intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm hình thành năng lực học sinh trong giờ đọc hiểu Ngữ văn tại trường THPT Tam Đảo 2

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:56

115
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy môn Ngữ văn, mặc dù khả năng còn hạn chế nhưng bằng sự tìm tòi của mình tôi cố gắng đề xuất một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể vận dụng trong giờ học Ngữ văn. Đây là cơ hội để bản thân tự củng cố, trau dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm từ các thế hệ giáo viên đi trước để vận dụng vào trong quá trình giảng dạy sau này của bản thân và cũng để đồng nghiệp tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm hình thành năng lực học sinh trong giờ đọc hiểu Ngữ văn tại trường THPT Tam Đảo 2

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. LỜI GIỚI THIỆU Nhân loại đang đứng trước sự  phát triển như  vũ bão của khoa học công   nghệ, trước những biến đổi không ngừng vừa theo dòng chảy quy luật vừa đột  biến bất thường. Con người trong tương lai phải là con người biết hành động  một cách năng động và sáng tạo, thích  ứng nhanh với những thay đổi và khả  năng tiếp cận giải quyết vấn đề  mềm dẻo, linh hoạt. Thế  nhưng trong hoạt   động dạy học hiện nay vai trò chủ thể của học sinh dường như còn đang ở dạng   tiềm tàng – tính tích cực chủ  động sáng tạo của học sinh chưa được phát huy,  không ít giáo viên vẫn còn là trung tâm của lớp học. Vì vậy, việc tìm hiểu và xác  định phương pháp dạy học thích ứng để nâng cao chất lượng giảng dạy là một  đòi hỏi cấp bách đối với các trường học, và xét ở góc độ nhỏ hơn thì đó cũng là   ước muốn và trách nhiệm của mỗi giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp. Đứng ở góc độ khác, trong những năm gần đây các tài liệu bồi dưỡng cho  giáo viên đã đề  cập khá nhiều việc chuyển từ  kiểu dạy học lấy giáo viên làm   trung tâm sang kiểu dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nội dung của kiểu dạy  học này nhằm chuẩn bị  cho học sinh khả  năng thích  ứng với đời sống và năng  lực giải quyết vấn đề  thực tiễn. Phương pháp của kiểu dạy học lấy học sinh  làm trung tâm rất chú ý đến cách hoạt động nhằm phát huy tính tích cực chủ  động của học sinh.  Nhìn chung việc thực hiện  đổi mới phương pháp dạy học đã và đang  được nhiều giáo viên thực hiện, và cũng đã có nhiều sáng kiến trong việc phát  huy tính tích cực học tập của học sinh. Thế nhưng, khi áp dụng thực tế dạy học  giáo viên cũng gặp không ít những khó trong việc áp dụng phưong dạy học phát   huy tính tích cực học tập của học sinh,  một số  giáo viên vẫn còn thuyết trình  nhiều, cung cấp kiến thức đôi khi còn áp đặt, vì thế  kết quả  giảng dạy chưa   cao. Do đó, vận dụng phương pháp dạy học nào để thu hút học sinh vào bài dạy  của mình để nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung và ở bộ môn Ngữ văn nói  riêng,  làm thế nào để rèn cho cho học sinh có phương pháp tự học,   học sinh tích  cực chủ  động chiếm lĩnh tri thức trong giờ  học, đây là vấn đề  trăn trở  được  nhiếu giáo viên quan tâm. 1
  2.   Vì vậy, để  phát huy hơn nữa kết quả đã đạt được trong những năm học  vừa qua và khắc phục những hạn chế  thiếu sót trong dạy học Ngữ  văn theo   hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh.   Được sự quan tâm cho phép  của Ban giám hiệu trường  THPT Tam Đảo 2, tôi đã mạnh dạn tiến hành làm  sáng kiến kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng  dạy môn Ngữ  văn,   mặc dù khả  năng còn hạn chế  nhưng bằng sự  tìm tòi của  mình tôi cố gắng đề xuất một số  phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có  thể vận dụng trong giờ học Ngữ văn. Đây là cơ hội để bản thân tự củng cố, trau  dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm từ các thế hệ giáo viên đi trước để vận dụng   vào trong quá trình giảng dạy sau này của bản thân và cũng để  đồng nghiệp   tham khảo.  2. TÊN SÁNG KIẾN: Vận dụng một số  phương pháp và kĩ thuật dạy học tích   cực nhằm hình thành năng lực học sinh trong giờ đọc hiểu Ngữ  văn tại trường   THPT Tam Đảo 2 3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN ­ Họ và tên: Lê Thị Thoa ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Tam Đảo 2. ­ Số điện thoại: 0948005683                           ­ E_mail: lethithoa.gvtamdao2@vinhphuc.edu.vn 4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN Tác giả  cùng với sự  hỗ  trợ  của   nhóm giáo viên môn ngữ  văn trường   THPT Tam Đảo 2 về kinh phí, đầu tư  cơ  sở  vật chất ­ kỹ thuật trong quá trình   viết sáng kiến và dạy thực nghiệm sáng kiến.  5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN  Sáng kiến được áp dụng cho việc dạy giờ đọc ­ hiểu Ngữ văn của trường  THPT Tam Đảo 2. Từ đó, sáng kiến đưa ra những định hướng cho giáo viên bộ  môn Ngữ văn trong những giờ dạy đọc hiểu Ngữ văn cho học sinh.  6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU Sáng kiến này chính thức được áp dụng lần đầu vào 10/12/2018. 