intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam) ở trường THCS Tô Hiệu

Chia sẻ: Lê Thị Trà Giang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

163
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nhằm tìm hiểu lí luận và thực tiễn việc dạy học Ngữ văn trường THCS, đề tài đi sâu nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp đổi mới việc dạy học phân môn tiếng Việt theo hướng tích cực. Giúp giáo viên có được những định hướng cần thiết để triển khai dạy học theo phương pháp mới có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.Giúp học sinh tự tin, tích cực, yêu thích môn học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam) ở trường THCS Tô Hiệu

                        PHÒNG GD & ĐT KRÔNG ANA<br /> TRƯỜNG THCS TÔ HIỆU<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM<br /> ĐỀ TÀI:<br /> Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương  <br /> pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng  <br /> Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt  <br /> Nam) ởtrường THCSTô Hiệu.<br /> <br /> <br /> <br /> <br />             Họ và tên: Nguyễn Thị Lành<br />    Đơn vị công tác: Trường THCS Tô Hiệu, EaBông,<br /> Krông ANa ­Đăk Lăk.<br />    Trình độ đào tạo: Đại học – Môn đào tạo Ngữ văn.<br /> Krông Ana, tháng 3 năm 2016<br /> MỤC LỤC<br /> Trang<br /> I. Phần mở đầu:.................................................................................................1<br /> I.1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1<br /> I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài......................................................................2<br /> I.3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................2<br /> I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu........................................................................2<br /> I.5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................3<br /> II. Phần nội dung ...............................................................................................3<br /> II.1. Cơ sở lý luận.................................................................................................3<br /> II.2.Thực trạng......................................................................................................5<br /> a. Thuận lợi­ khó khăn..............................................................................5<br /> b. Thành công­ hạn chế.............................................................................5<br /> c. Mặt mạnh­ mặt yếu..............................................................................6<br /> d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.................................................6<br /> e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra.......8<br /> II.3. Giải pháp, biện pháp: ...................................................................................9<br /> II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề  nghiên <br /> cứu.......................................................................................................................20<br /> III. Phần kết luận, kiến nghị ........................................................................21<br /> III.1. Kết luận: .................................................................................................21<br /> III.2.Kiến nghị:.................................................................................................22<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................23<br /> ĐỀ TÀI:<br /> Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực  <br /> vào dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới  <br /> Việt Nam) ở trường THCS Tô Hiệu.<br /> <br /> <br /> I. PHẦN MỞ ĐẦU: <br /> I.1. Lý do ch<br />   ọn đề  tài.<br />    <br /> Vấn đề dạy và học có hiệu quả là vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu trong <br /> giáo dục.Đặc biệt trong tình hình xã hội hiện nay,đất nước ta đã và đang hội  <br /> nhập với thế  giới, đòi hỏi người học phải có tri thức thực sự  mới đáp  ứng  <br /> được yêu cầu xã hội. Chính vì thế nên theo sự chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào <br /> tạo, toàn ngành giáo dục đã và đang đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các <br /> bậc học theo hướng phát huy tính tích cực của người học, tập trung vào hoạt <br /> động học của học sinh.Từ  năm học 2014 ­ 2015, Bộ  giáo dục đang thực hiện <br /> thí điểm về  mô hình trường học   mớiViệt Nam (VNEN)đối với cấp THCS. <br /> Theo sách hướng dẫn học Ngữ  văn VNEN so với chương trình hiện hành thì  <br /> chương   trình   sách   hướng   dẫn   học   Ngữ   văn   VNEN   có   nhiều   thay   đổi   về <br /> phương pháp dạy học. Do đó đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp dạy học <br /> tích cực, phù hợp với yêu cầu của chương trình mới mà Bộ  Giáo dục & Đào <br /> tạo đang thí điểm. Phân môn tiếng Việt trong sách hướng dẫn học Ngữ  văn <br /> 6(VNEN) được sắp xếp và giảng dạy không quá khó đối với sự  lĩnh hội tri <br /> thức của học sinh. Thế  nhưng làm sao khi lên lớp giáo viên phải truyền thụ <br /> kiến thức để  học sinh nắm được một cách chắc chắn, đầy đủ  kiến thức cần <br /> thiết   thì   đòi   hỏi   người   giáo   viên   phải   nỗ   lực   rất   nhiều.Làm   được   điều <br /> này,được  xem là thành công  đối với người  giáo viên. Từ  thực tiễn  đó,  để <br /> hướng dẫn học sinh học tập tốt từng tiết học ở phân môn tiếng Việt trong sách <br /> hướng dẫn học Ngữ văn 6(V NEN), giáo viên phải sử dụng phương pháp nào, <br /> phải tìm tòi, nghiên cứu, tích luỹ tri thức ra sao để truyền thụ cho học sinh đạt <br /> hiệu quả cao thì không phải là vấn đề đơn giản đối với từng giáo viên.  