sĩ cách mạng: Yêu nước thương dân chính là biểu hiện cao nhất của tình cảm nhân đạo .Bởi  yêu nước là nơi kết tinh, lắng đọng của tình cảm yêu thương con người. Sống  trong cảnh lao tù cực khổ mà lòng sốt ruột luôn nhớ về quê hương,Tổ Quốc “Tin  tức bên nhà bữa bữa trông” “Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ”. Nỗi lòng ấy  còn khiến cho Người trong đêm khuya mà không sao ngủ được:                                 “Nhất canh…nhị canh…hựu tam canh                                   Triển chuyển, bồi hồi,thuỵ bất thành;                                   Tứ,ngũ canh thi tài hợp nhãn                                    Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh” 8
  9.                                 (Canh một …canh hai…lại canh ba                                   Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành                                    Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt                                    Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh)                                                                                                    (Không ngủ được)  Yêu nước còn là nỗi xót xa trước cảnh đất nước lầm than :                                 “ Tâm hoài cố quốc thiên đường lộ                                  Mộng nhiễu tân sầu, vạn lũ ti                                  Vô tội nhi tù dĩ nhất tải                                  Lão phu hoà lệ tả tù thi”                                 (Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ                                  Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay                                  ở tù năm trọn thân vô tội                                   Hoà lệ thành thơ tả nỗi này)                                                                                               (Đêm thu) Ngay cả khi ốm nặng Người vẫn lo lắng cho nước cho dân: “Ngoại cảm hoa thiên tân lãnh nhiệt  (Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh   Nội thương Việt địa cựu sơn hà”        Nội thương đất Việt cảnh lầm than)                                                                                              (Ốm nặng)         Lòng yêu nước thương dân tha thiết đã biến thành nỗi nhớ cách mạng , khao  khát được trở về hoạt động, đấu tranh :                                “Xót mình giam hãm trong tù ngục                                  Chưa được xông pha giữa trận tiền”                                                                                (Ở Việt Nam có bạo động)     Lòng yêu nước còn được thể hiện thành nỗi nhớ bạn , nhớ đồng chí da diết ,  bâng khuâng:                                “Ngày đi, tiễn bạn đến bến sông                                  Hẹn ngày về khi lúa đỏ đồng                                   Nay gặt đã xong cày đã khắp                                   Quê người tôi vẫn chốn lao lung” 9
  10.                                                                                (Nhớ bạn)         *Tập thơ còn là lòng nhân ái bao la sâu sắc của Người : Sẽ là thiếu sót rất lớn nếu như trong “bức chân dung tự hoạ” chúng ta không đề  cập đến tình yêu thương con người và vạn vật của Bác .Trong bài thơ “Bác  ơi”nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu thơ rất hay, rất đúng về con người Hồ Chí  Minh :                                      “Bác ơi tim Bác mênh mông thế                                         Ôm cả non sông, mọi kiếp người!”    Trước hết trái tim ấy dành trọn vẹn tình thương yêu cho những người lao khổ  ,nhất là với phụ nữ và trẻ em. Chỉ nhìn thấy cảnh ngộ thôi Người cũng phải thốt  lên, đồng cảm với cháu bé khi chưa tròn một tuổi :                                     “oa…!oa…!oa…!                                     Cha sợ sung quân cứu nước nhà                                      Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi                                      Phải theo mẹ đến ở nhà pha”                                                                            (Cháu bé trong ngục Tân Dương)   Chỉ cần  nghe “Người bạn tù thổi sáo”, Bác chẳng những thấu hiểu nỗi lòng nhớ  quê của anh ta mà còn hình dung thấy ở chốn chân trời xa xôi kia có một phụ nữ  bước lên một tầng lầu nữa để ngóng trông chồng:                                    “Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu                                      Khúc nhạc đồng quê chuyển điệu sầu                                       Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi                                       Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.”     Chỉ bằng âm thanh của tiếng sáo thôi mà Bác đã đón nhận bằng cả sự cảm  thông và tình thương yêu tha thiết.        Trong tù, Bác gọi những người cùng bị giam là “nạn hữu”(bạn tù) và Người  cùng chia sẻ họ những nỗi niềm sâu kín hay cùng đùa vui trong cảnh ghẻ lở khổ  sở:                                    “Mặc gấm bạn tù đều khách quý                                      Gẩy đàn trong ngục thảy tri âm” Người còn cảm thông với cảnh ngộ của vợ người bạn tù đến thăm chồng : 10