7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 7.1 NỘI DUNG SÁNG KIẾN: Chương I:  Cơ sở lí luận và thực tiễn của sáng kiến 1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục 2
  3. Ngày nay, nhiều thành tựu khoa học và kĩ thuật xuất hiện và đổi mới vô  cùng nhanh chóng. Theo đó, hệ  thống giáo dục cũng đặt ra những yêu cầu cần   phải đổi mới. Việc thi thố  tài năng bằng sự  thuộc lòng những hiểu biết mang  tính lí thuyết dần được thay bằng năng lực chuyên môn, năng lực giải quyết vấn  đề đưa ra những cách giải quyết mang tính sáng tạo hiệu quả cao, thích ứng với  đời sống xã hội. Trước đòi hỏi của thực tiễn, nước ta đang trên con đường hội nhập và  phát triển thì đổi mới giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học, là hết   sức cần thiết. Điều 28 khoản 2 của Luật giáo dục có ghi:  “Phương pháp giáo   dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động sáng tạo của học   sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương   pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào   thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học   sinh”. Đổi mới giáo dục đỏi hỏi nhà trường không chỉ  trang bị  cho học sinh  những kiến thức đã có của nhân loại mà còn phải bồi dưỡng, hình thành  ở  các  em tính năng động, óc tư duy sáng tạo, và kĩ năng thực hành.  2. Xuất phát từ những quy luật hoạt động của não bộ. Nếu như  một cái cây có ba phần lá ngọn, thân và dễ  thì những phương   pháp và kĩ thuật dạy học chỉ là phần lá ngọn, và gốc rễ  của phần lá ngọn của  những phương pháp kĩ thuật dạy học chính là phần những quy luật hoạt động  của não bộ. Từ  những quy luật nhận thức của người học, các nhà nghiên cứu  mới đưa ra những phương pháp và kĩ thuật dạy học khác nhau nhằm phát huy tối  đa quá trình nhận thức của người học. Từ những quy luật hoạt động của não bộ,   chúng ta có thể ứng dụng vào dạy học như sau: Quy luật thứ nhất: Não có giới hạn về số lượng thông tin ghi nhớ (Chỉ ghi  nhớ được một lượng thông tin nhất định nếu quá tải sẽ xóa bỏ  (quên) hoặc bóp  méo (nhớ  nhầm). Vì thế  trong dạy học giáo viên cần: chia nhỏ, cung cấp liều   lượng thông tin vừa đủ, tránh tràn; tập trung vào những điểm trọng tâm; nói   chậm, giảng chậm. Quy luật thứ hai: Mức độ xử lí thông tin tỉ lệ thuận với hiệu quả ghi nhớ.  Muốn thông tin được ghi nhớ  lâu và chính xác trong não bộ  thì thông tin đó cần  được não xử  lí bằng việc tìm ra mối quan hệ, sắp xếp các thông tin theo một   trật tự, lôgic nhất định. Vì thế  trong dạy học giáo viên cần: tạo cơ  hội cho   người học chủ động xử lí thông; đa dạng hóa các hoạt động xử lí thông tin. Quy luật thứ ba: Trong rất nhiều những thông tin thì não bộ sẽ ghi nhớ rất  tốt những thông tin độc đáo, khác biệt. Vì thế trong dạy học giáo viên cần: làm  3
  4. cho bài giảng của mình độc đáo; đưa thêm các yếu tố  thú vị, cuốn hút vào bài  giảng. Quy luật thứ  tư: Não bộ  ghi nhớ  rất tốt những thông quen thuộc, có ý  nghĩa. Vì thế  trong dạy học giáo viên cần: đi từ  những điều đã biết; tăng ví dụ  liên hệ thực tế; sử dụng ẩn dụ, kể chuyện… Quy luật thứ  năm: Não bộ  ghi nhớ  thông tin rất tốt và rất lâu khi có nhu  cầu cần ghi nhớ. Vì thế trong dạy học giáo viên cần: để “ngứa” rồi hãy gãi; tạo  ra các tình huống thách thức; để học sinh thật “bí” rồi mới giúp. Quy luật thứ sáu: Não bộ  chia ra làm hai bán cầu, ở  mỗi bán cầu não trái  thì hoạt động hoàn toàn khác nhau. Vì thế trong dạy học giáo viên cần: tăng yếu   tố  âm thanh, hình  ảnh; sử dụng sơ đồ  tư  duy; hướng dẫn học sinh ghi nhớ, ghi   chú bằng hình ảnh. 2. Xuất phát từ thực tiễn. Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông, tôi luôn   trăn trở   phải làm thế  nào để  học sinh có thể  làm chủ, tự  lực chiếm lĩnh kiến  thức, tích cực, chủ  động, sáng tạo, phát huy năng lực có kĩ năng giải quyết các  vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Và đặc biệt phải làm thế nào để  học sinh yêu  thích môn văn không coi môn ngữ  văn là môn học ru ngủ. Đây thưc sự  là một  thách thức lớn đối với bản thân tôi. Thực chất mục đích của việc học là để  đem những kiến thức được trang  bị để vận dụng giải quyết những tình huống/ vấn đề đặt ra trong thực tiễn, góp  phần nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng hiện nay nhiều học sinh giỏi trong  nhà trường lại cũng là những “chú gà công nghiệp” trong thực tiễn đời sống.  Học môn Ngữ  văn ngoài việc bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ, làm giàu dời sống   tâm hồn, hướng thiện cho đời sống tinh thần,…. còn là để  sử  dụng ngôn từ.  Ngôn từ là công cụ để đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản,… Tuy nhiên đó là  chưa nói đến việc đọc để hiểu một văn bản. Học về ngôn ngữ để sử dụng ngôn  ngữ nhưng học sinh có khả năng giao tiếp tốt, khả năng viết một văn bản đúng  phong cách chức năng trong mỗi nhà trường đều không nhiều, đó là chưa kể đến  khả năng trình bày thuyết phục một vấn đề trước tập thể,… Sẽ rất lãng phí nếu   học một tác phẩm văn học mà chỉ  để  hiểu giá trị  của tác phẩm  ấy. Thực tế  là  vậy, tuy học về một tác phẩm thơ nhưng người học vẫn thiếu khả năng tự đọc  hiểu, phân tích một bài thơ  tương tự. Điều này xuất phát từ hai lí do chính: thứ  nhất, do không được trang bị  những tri thức, công cụ, tức là các tri thức về  phương pháp tiếp cận; thứ hai, do áp lực về nội dung, người dạy không có thời  gian hướng dẫn học sinh dùng các tri thức công cụ để tự mình tiếp cận và phân  tích tác phẩm. 4
  5. Tôi đã thử nhiều giải pháp, mỗi giải pháp đem lại thành công nhất định. Vì  thế qua mỗi lần thử nghiệm, tôi đã tự  điều chỉnh và tự  hoàn thiện dần phương  pháp dạy học. Đặc biệt sau khi tham gia khóa học  “Các phương pháp dạy học   tích cực”  của tiến sĩ Trần Khánh Ngọc, tôi nhận thấy việc sử  dụng những   phương pháp kĩ thuât dạy học tích cực nhằm phát huy năng lực người học sẽ  đem lại hiệu quả  cao trong việc giúp học sinh chủ  động tìm kiếm và lĩnh hội   kiến thức bài học, giúp học sinh có được những năng lực cần thiết và biết vận   dụng những năng lực đó vào thực tiễn cuộc sống. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã thiết kế bài giảng những tiết đọc hiểu  Ngữ  văn theo những phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy  năng lực của học sinh. Chương II: Một số khái niệm và phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực 1.  Dạy học tích cực Dạy  học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở  nhiều nước để  chỉ  những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,   chủ động, sáng tạo của người học. “Tích cực” trong phương pháp dạy học   tích cực tức là  hoạt động, chủ   động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ  động chứ  không dùng theo nghĩa trái  với tiêu cực. Dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động  nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người  học chứ  không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy  nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so   với dạy theo phương pháp thụ động. 2. Đặc trưng của dạy học tích cực ­ Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh         Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học  sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những  tri thức được sắp đặt sẵn. Theo tinh thần này, giáo viên không cung cấp, áp đặt  kiến thức có sẵn mà là người tổ  chức và chỉ  đạo học sinh tiến hành các hoạt   động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng  tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn,... ­ Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học                  Chú trọng rèn luyện cho HS những tri thức phương pháp để  họ  biết   cách đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự  tìm lại những kiến   thức đã có, biết cách suy luận để  tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,... Các tri  5