Chính <br /> vì lý do trên tôi đã chọn đề  tài “Một vài kinh nghiệm về  vận dụng phương  <br /> pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường  <br /> học mới Việt Nam)  ở  trường THCS Tô Hiệu ”.Trong phạm vi nghiên cứu <br /> khoa học này, tôi đi sâu tìm hiểu phương pháp đổi mới cách dạy học phân môn <br /> Trang 1<br /> tiếng Việt lớp 6 (VNEN) trong môn Ngữ  văn cho học sinh THCS theo hướng  <br /> tích cực. Tôi đã quyết định chọn đề  tài này để  trước hết là bản thân có điều  <br /> kiện khái quát nâng cao chuyên môn sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua <br /> đây mong được chia sẻ với đồng nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao  <br /> chất lượng chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn  trong <br /> phạm vi nhà trường THCS.<br /> I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.<br /> * Mục tiêu:Trên cơ  sở  tìm hiểu lí luận và thực tiễn việc dạy học Ngữ  văn <br /> trường THCS, đề tài đi sâu nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp đổi mới việc <br /> dạy học phân môn tiếng Việt theo hướng tích cực. Giúp giáo viên có được  <br /> những định hướng cần thiết để  triển khai dạy học theo phương pháp mới có <br /> hiệu quả, đáp  ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.Giúp học <br /> sinh tự tin, tích cực, yêu thích môn học.<br /> * Nhiệm vụ : Để  đạt được mục tiêu trên, tôi xác định nhiệm vụ  nghiên cứu  <br /> chính như sau:<br /> ­ Xác định cơ sở lí luận của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo  <br /> hướng tích cực.<br /> ­ Điều tra, quan sát thực tế  việc dạy học văn  ở  trường nói chung, việc dạy <br /> phân môn tiếng Việt nói riêng.<br /> ­ Đề  xuất một số  biện pháp vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong  <br /> việc sử  dụng câu hỏi, cách thứctổ  chức triền khai bài giảng thuộc phân môn <br /> tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 6 (VNEN).<br /> ­ Triển khai thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề xuất vận  <br /> dụng phương pháp đổi mới việc dạy phân môn tiếng Việt trong môn Ngữ văn <br /> cho học sinh THCS. Trên cơ  sở thực nghiệm sẽ tiến hành phân tích, nhận xét, <br /> đánh giá để có những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho hướng nghiên cứu tiếp <br /> theo.<br />   ối tượng nghiên cứu    :<br /> I.3. Đ<br /> Sáng kiến kinh nghiệm này tập trung giới thiệu một số phương pháp dạy học <br /> phân môn tiếng Việt thuộc chương trình Ngữ  văn 6 (VNEN) có hiệu quả  và <br /> cách chọn lọc các hình thức dạy học tích cực phù hợp.<br /> I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu :<br /> <br /> <br /> Trang 2<br /> Chỉ  ra một số  kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy <br /> phân môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ  văn 6(VNEN). Đồng thời thực <br /> hiện hóa một phần những định hướng về  sử  dụng phương pháp dạy học tích <br /> cực khi dạy phân môn tiếng Việt trong chương trình Ngữ  văn 6(VNEN) qua <br /> việcsoạn thảo kế  hoạch dạy học mà bản thân đã và đang giảng dạy thực  <br /> nghiệm tại lớp 6a1(VNEN) trường THCS Tô Hiệu, năm học 2015 ­ 2016.<br /> I.5. Phương pháp nghiên cứu:<br /> Làm   đề   tài   này,   tôi   đã   vận   dụng   nhiều   phương   pháp.   Dưới   đây   là   những <br /> phương pháp chủ yếu:<br /> 1. Phương pháp thống kê: Qua việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học  <br /> sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên thống kê kết quả  thu được và so <br /> sánh.<br /> 2. Phương pháp thực nghiệm qua giảng dạy: Thông qua các tiết dạy của bản  <br /> thân để xem xét, đánh giá.<br /> 3. Phương pháp đối chiếu, so sánh để thấy được kết quả trong thực tiễn.<br /> 4. Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh lĩnh hội kiến thức thông qua tiết <br /> dạy của bản thân kết hợp với việc dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp.<br /> 5. Phương pháp phân tích, tổng hợp. <br /> II. PHẦN NỘI DUNG: <br /> II.1.Cơ sở lý luận:<br /> <br /> Để đi sâu vào nghiên cứu đề tài này, trước hết ta tìm hiểu về khái niệm <br /> “Tích cực”.Khái niệm này có các cách hiểu như sau:<br /> <br /> “1. Có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự  phát triển; Nhân tố  tích cực, <br /> mặt tích cực của vấn đề.<br /> 2. Tỏ  ra chủ  động, có những hoạt động tạo ra sự  biến đổi theo hướng  <br /> phát triển.<br /> 3. Tỏ ra nhiệt tình, đem hết khả năng, tâm trí vào công việc.” [Hoàng Phê  <br /> (chủ biên) ( 2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng,  tr.1217]<br /> Như vậy, nội hàm khái niệm “tích cực” đã chỉ rõ bản chất của chủ thể ­  <br /> hoạt động; chỉ tính chất, thái độ  tham gia vào hoạt động, nhấn mạnh tính chủ <br /> Trang 3<br /> động, tự giác, nhu cầu, tính phát triển; sự nhiệt tình, dấn thân của chủ thể. Do  <br /> đó, thước đo của tính tích cực không chỉ  thể  hiện  ở  những hoạt động bề  nổi <br /> mà quan trọng chính là sự vận động của tâm lí nhận thức bên trong tạo nên sự <br /> vận động, phát triển. <br /> Vậy phương pháp dạy học tích cực là gì?Phương pháp dạy học tích cực là <br /> một thuật ngữ  rút gọn, được dùng để  chỉ  những phương pháp giáo dục, dạy <br /> học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ  động , sáng tạo của người học.  <br /> Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa <br /> hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực <br /> của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người  <br /> dạy.