  11.                                    “Quân tại thiết song lí                                      Thiếp tại thiết song tiền                                      Tương cận tại chỉ xích                                       Tương cách tự thiên uyên                                       Khẩu bất năng thuyết đích                                        Chỉ tại nhãn truyền nghiên”                                     (Anh ở trong song sắt                                       Em ở ngoài song sắt                                      Gần nhau chỉ tấc gang                                      Mà cách nhau trời vực                                      Miệng nói chẳng nên lời                                       Chỉ còn nhờ khoé mắt)                                                           (Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng) Không chỉ vậy, Người còn khóc thương cho cảnh ngộ của người tù cờ bạc vừa  chết cứng, tình cảm đó như là tình cảm của người thân dành cho nhau:                                     “Thân anh da bọc lấy xương                                       Khổ đau đói rét hết phương sống rồi                                        Đêm qua còn ngủ bên tôi                                       Sáng nay anh đã về nơi suối vàng                                                                            (Một người tù cờ bạc chết cứng)         Cùng với những người bạn tù tình cảm của Người còn dành cho cả những  người lao động . Trên đường chuyển lao Người nhìn thấy cảnh vất vả của  những người phu làm đường mà viết nên thơ :                                     “Dãi gió dầm mưa chẳng nghỉ ngơi                                       Phu đường vất vả lắm ai ơi!                                       Ngựa xe, hành khách thường qua lại                                        Biết cảm ơn anh được mấy người ?”                                                                           (Phu làm đường)  Đâu chỉ vậy Người còn cảm thông, ái ngại cho cả cảnh hạn hán, mất mùa của  người nông dân:                    “Vùng đây tuy rộng đất khô cằn, 11
  12.                                       Vì thế nhân dân kiệm lại cần ;                                       Nghe nói xuân nay trời đại hạn                                        Mười phần thu hoạch chỉ đôi phần”                                                                            (Long An­Đồng Chính)   Trong những lần chuyển lao đầy gian khổ khi trời sắp tối, nhìn cánh chim bay  mỏi mệt mà không nghĩ đến mình Người còn nhìn tới hình ảnh người lao động  quan tâm đến họ:                    “Cô em xóm núi xay ngô tối                                         Xay hết lò than đã rực hồng”                                                                            (Chiều tối)                Tình yêu thương của Người thật đáng cho ta trân trọng .Người không chỉ yêu  thương con người mà còn yêu thương cả vạn vật xung quanh mình. Khi ở trong  tù Người còn cảm thông cho những bông hoa không có sự sẻ chia , cảm thông :                                     “Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ                                       Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình                                        Hoa hương thấu nhập lung môn lí                                       Hướng tại lung nhân tố bất bình”                                      (Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng                                       Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình ;                                       Hương hoa bay thấu vào trong ngục                                       Kể với tù nhân nỗi bất bình)                                                                           (Cảnh chiều hôm)     Người còn thương cho cả một chiếc răng bị gẫy như thương một người bạn  đã gắn bó thân thiết với mình từ lâu :                                      “Cứng rắn như anh chẳng kém ai                                        Chẳng như lão lưới dẻo và dài                                        Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ                                        Nay kẻ chân mây kẻ cuối trời”.                                                                        (Rụng mất một chiếc răng) Chúng ta có thể thấy tình yêu thương của Hồ Chí Minh mang tầm nhân loại rộng  lớn. Điều này tạo nên giá trị đặc biệt của tập thơ. 12