  6. thức phương pháp thường là những quy tắc, quy trình, phương thức hành động,  tuy nhiên cũng cần coi trọng cả các phương pháp có tính chất dự đoán, giả định   (ví dụ: phương pháp giải bài tập vật lí, các bước cân bằng phương trình phản  ứng hóa học, phương pháp giải bài tập toán học,...). Cần rèn luyện cho học sinh  các thao tác tư  duy như  phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương   tự, quy lạ về quen... để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo của họ. ­ Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác           Tăng cường phối hợp học tập cá thể  với học tập hợp tác theo phương  châm “tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận   nhiều hơn”. Điều đó có nghĩa, mỗi học sinh vừa cố  gắng tự lực một cách độc  lập, vừa hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi  kiến thức mới. Lớp học trở  thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò – trò  nhằm vận dụng sự  hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể  trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung. ­ Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò           Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến   trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng   phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của HS với nhiều hình thức   như  theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự  xác định tiêu chí để  có  thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót. 3. Một số kĩ thuật dạy học tích cực ­ Kĩ thuật đặt câu hỏi ­ Kĩ thuật khăn phủ bàn ­ Kĩ thuật mảnh ghép ­ Sơ đồ tư duy ­ Kĩ thuật “KWL” ­ Kĩ thuật lắng ghe và phản hồi tích cực… 4. Một số phương pháp dạy học tích cực ­ Dạy học theo nhóm ­ Dạy học nêu/phát hiện và giải quyết vấn đề. ­ Dạy học theo góc ­ Dạy học theo hợp đồng ­ Dạy học theo dự án… Chương III:     Đề  xuất một số  phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực  nhằm   phát   huy   năng   lực   người   học   trong   giờ   đọc   hiểu   Ngữ   văn   khối   THPT. 6
  7. 1. Mục đích, yêu cầu của một giờ đọc hiểu Ngữ văn. ­ Mục đích: Trong giờ đọc hiểu Ngữ Văn, giáo viên phải giúp học sinh đạt  được những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng thái độ và năng lực. ­ Yêu cầu: để đạt được những mục đích đó yêu cầu một giờ đọc hiểu cần   phải + Học sinh phải được trải nghiệm những hoạt động học tập dưới sự  tổ  chức hướng dẫn của giáo viên. Muốn làm được điều đó trong mỗi tiết dạy giáo   viên phải thiết kế được những hoạt động học tập phù hợp với nội dung bài học,   qua những hoạt động đó học sinh năm được nội dung bài học, phát triển kĩ năng,  năng lực. + Khối lượng kiến thức vừa đủ, dễ tiếp thu đối với học sinh. Não bộ của  con người có giới hạn ghi nhớ, mà trong giờ  đọc hiểu Ngữ  văn học sinh phải  tiêp xúc với một khối lượng thông tin đồ  sộ  về  tác giả, về  hoàn cảnh sáng tác,  nội dung và nghệ  thuật của tác phẩm.   Nếu giáo viên bê nguyên cả  một khối  lượng kiến thức khổng lồ vào giờ học, sẽ dẫn đến hiện tượng học sinh xóa bỏ  hoặc bóp méo thông tin kiến thức. Muốn vậy trong giờ học, giáo viên phải chọn  lựa những kiến thức trọng tâm, cho học sinh ghi nhớ bằng những từ khóa và đặc   biệt cần phải chia nhỏ  kiến thức, hệ thống kiến thức bằng cây thư  mục bằng  sơ đồ tư duy. + Trong giờ  học giáo viên phải tạo cơ  hội cho học sinh xử  lí, nhào lặn  thông tin thì hiệu quả ghi nhớ sẽ rất cao. Ví dụ  khi cảm thụ văn bản, giáo viên   nên cho học sinh cảm nhận qua gợi ý, trình bày vào giấy, thuyết trình, nghe và  nhận xét thông qua các hoạt động học tập. Càng được xử lí thông tin nhiều lần   thì thông tin sẽ được ghi nhớ chính xác trong não bộ. + Giờ  dạy phải có sự  độc đáo và mới lạ. Để  tạo được sự  độc đáo trong   giờ  đọc hiểu Ngữ  văn, giáo viên nên tổ  chức cho học sinh học tập thông qua  những   trò   chơi   như   giải   ô   chữ,   nhìn   hình   đoán   chữ,   tìm   chữ,   tìm   số,   tìm   người….. + Kiến thức bài học phải có sự quen thuộc và ý nghĩa. Đối với những văn   bản xa lạ, khó hiểu, trừu tượng, giáo viên cần phải biến lạ thành quen biến trừu  tượng thành cụ thể, rõ ràng để học sinh dễ nhận biết. + Học sinh cần được nhận thức rõ học bài này để  làm gì? Khi có mục  đích, có nhu cầu cần học thì thái độ học tập sẽ rất nghiêm túc và hiệu quả. 2. Thực hiện các hoạt động học tập trong giờ đọc hiểu Ngữ văn thông qua   các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Trong giờ  đọc hiểu môn Ngữ  văn nói riêng cũng như  giờ  học nói chung  phải đảm bảo 5 hoạt động.  Ở  mỗi một hoạt động chúng ta thường vận dụng   7