<br />  Trong những năm gần đây, vấn đề dạy học theo hướng tích cực luôn được chú <br /> trọng. Nghị  quyết Hội nghị  lần thứ  2 của BCH TW Đảng khoá VIII nêu rõ:  <br /> “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều  <br /> rèn luyện thành nếp tư  duy sáng tạo của người học”, “phương pháp giáo dục  <br /> phải phát huy tính tích cực tự  giác, chủ  động, sáng tạo của người học, bồi  <br /> dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Qua đó ta thấy được bộ  giáo  <br /> dục và đào tạo đã khẳng định rất rõ tầm quan trọng của việc không ngừng đổi  <br /> mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực cho phù với đối tượng học  <br /> sinh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. <br />     Dạy học theo hướng  “Tích cực hoá” lấy hoạt động học tập của học sinh <br /> làm trung tâm, vai trò của người thầy là người  tổ chức – chủ  đạo, học trò là <br /> người chủ động khám phá – lĩnh hội kiến thức. Vấn đề dạy học theo hướng <br /> tích cực là nội dung quan trọng không thể  thiếu trong việc đổi mới thay sách, <br /> đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường hiện nay. Đặc biệt là trong  <br /> chương trình thí điểm VNEN đã được biên soạn rất cụ  thể  để  hướng người  <br /> dạy thực hiện đúng phương pháp dạy học tích cực. Vì vậy đòi hỏi người dạy <br /> phải linh hoạt vận dụng nhiều biện pháp, thao tác, kỹ  năng để  giảng dạy tốt <br /> hơn. Song việc đổi mới phương pháp quá còn mới mẻ, còn khó khăn  đối với <br /> giáo viên vì chương trình thí điểm VNEN THCS mới chỉ thực hiện được chưa <br /> đầy hai năm. Giáo viên thực sự  là rất bỡ  ngỡ  và gặp không ít khó khăn khi <br /> giảng dạy. Đặc biệt đối với môn Ngữ  văn giáo viên phải giảng dạy tích hợp  <br /> Trang 4<br /> ba phân môn là Văn – Tiếng Việt – Tập Làm Văn nên việc áp dụng phương  <br /> pháp dạy học tích cực phải thật sự khéo léo thì mới tổ chức cho học sinh hoạt  <br /> động để  lĩnh hội tri thức được. Trong đó đối với phân môn tiếng Việt trong  <br /> phân phối chương trình không nhiều tiết nhưng không phải vì thế  mà chúng ta <br /> không quan tâm đến phân môn này. Giảng dạy tiếng Việt làm sao đạt được  <br /> hiệu quả để học sinh không nhàm chán, ngược lại học sinh ham học phân môn <br /> này đó chính là điều trăn trở của mỗi giáo viên khi lên lớp.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trang 5<br /> II.2.Thực trạng:<br /> a.  Thuận lợi­ khó khăn:  <br /> * Thuận lợi:<br /> ­ Được Sở giáo dục& Đào tạo Đăk Lăk,Phòng giáo dục& Đào tạo Krông Ana  <br /> cử  đi tập huấn, lĩnh hội phương pháp tổ  chức, dạy học theo mô hình trường <br /> học mới ngay từ đầu năm học 2015 – 2016.<br /> ­ Được nhà trường trang bị  cơ  sở  vật chất đảm bảo cho việc  ứng dụng công <br /> nghệ thông tin vào dạy học.<br /> ­ Phía phụ huynh học sinh cũng đã tạo điều kiện về thời gian cho con học bài ở <br /> nhà.<br />  ­ Bản thân tôi đã trực tiếp dạy chương trình Ngữ văn lớp 6 (VNEN) nên rút ra  <br /> được kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy.<br /> * Khó khăn:<br />       Đối với giáo viên: Việc áp dụng phương pháp dạy học mới theoMô hình  <br /> trường học mới còn nhiều bỡ ngỡ.<br />     Đối với học sinh:  Học sinh của trường THCS Tô Hiệu đa phần là con em <br /> đồng bào dân tộc thiếu số nên có học lực không đồng đều, số học sinh có học  <br /> lực yếu khá cao. Do khả năng tiếp thu kiến thức của các em chậm và đa số là <br /> lười học, về nhà không học bài cũ, không soạn bài mới trước khi đến lớp; Do <br /> nhiều em còn rụt rè, thiếu tự tin khi giao tiếp và học tập. Những học sinh học  <br /> ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu và trường tiểu học Ea Bông các em chưa được <br /> học chương trình VNEN nên giáo viên phải mất rất nhiều thời gian để giúp đỡ <br /> các em làm quen với phương pháp mới.<br /> b.Thành công­ hạn chế: <br />   Với việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào phân môn tiếng Việt  ở <br /> chương trình Ngữ văn 6 (VNEN) đối với bản thân tôi đã có một số thành công <br /> nhất định đó là:<br /> ­ Giáo viên khi đứng lớp tự  tin hơn vì đã thiết kế  được kế  được kế  hoạc  <br /> dạy học phù hợp với chuẩn kiến thức, phù hợp đối tượng học sinh. Hình thức  <br /> tổ chức dạy học phong phú, thuận tiện trong giảng dạy, kiến thức được củng  <br /> cố, mở rộng.<br /> Trang 6<br /> Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó thì khi sử dụng đổi mới phương pháp <br /> dạy học theo hướng tích cực trong giờ dạy phân môn tiếng Việt  có những hạn  <br /> chế nhất định như:<br /> ­ Để  thiết kế  được những hình thức đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi <br /> giáo viên phải mất nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu, đọc sách, báo, Internet… <br /> thì mới lựa chọn được nội dung ứng dụng phương pháp dạy học tích cực phù <br /> hợp với kiến thức bài dạy và cả phù hợp với đối tượng học sinh. <br /> ­ Phía học sinh phải siêng năng học bài cũ và soạn bài mới, phải nắm vững  <br /> kiến thức cơ  bản của môn học thì mới trả  lời được câu hỏi nhanh. Còn nếu  <br /> học sinh nắm mơ hồ về kiến thức cũ sẽ làm mất thời gian để giáo viên gợi mở <br /> như vậy sẽ ảnh hưởng đến thời gian của tiết học. Trong lớp nếu có nhiều đối <br /> tượng học sinh yếu thì áp dụng phương pháp dạy học tích cực rất khó thành <br /> công.<br />  c. Mặt mạnh­ mặt yếu:<br />     Khi áp dụng phương pháp dạy họctheo hướng đổi mới có mặt mạnh là giúp <br /> giáo viên dạy học theo tinh thần đổi mới phương pháp phù hợp với yêu cầu <br /> của thời đại và dễ  thực hiện trong mỗi tiết dạy. Giúp học sinh hứng thú với  <br /> giờ  học, chủ  động lĩnh hội tri thức, khắc sâu kiến thức cơ  bản, có điều kiện  <br /> củng cố, liên hệ và mở rộng kiến thức liên quan.<br /> Mặt yếu là khi áp dụng việc đổi mới trong dạy phân môn tiếng Việt đòi hỏi  <br /> đối tượng học sinh phải tích cực, chủ động.Nếu trong lớp có nhiều đối tượng  <br /> học sinh yếu, kém thì khi thảo luận, giáo viên phải trực tiếp hỗ  trợ  cho học  <br /> sinh cho nên rất vất vả.<br /> d.Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:<br />    Chương trình Ngữ văn theo Mô hình trường học mới vẫn giữ nguyên ba phân  <br /> môn là Văn bản –tiếng Việt và Tập làm văn nhưng sẽ không trình bày mục tiêu <br /> riêng của từng phân môn mà cố  gắng tìm ra sự  đồng quy của ba phân môn để <br /> qua đó thực hiện quan điểm tích hợp. Chương trình mới coi trọng cả  bốn kĩ <br /> năng nghe, nói, đọc, viết.Khi dạy phân môn tiếng Việt giáo viên phải thực sự <br /> chú ý rèn cho học sinh cả 4 kĩ năng trên.