  13. *“Nhật kí trong tù” còn là ý chí, nghị lực phi thường, lớn lao, bền bỉ: Chất “tình” và chất “thép” được kết hợp một cách tự nhiên, hài hoà. Đúng như  nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nhận xét:                                        “Vần thơ của Bác vần thơ thép                                         Mà vẫn mênh mông bát ngát tình” “Thép” chính là tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất. Nhưng điều đáng  chú ý là chất “thép” ấy được toát ra một cách tự nhiên,bình dị trong tư thế ung  dung, tự tại của một con người làm chủ mọi tình huống. Có lần chuyển lao, Bác  bị bọn lính xích chân vào thuyền nhưng Người vẫn phát hiện cuộc sống đông  đúc vui tươi của làng xóm bên sông, của những thuyền câu nhẹ lướt. Có lần, sau  suốt một ngày đi xa vất vả, chiều xuống, Bác tới một xóm núi, gây ấn tượng đối  với Người không phải là nỗi gian truân đã qua hoặc sắp tới mà lại chính là cảnh  “Cô em xóm núi xay ngô tối­Xay hết lò than đã rực hồng”. Chất “thép” thể hiện  đặc biệt rõ ở sự kiên định, vững vàng, sẵn sàng chiến thắng mọi gian lao thử  thách khắc nghiệt. Đối với Bác mọi gian lao thử thách để rèn giũa con người  thêm vững vàng, kiên định. “Nghe tiếng giã gạo” Bác làm thơ như để tự khuyên  mình :                                          “Gạo đem vào giã bao đau đớn                                             Gạo giã xong rồi trắng tựa bông                                            Sống ở trên đời người cũng vậy                                            Gian nan rèn luyện mới thành công”                                                                                  (Nghe tiếng giã gạo) Ý thơ này Người vẫn hằng tâm niệm. Bởi vậy, ngay ở lời đề từ của tập thơ Bác  đã khẳng định “Muốn nên sự nghiệp lớn –Tinh thần càng phải cao”. Hồ Chí  Minh luôn nhấn mạnh đến sự rèn luyện tu dưỡng của con người và Bác là tấm  gương sáng về tu dưỡng rèn luyện này. Có những lúc Người cười cợt với đau  khổ, phong thái ung dung được toát lên:                                      “ Ngục trung hại bệnh chân tân khổ                                          Bản ưng thống khóc khước cuồng ca”                                      (Trong tù mắc bệnh càng đau khổ                                         Đáng khóc mà ta cứ hát tràn) 13
  14.                                                                                  (Ốm nặng )                                           “Hôm nay xiềng xích thay dây trói                                        Mỗi bước leng keng tiếng ngọc dung                                         Tuy bị tình nghi là gián điệp                                         Mà như khanh tướng vẻ ung dung)                                                                                 (Đi Nam Ninh)       Có những lúc chân tay bị xiếng xích bị trói mà cực hình không thể khuất phục  được Người:                                    “Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh                                       Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình                                       Làng xóm ven sông đông đúc thế                                      Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”                                                                    (Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh)                                      “Nghĩ mình trong bước gian truân                                       Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”                                                                    (Tự khuyên mình)    Trong bài “Bốn tháng rồi” ở Người còn đề cao tinh thần kiên cường bất khuất  của người chiến sĩ cách mạng với ý chí nghị lực lớn lao:                                     “Trì cửu hoà nhẫn nại                                         Bất khẳng thoái nhất phân                                        Vật chất tuy thống khổ                                         Bất động dao tinh thần”                                       (Kiên trì và nhẫn nại                                         Không chịu lùi một phân                                         Vật chất tuy đau khổ                                         Không nao núng tinh thần)                                                                         (Bốn tháng rồi )     Với nghị lực phi thường ấy, tâm hồn thi sĩ của người tù, chiến sĩ đã tự cởi bỏ  xiềng xích để chọn lấy cho mình một chỗ đứng thênh thang:                                       “Núi cao lên đến tận cùng  14