  8. những phương pháp kĩ thuật khác nhau nhằm đạt mục tiêu riêng của mỗi hoạt   động và đảm bảo sự phong phú linh hoạt trong giờ dạy. 2.1. Hoạt động khởi động ­ Mục đích: Hoạt động khởi động  tạo hứng thú và kết nối giữa kiến thức  cũ và kiến thức mới, tạo động cơ học tập cho học sinh. ­  Cách thực hiện:  Có nhiều cách để  tạo tình huống nhưng nguyên tắc  chung là:  + Giáo viên dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân  học sinh có liên quan đến vấn đề  xuất hiện trong bài học, làm bộc lộ “cái”  học  sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận  ra “cái” chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động này. Từ  đó, giúp  học sinh  suy nghĩ  và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập. + Các câu hỏi/nhiệm vụ trong hoạt động này là những câu hỏi/vấn đề mở,  không cần có câu trả  lời hoàn chỉnh. Kết thúc hoạt động này, giáo viên không   chốt về  nội dung kiến thức mà chỉ  giúp học sinh phát biểu được vấn đề  để  chuyển sang các hoạt động tiếp theo nhằm bổ  sung những kiến thức, kĩ năng  mới, qua đó, hoàn thiện câu trả lời hoặc giải quyết được vấn đề. ­ Đối với hoạt động khởi động trong giờ  đọc hiểu chúng ta nên sử  dụng  những kĩ thuật dạy học như sau: + Kĩ thuật trò chơi: Cho học sinh tham gia một trò chơi (đoán ô chữ, tìm từ  khóa ai nhanh hơn, nhớ nhanh….) thông quac các trò chơi này giáo viên cho chọ  sinh hướng tới một từ khóa, một chủ đề, một vấn đề có liên quan đến nội dung   tiết dạy. Sau khi kết thúc trò chơi từ  khóa, chủ  đề  đã được gọi ra, giáo viên sẽ  dẫn dắt vào giới thiệu bài mới. + Kĩ thuật theo dõi tư  liệu và trả  lời câu hỏi: Yêu cầu học sinh theo dõi  một đoạn nhạc, một video, một tiểu phẩm, hoặc giáo viên có thể  hát một bài  hát, hoặc đọc một đoạn thơ. Sau đó giáo viên đưa ra một câu hỏi có liên quan   đến tư liệu vừa rồi để gọi tên từ khóa hoặc chủ đề của bài học và đẫn dắt giới   thiệu vào bài mới. + Kĩ thuật giải quyết tình huống: Giáo viên đưa ra một tình huống, một   vấn đề  cần giải quyết, cho học sinh đưa ra những phương án giải quyết khác   nhau và giáo viên dẫn dắt vào nội dung bài học sẽ  giúp học sinh có cách giải   quyết vấn đề đó một cách đúng đắn. 2.2. Hoạt động hình thành kiến thức  ­ Mục đích: Giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức, kỹ năng mới và đưa  các kiến thức mới vào hệ thống kiến thức, kĩ năng của bản thân. 8
  9. ­ Cách thực hiện  + Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh, giúp học sinh xây  dựng những kiến thức mới thông qua các hoạt động khác nhau như: nghiên cứu   tài liệu, đọc văn bản, xử lí ngữ liệu, hoạt động trải nghiệm sáng tạo… học sinh  tạo ra sản phẩm, báo cáo kết quả, phản biện, bổ sung lẫn nhau…giáo viên quan  sát và hỗ trợ khi cần thiết. + Mỗi câu hỏi, nhiệm vụ  học tập đều phải tường minh, rõ nghĩa để   học  sinh không hiểu lầm ý giáo viên. + Kết thúc hoạt động này, trên cơ sở kết quả hoạt động học của học sinh,  giáo viên cần chốt kiến thức mới để  học sinh chính thức ghi nhận và vận dụng,  giáo viên cần có định hướng mở  để  phát huy năng lực cảm thụ, tiếp nhận sáng  tạo. ­ Đối với hoạt động hình thành kiến thức trong những giờ  đọc hiểu Ngữ  văn, giáo viên cần hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinhthông  qua các kĩ thuật như sau: a. Kĩ thuật đóng vai Kĩ thuật đóng vai có rất nhiều ưu điểm nổi bật. Học sinh được rèn luyện,   thực hành những kĩ năng  ứng xử  và bày tỏ  thái độ  trong môi trường an toàn  trước khi thực hành trong môi trường thực tiễn gây hứng thú cho học sinh, thông  qua đó hình thành kĩ năng giao tiếp, cơ hội bộc lộ cảm xúc. Tạo điều kiện phát  triển óc sáng tạo của học sinh. Trong trường hợp, có thể  có một số  học sinh nhút nhát, thiếu tự  tin khi   đứng trước tập thể, vốn từ  ít khó thực hiện vai diễn của mình, giáo viên cần  động viên, khuyến khích, tạo cơ hội cho các học sinh tham gia bắt đầu từ những  tình huống cơ bản.  Có thể  cho một học sinh đóng vai phóng viên, hay MC còn một học sinh   đóng vai tác giả tham gia trong một chương trình. Trong cuộc trò chuyện đó học  sinh đóng vai phóng viên, MC sẽ có những cau hỏi gợi dẫn để học sinh đóng vai  tác giả  trả  lời những câu hỏi đó. Qua những câu trả  lời của tác giả  thì những   kiến thức về tác giả tác phẩm được cụ thể hóa. Giáo viên yêu cầu cả lớp chú ý   và ghi chép lại sau đó giáo viên củng cố. Hoặc có thể cho học sinh đóng vai một  nhân vật để kể lại câu chuyện, trình bày một vấn đề ở các góc nhìn khác nhau… b Kĩ thuật nhóm Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự  tham gia tích cực của học sinh trong học tập; là phương pháp góp phần quan  trọng trong hình thành và phát triển năng lực hợp tác Trong thảo luận nhóm, học  sinh được tham gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm   9