Đặc biệt là việc rèn từ, đặt câu và viết <br /> đoạn văn là việc làm rất cần thiết của giáo viên khi dạy phân môn tiếng Việt <br /> nhằm giúp học sinh sẽ cảm thụ tốt khi học Văn bản và tạo lập văn bản tốt khi <br /> học Tập làm văn.<br /> <br /> <br /> Trang 7<br /> Trong thực tế  giảng dạy chương trình VNEN, tôi nhận thấy với phân môn <br /> tiếng Việt trong sách hướng dẫn học Ngữ văn 6,Bộ giáo dục đã thiết kế  lồng <br /> ghép các đơn vị kiến thức tiếng Việt vào trong một bài dạy chung cụ  thể của  <br /> chương trình. Tuy biên soạn đã có sự đổi mới, thay đổi, chính lí, bổ sung nhưng <br /> cũng không kém phần khó hiểu vì đã có sự  cắt xén, giảm bớt nội dung kiến  <br /> thức so với chương trình hiện hành. Nếu giáo viên lên lớp mà không nghiên <br /> cứu kĩ tài liệu thì khi giảng dạy nếu cứ  rập khuôn theo câu hỏi của sách tài  <br /> liệu hướng dẫn học đôi khi sẽ  gặp một số  trở  ngại trong dạy học. Bên cạnh  <br /> đó trong những năm gần đây, tình hình học sinh trong nhà trường có sự  biến <br /> đổi theo chiều hướng tiêu cực, với tình trạng học sinh chây lười trong việc học <br /> các môn, trong đó có bộ  môn Ngữ văn sẽ    ảnh hướng rất lớn đến chất lượng <br /> giờ dạy.<br /> Bước vào đầu năm học tôi đã điều tra thu thập số liệu cụ thể về kết quả xếp  <br /> loại học lực môn tiếng Việt năm học 2014 – 2015 của  học sinh lớp này năm <br /> lớp 5 như sau:<br /> Tổng số Giỏi Khá TB Yếu Kém<br /> 36 2 7 19 8 0<br /> Sau khi vào đầu năm học 2015 – 2016 trong tháng đầu tiên của năm học, tôi đã <br /> tiến hành khảo sát thực nghiệm kết quả  học tập của học sinh về  kiến thức  <br /> phân môn tiếng Việt thì tôi thu được kết quả như sau:<br /> Tổng số học  Kết quả<br /> sinh<br /> Giỏi         Khá Trung bình Yếu<br /> 36 SL TL SL TL SL TL SL TL<br /> 2 5,6% 5 13,8% 18 50% 11 30,6%<br />    Như vậy với kết quả trên cùng với sựtheo dõi học sinh trong từng tiết dạy,<br /> tôi nhận thấy khả  năng tiếp thu bài của học sinh rất chậm, lớp học trầm, <br /> không khí lớp học nặng nề, học sinh thụ động, ít phát biểu tham gia xây dựng <br /> bài, nhiều em có vẻ chán nản không thích học, kĩ năng hoạt động nhóm không <br /> có…<br /> Theo tôi thực trạng học sinh học tập thiếu tập trung như vậy đó là do những <br /> nguyên nhân sau: <br /> <br /> <br /> Trang 8<br /> + Học sinh chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, không chuẩn  <br /> bị bài mới, không hứng thú khi đến tiết học.<br /> + Giáo viên chưa có hệ  thống những câu hỏi gợi mở, tích cực;chưa có những <br /> phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng tiết học cụ thể nhằm  <br /> thu hút, lôi cuốn học sinh. Ví thế, cần áp dụng phương pháp tích cực vào tiết <br /> học để  hoàn thiện vai trò “Thầy thiết kế, trò thi công” nhằm nâng cao chất <br /> lượng dạy và học.<br /> e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.<br /> Qua quá trình dạy học, quá trình dự  giờ  của đồng nghiệp trong trường và  ở <br /> trường bạn, quá trình đúc rút kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy:<br />     Trong thực tế  vẫn còn một số  giáo viên chưa chú trọng đến khâu chuẩn bị <br /> bài dạy hay nói cách khác đó là khâu thiết kế giáo án. Bởi tôi hiểu là theo sự chỉ <br /> đạo của Bộ  giáo dục trong dạy học chương trình VNEN, Bộ  không yêu cầu  <br /> giáo viên phải soạn giáo án. Bởi vậy mà một số giáo viên chủ quan, họ có thể <br /> là không nghiên cứu kĩ bài dạy nên khi lên lớp tổ chức tiết học cho học sinh có  <br /> phần té nhạt, lớp học rất trầm, không phát huy được sự  chủ  động, sáng tạo <br /> của học sinh.<br />    Một số giáo viên  rất lúng túng trong việc phối kết hợp các phương pháp dạy  <br /> học, đặc biệt làvẫn còn thói quen sử  dụng các phương pháp dạy học truyền  <br /> thống: giáo viên làm việc nhiều. Còn học sinh là người ghi nhớ, học thuộc lòng <br /> (học vẹt) kiến thức đó rồi trả  lời. Giờ  học trở  nên khô khan, trầm, thậm chí <br /> căng thẳng, học sinh tham gia học bài một cách chiếu lệ. Rõ ràng điều đó dẫn  <br /> đến chất lượng, hiệu quả học tập của học sinh không cao. Và đó chưa phải là  <br /> hình thức dạy học tích cực của Mô hình trường học mới.<br />      Còn một số  giáo viên có vận dụng một số  phương pháp dạy học tích cực <br /> trong dạy học nhưng còn mang tính hình thức cho nên hiệu quả chưa cao. <br />     Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị nội dung, hình thức bài dạy chưa thật kĩ. Đặc <br /> biệt là giáo viên chưa xây dựng được hệ  thống câu hỏi phù hợp với nội dung  <br /> bài dạy để khắc sâu kiến thức, chưa linh hoạt trong đổi mới hình thức dạy học <br /> tích cực, chưa chú ý tới việc chuẩn bị bài học của học sinh, chưa phân loại đối  <br /> tượng học sinh trong từng lớp. Từ đó mà giờ  học tiếng Việt rất rời rạc, rất <br /> khô khan.Theo tôi để cải thiện được nguyên nhân trên trong mỗi giờ dạy phân <br /> môn tiếng Việt trong môn Ngữ văn giáo viên cần  chú ý các vấn đề sau:<br /> <br /> Trang 9<br />     Một là, phải thay đổi hình thức dạy học tích cực thường xuyên để  tránh sự <br /> nhàm chán. <br />   Hai là, không tạo áp lực trong giờ học cho học sinh mà phải tạo ra không khí  <br /> thoái mái để các em tự tin học tập.<br />  Ba là, giáo viên đừng quá nghiêm khắc vì nếu giáo viên quá nghiêm khắc sẽ <br /> không tạo được sự hưng phấn cho người học. <br /> Bốn là, phải biết khơi dậy  ở học sinh lòng say mê môn học bằng việc không  <br /> ngừng trau dồi chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách thức <br /> kiểm tra, đánh giá.