  15.                         Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”                                                                       (Đi đường)       Trên  con đường chuyển lao đầy gian khổ dãi gió, dầm mưa, xiềng xích …Vậy  mà sáng lên trong từng câu thơ là một phong thái ung dung, lạc quan:                                     “Mặc dù bị trói chân tay                                 Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng                                       Vui say ai cấm ta đừng                                  Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu”                                                                           (Trên đường)  Trong thơ của Người chất “thép” còn được thể hiện ở niềm tin vào ngày mai, sự  vận động từ tối đến sáng để quên đi hết cảnh lao khổ trên con đường chuyển  lao :                                    “Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng                                      Nghênh diện thu phong trận trận hàn                                    (Người đi cất bước trên đường thẳm                                     Rát mặt đêm thu trận gió hàn)                                                                                            “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng                                     Bóng tối đêm tàn chốc sạch không”                                                                               (Giải đi sớm)   *Nhật kí trong tù còn là cái nhìn với hiện thực :     Trong “bức chân dung tự hoạ” của Hồ Chí Minh ta còn bắt gặp một trí tuệ  lớn, một tầm tư tưởng lớn. Trí tuệ lớn trước hết thường được thể hiện qua cái  nhìn đối với hiện thực. Hơn ai hết, Bác thấy rõ bất công vô lí trong nhà tù quốc  dân đảng Tưởng Giới Thạch. Nhà tù này chính là nước Trung Hoa rộng lớn khi  đó thu nhỏ. Bên cạnh đó, từ những sự việc nhỏ nhoi, tầm thường hàng ngày, với  trí tuệ mẫn tiệp, Hồ Chí Minh rút ra được những khái quát, tìm ra quy luật của  cuộc sống thông qua sự từng trải, sự chiêm nghiệm của bản thân mình. Vì vậy,  một số câu thơ, bài thơ của Người có ý vị triết lí thâm trầm sâu sắc. Trong việc  học đánh cờ Người rút ra tầm quan trọng của thời cơ đối với sự thành bại trong  hoạt động của con người“Lạc nước hai xe đành bỏ phí­ Gặp thời một tốt cũng  15
  16. thành công”. Không chỉ vậy nhà thơ còn khẳng định bản chất lương thiện của  con người và sự ảnh hưởng của hoàn cảnh giáo dục:                                       “Ngủ thì ai củng như lương thiện                                          Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền                                          Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn                                           Phần nhiều do giáo dục mà nên”    Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng có những chiêm nghiệm đúng đắn về “đường  đời hiểm trở”, về sự phức tạp khó khăn trong cuộc sống xã hội “Núi cao gặp hổ  mà vô sự­Đường phẳng gặp người bị tống lao”.    Người còn phát hiện ra sự phi lí trái tự nhiên . Nhà tù đế quốc là nơi mà tù nhân  phải nộp đủ các khoản tiền, nhà tù còn là nơi giam giữ cải tạo người đánh bạc  nhưng đó lại là nơi tự do đánh bạc:                                      “Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội                                         Trong tù đánh bạc được công khai                                         Bị tù, con bạc ăn năn mãi                                         Sao trước không vô quách chốn này”                                                                                      (Đánh bạc) Ở trong tù khi nghe tiếng giã gạo Bác nghĩ đến sự tôi luyện ý chí, nghị lực và  khẳng định quy luật vận động của đấu tranh:                                       “Gạo đem vào giã bao đau đớn                                          Gạo giã xong rồi trắng tựa bông                                          Sống ở trên đời người cũng vậy                                          Gian nan rèn luyện mới thành công”                                                                           (Nghe tiếng giã gạo) Đó còn là bài học trải qua bao gian nan vất vả nếu con người biết vượt qua sẽ  dẫn đến thành công :                                      “Điđường mới biết gian lao                                Núi cao rồi lại núi cao trập trùng                                      Núi cao lên đến tận cùng                               Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” 16