  10. cùng quan tâm Thảo luận nhóm là hoạt động mang tính dân chủ.  Mọi cá nhân   đều được tự do trình bày quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón  nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện  kĩ năng giải quyết vấn đề khó khăn. Thảo luận nhóm được tiến hành theo các hình thức: nhóm nhỏ  (cặp đôi,  cặp ba), nhóm trung bình ( 4 đến 6 người), nhóm lớn (8 đến 10 người). Khi tổ  chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, giáo viên cần sử  dụng  nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho học sinh, đồng thời tạo cơ  hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Có   các cách chia nhóm như  theo số  điểm danh, theo tháng sinh, theo sở  thích, theo   hình ghép… Khi chia nhóm, giáo viên cần lưu ý, số lượng đơn vị kiến thức tỉ lệ thuận   với số  lượng nhóm, và nhiệm vụ  của các nhóm phải đảm bảo tương đương  nhau, tránh quá dễ hoặc quá khó Gv có thể có những câu hỏi gợi ý cho mỗi nhóm  thông qua phiếu học tập.  Đối với giờ đọc hiểu môn Ngữ văn hoạt động thảo luận nhóm được tiến   hành khi tổ chức nội dung học tập tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của văn bản.  c.  Kĩ thuật Bản đồ/sơ đồ tư duy   Bản đồ sơ đồ tư duy nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng hay   kết quả làm việc của cá nhân nhóm về một chủ đề. Đầu tiên học sinh sẽ viết tên chủ đề, ý tưởng chính ở trung tâm, sau đó từ  chủ đề trung tâm sẽ vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh chính viết một nội dung  lớn của chủ đề hoặc ý tưởng có liên quan xoay quanh ý tưởng trung tâm. Từ mỗi  nhánh chính vẽ  tiếp các nhánh phụ  để  viết thêm những nội dung thuộc nhanh   chính đó.   Kĩ thuật này thường sử  dụng kết hợp với kĩ thuật nhóm trong yêu cầu  trình bày sản phẩm của các nhóm. d. Kĩ thuật phòng tranh.  Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm Giáo viên cần nêu câu hỏi/ vấn đề  cho cả  lớp hoặc cho nhóm. Mỗi thành  viên hoặc mỗi nhóm phác họa những ý tưởng về  cách giải quyết vấn đề  trên   một tờ bìa và treo lên tường xuang quanh lớp học như một phòng tranh. Giáo viên cho học sinh cả lớp đi xem tranh và có thể  có ý kiến bình luận   hoặc bổ sung. Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết đều được tập hợp lại và tìm  phương án tối ưu. e. Kĩ thuật hỏi chuyên gia 10
  11. Kĩ thuật này có thể kết hợp với kĩ thuật nhóm để tạo thành nhóm ghép và  nhóm chuyên gia. Từ nhóm chuyên gia ban đầu, giáo viên đánh số thứ tự cho các thành viên  trong từng nhóm, sau đó yêu cầu các thành viên trong mỗi nhóm di chuyển để  tạo thành nhóm ghép, ở mỗi nhóm ghép đều có các chuyên gia về các sản phẩm  mà nhóm chuyên gia ban đầu tạo thành. Ở mỗi nhóm ghép các chuyên gia sẽ là người giảng giải và trả lời các câu  hỏi của thành viên trong nhóm về  sản phẩm mà nhóm chuyên gia ban đầu của   mình   nghiên  cứu.   Sau  đó   các   nhóm  ghép   di  chuyển   sang   sản   phẩm  khác   và  chuyên gia khác lai tiếp tục giảng giải và trả  lời các câu hỏi của các thành viên  trong nhóm. g. Kĩ thuật hẹn hò  Đây là kĩ thuật gây húng thú và sự hấp dẫn cho người đọc nhờ sự hồi hộp   và dí dỏm.  Để  thực hiện kĩ thuật này, giáo viên chia lớp thành hai dãy mỗi dãy tìm  hiểu một nội dung khác nhau của bài học. Sau đó giáo viên phát cho học sinh   một tờ  giấy có vẽ  chiếc đồng hồ, yêu cầu học sinh tìm đối tác ( khác dãy) để  hẹn hò trong các cung giờ quy định. Sau khi tìm được đối tác xong giáo viên cho  học sinh đến tìm đúng đối tác mà mình đã hẹn hò để trao đổi với nhau về những   nội dung của bài học. h. Kĩ thuật khăn trải bàn. Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả  hơn, mỗi học sinh  đều phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các   bạn học khá, giỏi. Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề  nhỏ  trong tiết  học, toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề. Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể  gắn các mẫu giấy  “khăn trải bàn” lên bảng để  cả  lớp cùng nhận xét. Có thể  dùng giấy nhỏ  hơn,  dùng máy chiếu phóng lớn. Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo   viên có thể  đánh giá được khả  năng nhận thức của từng học sinh về  chủ  đề  được nêu. Trong giờ đọc hiểu Ngữ văn, kĩ thuật này sẽ phát huy hiệu quả trong việc   giáo viên cho học sinh hình thành kiến thức về văn bản thông qua cảm nhận văn  bản. Mỗi học sinh sẽ  có một cảm nhận khác nhau về  đối tượng, điều quan   trọng là học sinh phải biết sâu chuỗi những cảm nhận riêng biệt đó thành  hệ  thống và có sức thuyết phục. 2.3. Hoạt động luyện tập 11