<br />    Để làm được các vấn đề  trên thì khi thiết kế giáo án giáo viên phải thực sự <br /> chú ý khai thác nội dung bài dạy bằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi và hình <br /> thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, làm thâu tóm được kiến thức bài <br /> học. Thông qua việc đổi mới phương pháp dạy học sẽ  giúp người học hứng <br /> thú hơn, chiếm lĩnh tri thức dễ dàng hơn từ đó sẽ có kết quả học tập cao hơn. <br /> II.3. Giải pháp, biện pháp: <br /> a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:<br /> ­Tổ chức lớp học sinh động, tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng.<br /> ­ Có những phương pháp phù hợp trong việc dạy học phân môn Tiếng Việt theo <br /> hướng tích cực, phát triển các kĩ năng học môn Ngữ văn. <br /> ­ Giáo viên củng cố  kiến thức kịp thời cho học sinh, giúp các em năng động <br /> hơn, có sự hứng thú hơn trong tiết học, chủ động lĩnh hội kiến thức từ đó kết <br /> quả học tập sẽ được nâng cao.<br /> b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:<br />     Để  tiết dạy sinh động và giúp học sinh hứng thú với tiết học, giáo viên có  <br /> thể thực hiện áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào mỗi bài học. Tùy <br /> thuộc vào những kĩ năng, kiến thức truyền đạt cho các em mà giáo viên sẽ <br /> chọn phương pháp phù hợp, nhằm khảo sát được hiệu quả  dạy của bản thân <br /> và chất lượng học của các em học sinh.<br />     Để việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực phát huy được tính cần thiết  <br /> và đạt hiệu quả cao, giáo viên cần đảm bảo những nội dung quan trọng sau.<br /> b.1. Những việc cần chuẩn bị cho bài giảng:<br /> <br /> <br /> Trang 10<br /> ­  Sau mỗi tiết dạy, giáo viên phải nắm bắt được mức độ  chiếm lĩnh tri thức <br /> của từng học sinh (tức là những em đã hoàn thành bài học và những em chưa  <br /> hoàn thành bài) để  từ  đó giáo viên có những định hướng cụ  thể  khi xây dựng  <br /> kế hoạch bài dạy tiếp theo cho phù hợp với đối tượng học sinh.<br />   ­ Với từng bài và từng nội dung truyền đạt mới, giáo viên chuẩn bị kĩ những  <br /> việc cần làm, xác định nội dung cần áp dụng phương pháp dạy học tích cực,  <br /> xây dựng được mức độ kiến thức cần phải nhớ cũng như kĩ năng mà học sinh <br /> có thể vận dụng kiến thức.<br /> ­ Giáo viên nên linh hoạt mở  rộng nội dung kiến thức, không chỉ  đề  cập đến <br /> những gì trong hướng dẫn học Ngữ văn mà còn liên hệ có hệ thống, khoa học <br /> những nội dung khác, để  các em có điều kiện tư  duy, suy luận, giúp các em <br /> nắm vững nội dung bài học. Ngày nay, với sự  tiến bộ  của khoa học kĩ thuật, <br /> các phương tiện nghe nhìn ngày càng hiện đại, có thể   ứng dụng để  phục vụ <br /> công tác giảng dạy như  tranh  ảnh có màu sắc đẹp, hoặc những phương tiện <br /> điện tử  tối tân như  băng tiếng, băng hình, phim, đèn chiếu.. .Với sự  chuẩn bị <br /> như  vậy giáo viên mới có thể  thực hiện bài trên lớp với vai trò là người gợi  <br /> mở, xúc tác, động viên, cố  vấn, trọng tài trong hoạt động tìm tòi hào hứng,  <br /> tranh luận của học sinh.<br /> b. 2. Một số  kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào <br /> dạy phân môn tiếng Việt lớp 6 (VNEN) mà tôi đã thực hiện:<br /> *Phương pháp 1:Kết hợp kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới thông qua <br /> hoạt động khởi động:<br />     Trong dạy Ngữ văn nói chung và dạy phân môn tiếng Việt nói riêng nếu giáo <br /> viên sử  dụng phương pháp kết hợp kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới thông  <br /> qua hoạt động khởi động của bài học vừa tiết kiệm được thời gian, lại vừa  <br /> tạo sự kết nối trong bài giảng, vừa tạo sự hứng thú học tập cho học sinh.Vào <br /> bài đối với phân môn tiếng Việt trong môn Ngữ văn chương trình VNENlà để <br /> học sinh cảm thấy hứng thú với chủ đề  sắp được học trong bài, đồng thời ôn <br /> lại kiến thức đã được học liên quan đến bài mới hoặc để  giáo viên tạo những  <br /> nhu cầu giao tiếp cần thiết cho các hoạt động của bài mới.  Còn phần khởi <br /> động trong mỗi bài học của chương trình VNen vô cùng quan trọng, nó có mục <br /> đích là chuẩn bị  về  tâm lí, khơi dậy những kiến thức có sẵn cho học sinh có <br /> liên quan cần thiết cho bài học mới, gây hứng thú cho bài học mới, tạo không <br /> khí dễ chịu giữa thầy và trò. Vì vậy để  làm được điều này, giáo viên cần linh <br /> hoạt sử  dụng các thủ  thuật khác nhau như: Sử  dụng tranh  ảnh, vật thật thay  <br /> Trang 11<br /> cho tranh ảnh trong sách để gây hấp dẫn, hát một bài hát, xem một đoạn video <br /> có liên quan đến bài mới hay chơi một trò chơi nhỏ để khai thác các kiến thức <br /> có sẵn của học sinh và dẫn dắt vào bài mới.<br /> Ví dụ: Khi dạy bài “Hiện tượng chuyển nghĩa của từ” Sách hướng dẫn học <br /> Ngữ văn 6, tập 1 (VNEN) GV có thể thực hiện như sau: Thực hiện hoạt động  <br /> này chung cho cả lớp.<br /> Mời trưởng ban văn nghệ  lên tổ  chức cho lớp hát bài  “Quả”  (Nhạc và lời: <br /> Xanh Xanh). Lớp hát xong, giáo viên đặt câu hỏi.<br />  Em hãy tìm những câu hỏi và câu trả  lời về  các loài “ quả” được nhắc đến  <br /> trong bài hát.<br />  (Học sinh sẽ tìm được: ­ Quả gì mà chua chua thế? Xin thưa rằng quả khế.<br />  ­ Quả gì mà da cưng cứng? Xin thưa rằng quả trứng.<br /> ­ Quả gì mặc bao nhiêu áo? Xin thưa rằng quả pháo.<br /> ­ Quả gì mà gai chin chít? Xin thưa rằng quả mít.<br />  ­ Quả gì mà to to nhất? Xin thưa rằng quả đất)<br /> Giáo viên hỏi tiếp: <br /> ­ Trong các từ “quả” trên, từ “quả” nào là bộ phận của cây do bầu nhụy hoa  <br /> phát triển mà thành, bên trong có chứa hạt ? (HS: quả khế, quả mít)<br /> Từ  dùng để  chỉ  những vật có hình giống như  quả  cây ?(HS: quả  trứng; quả  <br /> pháo, quả đất). Học sinh trả lời xong, giáo viên dẫn dắt: <br /> ­  Vậy từ  “quả” trong “quả  khế”, “quả  trứng”, “quả  pháo”, “quả  mít”,  <br /> “quả đất” từ nào được dùng theo nghĩa gốc, từ nào dùng theo nghĩa chuyển cô  <br /> mời các em tìm hiểu trong bài học hôm nay.