  17.                                                                        (Đi đường)     *Tập thơ “Nhật kí trong tù” còn là tâm hồn của một nghệ sĩ: Trong tập thơ “Nhật kí trong tù” đề tài thiên nhiên, đề tài vô tận của thi ca từ  xưa đến nay, chiếm một vị trí quan trọng. Bác luôn gần gũi với thiên nhiên hoà  mình với thiên nhiên muôn màu sắc. Có khi chỉ qua một lỗ thông hơi nhỏ xíu hay  từ cánh cửa nặng trĩu của nhà giam mà Người vẫn mở rộng tâm hồn để đón  nhận thiên nhiên tươi đẹp trong lành. Có gì đâu những gì thiên nhiên cung cấp  cho nhà thơ chỉ là một tia sáng mặt trời lúc ban mai , một luồng gió mát lẫn với  mùi hoa từ ngoài sân thoảng tới, một bóng đen của lùm cây hay chỉ là cái nhấp  nháy của chòm sao Bắc Đẩu. Nhất là ánh trăng. Trong thơ Bác đầy trăng. Người  dành cho trăng một vị trí cao quý, trăng luôn được trìu mến. Trăng là ánh sáng  trong trắng, là hạnh phúc, là ước mơ của con người toả sáng trong nhà tù đen  tối :                                    “Ngục trung vô tửu diệc vô hoa                                      Đối thử lương tiêu nại nhược hà                                      Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt                                      Nguyệt tòng song khích khán thi gia”                                  (Trong tù không rượu cũng không hoa                                     Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ                                    Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ                                     Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)                                                                                     (Ngắm trăng) Trong ngục tù, nơi cuộc sống thiếu thốn nặng nề, không rượu, không hoa.  Nhưng trước cảnh đẹp đêm trăng tâm trạng của Người thì bồn chồn xao xuyến.  Đó là tâm trạng của người nghệ sĩ rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Bác  đã đặt Người và trăng đối xứng với nhau, gần nhau như những người bạn tri âm,  tri kỉ.Trăng và Người có mối giao hoà đặc biệt. Người và cảnh bỗng sáng đẹp  lên như một bức tranh lụa óng ả của một hoạ sĩ thiên tài.    Trong tập thơ của Bác, cảnh thiên nhiên trong lành êm ả gần gũi trong sáng và  giản dị vô cùng. Trong những ngày lao tù khổ cực, Bác đã bị giải đi mấy chục  nhà lao, chân tay Bác bị trói, xiềng xích nhưng không hề gì, nhà thơ vẫn nhìn  thấy non sông đất nước tươi đẹp :  17
  18.                                 “Núi cao lên đến tận cùng                               Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”                                                                               (Đi đường)   Chỉ cần thấy hình ảnh cánh chim vào buổi chiều tối, Người say sưa ngắm cảnh:                                “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ                                   Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”                                                                              (Chiều tối)  Sáng tinh mơ đã phải lên đường thế mà Bác vần tìm thấy một nguồn cảm hứng  lớn khiến bình minh trong một ngày bỗng có cái khí thế lớn lao của cảnh bình  minh trong một thời đại:                              “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng                                Bóng tối đêm tàn chốc sạch không                                Hơi ấm bao la trùm vũ trụ                                 Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”                                                                               (Giải đi sớm)  Lại một lần nữa, chúng ta cảm nhận được tư thế ung dung, chủ động của thi sĩ  trên đường đi đầy gian khổ, cảm nhận được ở Bác dù cho là hoàn cảnh nào tâm  hồn của Bác vẫn luôn chan hoà với thiên nhiên, với trời đất bao la:                                “Nhất khứ kê đề dạ vị lan                                 Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san”                                 (Gà gáy một lần đêm chửa tan                                  Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn)                                                                             (Giải đi sớm) Trăng và sao là người bạn về đêm, còn người bạn thiên nhiên của Bác ban ngày  là:                                “Phiến thì vũ trụ giải lâm phục                                   Vạn lý sơn hà sái cẩm chiên;                                  Nhật noãn phong thanh hoa đới tiếu                                   Thụ cao chi nhuận điểu tranh nghiên”                                  (Đất trời một thoáng thu màn ướt  18