  12. ­ Mục đích: Giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh  hội được, đặc biệt là kiến thức, kĩ năng trọng tâm của bài học,  từ đó giáo viên   đánh giá được mức độ nắm bắt kiến thức của học sinh. ­ Cách thực hiện + Giáo viên yêu cầu học sinh áp dụng trực tiếp kiến thức vừa học vào giải  quyết các câu hỏi/bài tập/tình huống/vấn đề trong học tập. + Tùy từng đối tượng người học, giáo viên có thể  giao những nhiệm vụ  đảm bảo tính vừa sức và tính định hướng nhằm giúp  học sinh  thuần thục kĩ  năng, hiểu sâu hơn về  những tri thức vừa chiếm lĩnh. Đồng thời, cần thiết kế  những bài tập có tính nâng cao, tính mở  nhằm phát huy năng lực sáng tạo của   học sinh và chuẩn bị cho các bước còn lại của bài học. + Kết thúc hoạt động này, giáo viên chốt kiến thức để  học sinh ghi nhận  và vận dụng, trước hết là vận dụng để hoàn chỉnh câu trả lời/giải quyết vấn đề  đặt ra trong hoạt động khởi động. ­ Đối với hoạt động luyện tập trong giờ  đọc hiểu Ngữ  văn, giáo viên có  thể  sử  dụng những phương pháp và kĩ thuật như  hệ  thống thành sơ  đồ  tư  duy,   giải mật thư, hẹn hò…. Qua các hoạt động này học sinh có thể  vận dụng tốt   những kiến thức vừa tiếp thu được vận dụng vào tình huống, bài tập. 2.4. Hoạt động vận dụng ­ Mục đích: Giúp học sinh vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học  để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề trong thực tế cuộc sống ở gia   đình, địa phương. ­ Cách thực hiện + Giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã  học để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề trong thực tế cuộc sống ở  gia đình, địa phương… + Học sinh có thể  nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự  hiểu biết  của mình, tìm phương pháp giải quyết vấn đề  và đưa ra những cách giải quyết  vấn đề  khác nhau, góp phần hình thành năng lực học tập với gia đình và cộng   đồng  2.5. Hoạt động tìm tòi, mở rộng ­ Mục đích: Giúp học sinh mở rộng thêm kiến thức, phát triển sáng tạo  ­ Cách thực hiện  + Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thêm các đoạn trích, văn bản có liên  quan, trao đổi với người thân về  nội dung bài học, tìm đọc thêm  ở  sách báo,  mạng Internet.. 12
  13. + Hoạt động này không cần tổ chức ở trên lớp và không đòi hỏi tất cả  học  sinh  tham gia. Tuy nhiên, giáo viên cần quan tâm, động viên để  có thể  thu hút   nhiều học sinh tham gia một cách tự  nguyện, khuyến khích những học sinh có  sản phẩm chia sẻ với các bạn trong lớp. + Học sinh có thể có những ý tưởng sáng tạo vượt ra khỏi ý tưởng thiết   kế bài học của giáo viên. Khi ấy, giáo viên càng có vai trò quan trọng trong việc   định hướng, uốn nắn, khích lệ học sinh. Chương IV: Xây dựng bài giảng minh họa  1. Xây dựng kế hoạch bài học cho tác phẩm thơ: Tiết 26 Ca dao than thân   yêu thương tình nghĩa môn Ngữ văn lớp 10 Tiết 26 CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG, TÌNH NGHĨA ( Tiết 2) 1. MỤC TIÊU BÀI HỌC a. Kiến thức ­ Cảm nhận được tiếng hát than thân và lời ca yêu thương tình nghĩa của   người bình dân trong XHPK qua nghệ  thuật đậm đà màu sắc dân gian của ca  dao.             ­ Đồng cảm, thương xót cho thân phạn bất hạnh của người phụ nữ và   những bất hạnh trong tình yêu của con người trong xã hội cũ. b. Kĩ năng. Có kĩ năng đọc và phân tích ca dao c. Thái độ Trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người lao động và yêu quý những sáng tác  của họ. d Năng lực ­ Năng lực tự học:     + Xác định mục tiêu học tập: Xác định được nhiệm vụ học tập một  cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để nỗ lực phấn đấu thực  hiện. + Đánh giá và điều chỉnh việc học: Nhận ra và điều chỉnh những sai   sót, hạn chế của bản thân khi được giáo viên, bạn bè góp ý; chủ động tìm kiếm  sự hỗ trợ của người khác khi gặp khó khăn trong học tập.      ­ Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo:  + Phát hiện và làm rõ vấn đề: Phân tích được tình huống trong học   tập; phát hiện và nêu được tình huống có vấn đề trong học tập. + Đề xuất, lựa chọn giải pháp: Xác định được và biết tìm hiểu các  thông tin liên quan đến vấn đề; đề xuất được giải pháp giải quyết vấn đề. 13