<br /> Bằng cách này, tôi đã gây được sự  chú ý tập trung của học sinh, ôn lại được <br /> kiến thức về nghĩa của từ đã học ở bài trước. Đồng thời còn tích hợp được với <br /> môn âm nhạc, rèn kĩ năng hát tập thể, tạo không khí học tập vui vẻ và kết hợp <br /> dẫn dắt để giới thiệu vào bài mới một cách hấp dẫn.<br /> Phương pháp 2:Vận dụng câu hỏi tìm tòi(vấn đáp, phát hiện), câu hỏi nêu <br /> vấn đề để tổ chức hoạt động hình thành kiến thức:<br /> Trước hết giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình tài liệu hướng  <br /> dẫn học để  xem bài dạy đó cần áp dụng các phương pháp dạy học tích cực <br /> <br /> Trang 12<br /> như  thế  nào để  học sinh dễ  tiếp thu kiến thức nhất. Giáo viên bám chắc vào <br /> mục tiêu bài học và nội dung trọng tâm của bài để có thể xây dựng câu hỏi một <br /> cách lôgíc, hệ thống. Chính hệ thống câu hỏi này sẽ có tác dụng phát huy được <br /> tính chủ động, sáng tạo ở học sinh.Mọi đối tượng học sinh đều trả lời được.<br /> Với   Câu hỏi tìm tòi (vấn đáp phát hiện):  Đây là loại câu hỏi trọng <br /> tâm nhất trong một giờ  học tiếng Việt. Để  học sinh nắm bắt chính xác nội <br /> dung kiến thức bài dạy, giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư  duy  ở <br /> các em. Cần tổ  chức việc trao đổi ý kiến ­ kể  cả  tranh luận ­ giữa cô với cả <br /> lớp, giữa trò với trò, thông qua đó các em nắm được tri thức mới do chính mình <br /> tìm tòi phát hiện. Hệ thống câu hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra <br /> và giải quyết một vấn đề xác định, buộc học sinh phải liên tục cố gắng, tìm tòi <br /> lời giải đáp. Trong vấn đáp tìm tòi, hệ thống câu hỏi của người thầy giữ vai trò <br /> chỉ đạo, quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp học.Trật tự lôgic của các câu  <br /> hỏi hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, quy luật  <br /> của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự  ham muốn hiểu biết  ở  các <br /> em.  Ở  đây giáo viên là người tổ  chức sự  tìm tòi còn học sinh là người tự  lực  <br /> phát hiện kiến thức mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại học sinh có được  <br /> niềm vui của sự khám phá, vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được cách <br /> thức đi tới kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Cuối <br /> đoạn đàm thoại, giáo viên cần biết vận dụng các ý kiến của học sinh để  kết <br /> luận vấn đề  đặt ra, dĩ nhiên là có bổ  sung, chỉnh lí khi cần thiết. Làm được  <br /> như vậy, học sinh càng hứng thú, tự tin vì thấy trong kết luận của cô có phần  <br /> đóng góp ý kiến của mình. Để học sinh tìm tòi được kiến thức, rút ra được khái <br /> niệm, có thể đưa ra câu hỏi và tổ chức như sau: <br /> Ví dụ: Khi dạy phần kiến thức về“Phép so sánh” Ngữ văn 6 (VNEN) học kì <br /> II.Để phát huy hết vai trò của hội đồng tự quản, giáo viên mời trưởng ban học  <br /> tập lên điều khiển hoạt động này trong vòng 5 phút. Trưởng ban học tập lên  <br /> nhận phiếu học tập,cho lớp hoạt động nhóm. Nội dung phiếu học tập là câu  <br /> hỏi tìm tòi, phát hiện như sau:<br />   Đọc câu sau và trả lời câu hỏi:        “Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo<br />                                                       Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền”<br /> Trang 13<br /> ?Tìm những sự vật được so sánh trong câu trên. So sánh như vậy để làm gì?<br /> Sau khi các nhóm thảo luận xong, trưởng ban học tập mời các nhóm trình bày  <br /> kết quả, đại diện các nhóm có thể tranh luận với nhau về cách trả lời của các  <br /> nhóm. Trưởng ban học tập lắng nghe, chốt ý và cuối cùng là giáo viên chốt lại  <br /> kiến thức cho các em.<br /> (Sự vật được so sánh là mẹ và cô giáo. Mẹ so sánh với cô giáo vì giữa mẹ  và  <br /> cô giáo có những nét tương đồng nhau (phẩm chất, tuổi tác …). So sánh như  <br /> vậy để tăng gợi cảm cho sự diễn đạt)<br /> Từ các câu hỏi trên GV đã giúp học sinh rút ra được thế nào là phép so sánh và <br /> hình thành được khái niệm so sánh: So sánh là đối chiếu sự  vật, sự  việc này  <br /> với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm <br /> cho sự diến đạt.<br /> * Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn đề <br /> và tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề  tiềm  ẩn  <br /> trong  bài dạy, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên, <br /> khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. <br /> Ví   dụ:   Khi  tổ   chức   cho   học   sinh   tìm   hiểu   kiến   thức   về  “Phép  <br /> ẩndụ”(Hướng dẫn học Ngữ văn 6 – tập II ­ VNEN), để  học sinh rút ra được <br /> tác dụng của phép  ẩn dụ, giáo viên có thể  hỏi: Trong câu thơ  sau vì sao nhà  <br /> thơ Minh Huệ không gọi “Bác Hồ mái tóc bạc<br />                         Đốt lử cho anh nằm”<br /> mà lại gọi<br />            “Người cha mái tóc bạc<br />            Đốt lửa cho anh nằm”<br /> Rõ ràng đây là một câu hỏi có vấn đề, để  trả  lời được câu hỏi này buộc học  <br /> sinh phải suy nghĩ, tìm tòi, lập luận để giải quyết được vấn đề mà câu hỏi đặt  <br /> ra. Việc giải quyết được vấn đề tức là hình thành được kiến thức về tác dụng <br /> của phép tu từ ẩn dụ.Tổ chức cho lớp hoạt động cặp đôi. Nhằm tạo không khí <br /> vui tươi, thi đua học tập tốt thì giáo viên khích lệ học sinh bằng cách: Cặp đôi  <br /> Trang 14<br /> nào đưa ra được câu trả  lời nhanh và đúng nhất thì được tuyên dương, khen  <br /> thưởng. (Với câu hỏi này học sinh có thể trả lời: Không gọi<br />                                  “Bác Hồ mái tóc bạc<br />                                   Đốt lử cho anh nằm” <br /> mà lại gọi              “Người cha mái tóc bạc<br />                      Đốt lửa cho anh nằm”<br /> Gọi Bác Hồ  là cha vì người cha và Bác Hồ  có những phẩm chất giống nhau:  <br /> tình yêu thương, sự chăm sóc chu đáo, ân cầnđối với các con. Như vậyBác Hồ <br /> như  là người cha đầy lòng yêu thương đối với mọi người dân trên đất nước  <br /> Việt Nam. Đó là sự liên tưởng thú vị, cách diễn đạt mới lạ, hay nhất nhờ vào  <br /> phép tu từ ẩn dụ)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình ảnh giáo viên đang hướng dẫn các cặp đôi trả lời câu hỏi<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trang 15<br /> Với cách khai thác triệt để  dạng câu hỏi có vấn đề  trong dạy tiếng Việt sẽ <br /> kích thích được sự tư duy, sáng tạo của học sinh.