  19.                                  Sông núi muôn trùng trải gấm phơi                                   Trời ấm hoa cười chào gió nhẹ                                   Cây cao chim hót rộn cành tươi)                                                                           (Trời hửng)  Mặt trời trong thơ của Người còn là biểu tượng cho tương lai tươi sáng của  cách mạng, điều đó đã thắp sáng trong người tù một niềm tin mãnh liệt:                                “Lung lý hiện thời hoàn hắc ám                                  Quang minh khước dĩ diện tiền lai”                                 (Trong ngục giờ đây còn tối mịt                                    Ánh hồng trước mặt đã bừng soi)                                                                               (Buổi sớm I)                                 “Thái dương mỗi tảo tòng sơn thượng                                   Chiếu đặc toàn sơn xứ xứ hồng                                   Chỉ vị lung tiền hữu hắc ảnh                                   Thái dương vị chiếu đáo lung trung”                                 (Đầu non sớm sớm vầng dương mọc                                  Khắp núi nơi nơi rực ánh hồng                                   Chỉ bởi trước lao còn bóng tối                                   Mặt trời chưa rọi thấu vào trong)                                                                             (Cảnh buổi sớm) Thiên nhiên trong thơ Bác còn gắn với những thử thách gian khổ của nhà tù.  Trong những lần chuyển lao qua những chặng đường vất vả gian khổ ta cũng  thấy Người phải trải qua bao con đường núi non hiểm trở:                                 “Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham                                   Na tri bình lộ cánh nan kham”                                  (Đi khắp đèo cao, khắp núi cao                                    Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao)                                                                        (Đường đời hiểm trở)  Đôi khi thiên nhiên còn trở nên chớ trêu trước hình ảnh người chiến sĩ cách  mạng: 19
  20.                                  “Gió sắc tựa gươm mài đá núi                                    Rét như dùi nhọn chích cành cây”                                                                         (Hoàng hôn)  Thiên nhiên trong “Nhật kí trong tù” không chỉ và không phải lúc nào cũng nên  thơ, cũng đẹp đẽ thơ mộng, hùng tráng, tràn đầy ánh sáng của niềm vui, của khát  vọng mà thiên nhiên trong thơ Bác còn là hiện thực khách quan trong nhiều cảnh  ngộ đắng cay          Cũng có khi thiên nhiên thật vô tình, thật đáng trách đáng giận:                                   “Một ngày trời hửng chín ngày mưa                                     Trời thật vô tình đáng giận chưa                                     Giày rách đường lầy chân lấm láp                                     Vẫn còn dấn bước dặm đường xa” Với Người chính thiên nhiên khắc nghiệt đã trở thành môi trường rèn luyện, thử  thách ý chí con người. Vì vậy mà “Nhật kí trong tù” mang những nét riêng khó  tìm thấy ở thơ cổ.Cái đặc sắc và cái lạ của thiên nhiên trong tập thơ của Bác là  ngay trong cảnh xiềng xích, đói rét ốm đau vẫn bắt gặp bao hình ảnh nên thơ  lộng lẫy được viết bằng một cảm hứng say đắm ngọt ngào.               Vượt qua mọi khổ cực của cuộc sống tù đày để sống một cuộc sống tự  do về tinh thần, chính tình yêu thiên nhiên quê hương của Bác đã giúp Người  vượt lên trên mọi thứ  cát bụi của cõi trần để được đắm mình trong đêm trăng,  để thả hồn mình vào cảnh đẹp của đất trời. Tình yêu thiên nhiên của Bác Hồ  được thể hiện trong tập thơ thật đa dạng, muôn màu, giản dị và phong phú, gắn  liền với thế giới nội tâm. Thiên nhiên trong thơ Bác thật giản dị trong sáng  nhưng vẫn đậm chất trữ tình.        Nhật kí trong tù là một tập thơ có giá trị về nhiều phương diện. Sức hấp dẫn  của tập thơ này trước hết đúng là sức hấp dẫn trong “bức chân dung tự hoạ” con  người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nói như nhà thơ Xuân Diệu sức hấp  dẫn của tập thơ chính là sức hấp dẫn của “chất người cộng sản Hồ Chí Minh”.  Là những cách nói khác nhau nhưng đều khẳng định tác giả của tập thơ “Nhật kí   trong tù” là một nhân vật kiệt xuất: “Đại trí”, “Đại nhân”, “Đại dũng”.   * Giá trị nghệ thuật:  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2