<br /> *  Phương pháp 3: Tích hợp giáo dục qua bài học tiếng Việt bằng việc  <br /> xem  videoclip để tạo hứng thú học tập cho học sinh:<br /> <br />   Để việc lồng ghép tích hợp giáo dục qua tiết dạy tiếng Việt nhằm tạo không <br /> khí nhẹ nhàng, sinh động, lôi cuốn học sinh thì giáo viên tự tạo video clíp hoặc  <br /> sưu tầm trên Internet những video clip có nội dung phù hợp với kiến thức bài <br /> dạy rồi trình chiếu cho học sinh xem. Sau đó đặt câu hỏi.<br /> Ví dụ: Khi dạy kiến thức về  “Phép so sánh”trong chương trình Ngữ  văn lớp <br /> 6(VNEN)  ở  phần củng cố  bài, giáo viên trình chiếu cho học sinh xem bài hát  <br /> “Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng” sáng tác của nhạc sĩ Phong  <br /> Nhã.<br /> Câu hỏi: Theo dõi bài hát và tìm những câu sử dụng phép so sánh. Việc so sánh <br /> như vậy có tác dụng gì?<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trang 16<br /> Hình ảnh học sinh chăm chú xem video và tích cực trả lời câu hỏi<br /> Sau khi nghe xong bài hát học sinh sẽ  phát hiện ra những câu hát có sử  dụng <br /> phép so sánh là:<br /> Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên, nhi đồng.<br /> Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi Việt Nam.<br /> Việc tác giả sử dụng phép so sánh tác dụng: Khẳng định các em thiếu niên, nhi <br /> đồng Việt Nam luôn luôn dành cho Bác Hồ  một tình cảm yêu quý, sự  kính <br /> trọng và lòng biết ơn vô hạn mà không ai có thể sánh bằng.<br />  Như vậy qua bài hát này giáo viên vừa củng cố cho học sinh kĩ năng phát hiện <br /> và phân tích tác dụng của phép tu từ  so sánh trong văn, thơ  vừa giáo dục học <br /> sinh về tình yêu, sự kính trọng Bác Hồcủa thiếu niên, nhi đồng Việt Nam.<br /> Hoặc để tạo không khí học tập vui vẻ, để  mở  rộng kiến thức khác về  phân <br /> môn tiếng Việt giáo viên nên khai thác các video clíp trong chương trình “Sống  <br /> đẹp” của đài truyền hình Việt Nam để  vừa mở  rộng kiến thức vừa tích hợp <br /> giáo dục rất có hiệu quả. <br /> <br /> Trang 17<br /> Rõ ràng là sau những phút xem clíp dù rất ngắn ngủi như thế nhưng giáo viên <br /> đã củng cố được kiến thức cho học sinh, tích hợp giáo dục tốt lại vừa tạo tâm <br /> thế thoải mái, nhẹ nhàng, vui vẻ để học sinh yêu mến môn học hơn.<br /> * Phương pháp4: Tổ chức trò chơi xem hình ảnh để đặt câu nhanh.<br /> ­ Cách thứ nhất: <br /> Với cách này, giáo viên có thể   tổ  chức áp dụng cho nhiều kiến thức của các  <br /> bài dạy tiếng Việt có trong chương trình. Giáo viên phổ biến luật chơi: Cô sẽ <br /> cho các em xem một số hình ảnh và sau đó chúng ta sẽ trả lời các câu hỏi phía  <br /> dưới. Nhóm nào có câu trả  lời đúng, nhanh nhất sẽ  được cộng thêm điểm thi  <br /> đua.<br />      Để  tổ  chức dạy theo phương pháp này giáo viên sưu tầm những hình  ảnh  <br /> phục vụ  tốt cho kiến thức cần khắc sâu, sau đó trình chiếu cho học sinh xem  <br /> rồi đặt câu hỏi. Ví dụ: Khi dạy kiến thức phần “ Số  từ, lượng từ”  trong <br /> chương trình Ngữ văn lớp 6(VNEN) để rèn học sinh đặt câu có số từ, lượng từ <br /> giáo viên cho các em xem hình ảnh và đặt câu hỏi:<br /> Nhìn những bức tranh sau và đặt câu văn miêu tả có sử dụng số từ và lượng <br /> từ?<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trang 18<br /> HS trả lời : Những  ruộng lúa bậc thang đẹp rực rỡ dưới ánh nắng bình minh.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Ba cô gái thanh niên xung phong đang san lấp mặt đường.<br /> Các cô gái thanh niên xung phong đang san lấp mặt đường.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Những bông hoa cúc trắng đang khoe sắc dưới trời thu.<br /> <br /> Trang 19<br /> Với những tiết dạy sử  dụng phương pháp này giáo viên đã tích hợp được với <br /> phần tập làm văn miêu tả, giúp học sinh rèn kĩ năng quan sát, nhận xét, so sánh,  <br /> tưởng tượng và đặt câu đúng, đápứng được yêu cầu nội dung kiến thức đang  <br /> học. Đồng thời kích thích được sự  hứng thú học tập của học sinh và các em  <br /> đều trả lời câu hỏi rất tốt.<br /> Cách thứ2: Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi“Đuổi hình bắt chữ”<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Từ những hình ảnh dưới đây, em hãy tìm một câu tục ngữ <br /> hoặc ca dao có sử dụng số từ hay lượng từ.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trang 20<br /> Từ những hình ảnh này, em hãy tìm<br /> một câu tục ngữ hoặc ca dao có sử<br /> dụng sốtừ hay lượng từ.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> HS trả lời                   Bầu ơi thương lấy bí cùng<br /> Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trang 21<br /> Kinh nghiệm cho thấy với những tiết dạy sử dụng phương pháp này khi củng <br /> cố bài học sinh rất thích thú và các em đều trả lời câu hỏi rất tốt.<br /> c.Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:<br /> ­ Đối với giáo viên: Cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, sách hướng dẫn <br /> học Ngữ văn 6, chuẩn kiến thức kĩ năng để thiết kế bài dạy phù hợp cho mỗi <br /> tiết dạy. Giáo viên bám chắc vào mục tiêu bài học và nội dung trọng tâm của <br /> bài để có thể xây dựng câu hỏi, sử dụng hình thức triển khai phương pháp dạy  <br /> học tích cực một cách logíc, hệ thống. Chính hệ thống câu hỏi và cách thức tổ <br /> chức dạy học phù hợp sẽ có tác dụng phát huy được tính chủ động, sáng tạo ở <br /> học sinh, giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức đã học một cách tốt nhất. Để <br /> làm được điều đó đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học hỏi để  nâng cao <br /> trình độ chuyên môn cũng như năng lực sư phạm của mình.<br /> ­ Đối với học sinh:   Phải có đủ  sách hướng dẫn học, vở  ghi, vở  soạn bài  ở <br /> nhà. Phải chú ý nghe giảng, tích cực phát biểu xây dựng bài, đặc biệt phải  <br /> siêng học bài cũ ở nhà.<br /> d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:<br />      Đổi mới phương pháp dạy học sẽ khơi dậy sự tích cực, chủ động sáng tạo  <br /> của người học. Sẽ tạo được mối quan hệ thầy trò gần gũi, gợi mở; tạo được <br /> không khí lớp học vui vẻ hơn; người dạy rất dễ nắm bắt đánh giá, phân loại  <br /> được học sinhmột cáchnhanh chóng và đầy đủ,  phát huy hiệu quả  bài giảng <br /> một cách cao nhất. Kết quả thu được cuối cùng là chất lượng học tập của học  <br /> sinh tiến bộ.<br /> e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: <br />    Để áp dụng đề tài này tôi đã tiến hành thực nghiệm các phương pháp và hình <br /> thức tổ chức dạy học tích cực như đã trình bày ở trên trong suốt cảhọc kì I năm  <br /> học 2015 – 2016 ở lớp là 6a1 mà tôi trực tiếp giảng dạy. Kết quả cho thấy khi  <br /> vận  dụng đổi mới phương pháp và cách thức tổ  chức dạy học như  trên hầu  <br /> hết học sinh đều trả lời câu hỏi rất tốt. Các em đã chủ động trả lời câu hỏi và  <br /> không còn rụt rè, thiếu tự  tin như  trước nữa.Kĩ năng hoạt động nhóm, hoạt  <br /> động cặp đôi rất đồng đều, các em yêu thích môn học và hạn chế  được tình <br /> trạng nghỉ học, bỏ học. Kết quả học tập có nhiều tiến bộ.<br /> II.4.  Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề <br /> nghiên cứu:<br /> <br /> <br /> Trang 22<br />    Sau khi thực hiện vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong học kì I năm <br /> học 2015 – 2016, kết quả  thu được như  sau: Tổng số  học sinh lớp 6A1 là 36 <br /> em. <br /> Kết quả kiểm tra định kì môn Ngữ văn học kì I năm học 2015 – 2016 của lớp <br /> 6A1,trường THCS Tô Hiệu như sau:<br /> <br /> Tổng số Giỏi Khá TB Yếu Hoàn thành <br /> <br /> SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL<br /> <br /> 36 9 25% 20 55,6% 7 19,4% 0 0 36 100%<br /> <br />   Đó là kết quả chưa thực sự cao nhưng so với kết quả của năm học trước và <br /> kết quả  khảo nghiệm đầu năm học thì đã có sự  tiến bộ  vượt bậc. Nhiều em <br /> trước đây học còn trung bình thì nay đã khá, giỏi và những em học lực yếu đã  <br /> vươn lên trung bình. Kết quả này đã được nhà trường, đồng nghiệp cũng như <br /> các bậc phụ huynh học sinh ghi nhận và tỏ ra rất hài lòng. Bản thân tôi còn tự <br /> nhận thấy với việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn <br /> tiếng Việt có tác dụng lớn trong học tập môn Ngữ văn. Vì nó giúp học sinh vừa <br /> củng cố, ôn luyện vừa mở  rộng liên hệ  kiến thức tốt. Thông qua việc trả  lời <br /> câu hỏi học sinh có điều kiện rèn luyện tư duy, rèn luyện bản thân tốt hơn so <br /> với cách dạy truyền thống. <br /> III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:<br /> III.1. Kết luận:  Trên cơ  sở  nghiên cứu lí thuyết và dựa trên kết quả  thực  <br /> nghiệm. Tôi xin đưa ra một số kết luận sau:<br /> ­ Thứ  nhất:  Vận dụng phương  pháp dạy học tích cực  vào dạy phân môn <br /> Tiếng Việt trong dạy học Ngữ  văn đem lại hiệu quả  cao. Nếu với cách dạy  <br /> truyền thống khiến giờ dạy trở nên khô khan, học sinh không hứng thú, sợ sệt, <br /> không thuộc bài thì bằng việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học làm  <br /> cho học sinh thực sự  say mê, thích thú hơn với tiết học. Vì thế  học sinh chủ <br /> động chiếm lĩnh tri thức, biết cách vận dụng tri thức rất tốt.<br /> ­ Thứ  hai: Với thực trạng sử  dụng phương pháp dạy học truyền thống như <br /> hiện nay thì việc nghiên cứu và đề  xuất cách đổi mới phương pháp dạy học  <br /> đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa và thực tiễn xã <br /> hội là việc làm rất cần thiết. Nếu thực hiện đổi mới phương pháp một cách <br /> hợp lí sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học.<br /> <br /> Trang 23<br /> ­ Thứ  ba: Để  việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực có hiệu quả  cao  <br /> nhất thì giáo viên đứng lớp phải trang bị một cách đầy đủ kiến thức. Mặt khác <br /> nắm chắc chương trình, có sự  tìm tòi, nghiên cứu kĩ lưỡng để  có thể xác định <br /> nội dung cũng như phạm vi kiến thức cần dạy từ đó xây dựng được câu hỏi và <br /> cách thức tổ chức dạy học phù hợp với nội dung bài cũng như là đối tượng học <br /> sinh.<br /> III.2.Kiến nghị:<br /> a. Đối với giáo viên: Thường xuyên trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, mạnh <br /> dạn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.<br /> b. Đối với học sinh:  Các em phải siêng năng, cần cù, chịu khó và dành <br /> nhiều thời gian để soạn bài ở nhà, học bài cũ trước khi đến lớp.<br />            Trên đây là một vài kinh nghiệm của bản thân tôi về  việc vận dụng  <br /> phương pháp dạy học tích cựcvào dạy phân môn tiếng Việt lớp 6(VNEN)  ở <br /> trường THCS Tô Hiệu. Chắc chắn chưa thể  mang tính hoàn thiện cao và đạt <br /> hiệu   quả   như   mong   muốn.   Kính   mong   nhận   được   sự   đóng   góp   của   đồng  <br /> nghiệp để sáng kiến hoàn chính hơn và mang lại hiệu quả cao hơn trong thực  <br /> tiễn giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn. <br /> KrôngAna, tháng 3 năm 2016<br />                                                                       Người viết<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                                                                                        Nguyễn Thị Lành       <br /> <br /> <br /> <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2