  14. + Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề: Thực hiện   giải pháp giải quyết vấn đề và nhận ra sự phù hợp hay không phù hợp của giải   pháp thực hiện.   ­ Năng lực giao tiếp:  + Sử dụng tiếng Việt: Nghe hiểu nội dung chính hay nội dung chi tiết các  đề bài, lời giải thích, cuộc thảo luận; có thái độ tích cực trong khi nghe; có phản hồi phù   hợp,... + Xác định mục đích giao tiếp: Bước đầu biết đặt ra mục đích giao  tiếp và hiểu được vai trò quan trọng của việc đặt mục tiêu trước khi giao tiếp.   ­ Năng lực hợp tác: + Xác định mục đích và phương thức hợp tác: Chủ  động đề  xuất  mục đích hợp tác khi được giao các nhiệm vụ; xác định được loại công việc nào  có thể hoàn thành tốt nhất bằng hợp tác theo nhóm với quy mô phù hợp. + Đánh giá hoạt động hợp tác: Biết dựa vào mục đích đặt ra để tổng  kết hoạt động chung của nhóm; nêu mặt được, mặt thiếu sót của cá nhân và của   cả nhóm.   ­ Năng lực thẩm mỹ:  +  Nhận ra cái đẹp:  Có cảm xúc và chính kiến cá nhân trước hiện  tượng trong tự nhiên, đời sống xã hội và nghệ thuật. + Diễn tả, giao lưu thẩm mỹ: Giới thiệu được, tiếp nhận có chọn  lọc thông tin trao đổi về biểu hiện của cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã  hội, trong nghệ thuật và trong tác phẩm của mình, của người khác. II. CHUẨN BỊ CỦA THẦY VÀ TRÒ            1. Chuẩn bị của giáo viên           ­ Giáo án/thiết kế bài học;  ­ Sách giáo khoa, SGV, sách bài tập;            ­ Các slides trình chiếu; ­ Các phiếu học tập, bao gồm: các sơ đồ để HS điền thông tin, các bài tập   dùng để kiểm tra, đánh giá HS trong quá trình đọc hiểu; ̉ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ­ Bang phân công nhiêm vu cho hoc sinh hoat đông trên l ơp, bút d ́ ạ; ̉ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ­ Bang giao nhiêm vu hoc tâp cho hoc sinh  ở nha.̀ 2. Chuẩn bị của học sinh             ­ Sách giáo khoa, sách bài tập, giấy A0, bút dạ, bút màu;            ­ Soạn bài theo các câu hỏi hướng dẫn học bài. III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức  Lớp Ngày dạy Sĩ số 14
  15. 2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra trong giờ 3. Bài mới: Hoạt động của gv và hs Yêu cầu cần đạt I. Ho   ạt  độ    ng ­ Kh    ở    i    độ    ng     (5 phút) * Muc tiêu:  ̣ + Đặt vấn đề  vào bài mới, giúp học  sinh có tâm thế  thoải mái, chủ  động  khi tiếp cận kiến thức mới. + Rèn kĩ năng cảm thụ văn học +  HS   phát   triển  năng   lực:   năng   lực  tìm hiểu vấn đề, năng lực giao tiếp. * Phương phap/kĩ thu ́ ật:  Theo dõi vi deo và trả lời câu hỏi. * Phương tiện:  + Giáo án/thiết kế bài học + Sách giáo khoa + Vi deo  + Đồng hồ đếm ngược có nhạc. *  Cách thức thực hiện: Bước   1:   Chuyển   giao   nhiệm   vụ  học tập ­ Giáo viên Cho học sinh theo dõi vi  deo bài hát  Thuyền và biển, yêu cầu  chú ý vào những câu từ  và khái quát  nên   trạng   thái   cảm   xúc   được   nhắc  đến trong lời bài hát là gì? Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ  học   tập ­   Học   sinh     theo   dõi,   suy   nghĩ,   làm  việc cá nhân Bước 3: Báo cáo kết quả  học tập: ­ Giáo viên gọi học sinh trả lời  ­   Cả   lớp   theo   dõi,   nhận   xét   góp   ý. 15
  16. Bước   4: Đánh   giá  kết   quả  thực   hiện nhiệm vụ Giáo viên nhận xét, đánh giá, bổ sung,  chốt lại  Từ đó Giáo viên dẫn dắt học sinh vào  bài:   Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ.  Một trái tim còn yêu là một trái tim  còn nhớ, một trái tim hết nhớ  là một  trái tim đã hết yêu. Vì vậy nỗi nhớ  trong tình yêu đã trở thành một nguồn  cảm hứng bất tận cho các văn nghệ  sĩ. Từ thời xa xưa các tác giả dân gian  cũng đã diễn tả rất trọn cảm xúc này  trong một bài ca dao vô cùng da diết  và sâu lắng đó là bài ca dao số 4 trong   trùm ca dao than thân yêu thương tình  nghĩa  II.   Hoạt  độ     ng:     Hình   thành   kiến   thức mới (30 phút) 1. Bài ca dao số 4 a.   Hoạt   động   tìm   hiểu   nỗi   nhớ   thương * Muc tiêu:  ̣ ­   Học sinh phân tích được nỗi nhớ  được thể hiện qua các hình ảnh khăn,  1. Bài 4: đèn, mắt Bài Ca dao gồm 12 dòng được sáng  ­ Rèn kỹ năng cảm thụ văn học, phân  tác theo thể  thơ  vãn bốn và lục bát. Dù là  tích văn học. thể  vãn bốn hay thể  lục bát thì nhịp thơ  ­   HS   phát   triển   năng   lực:   năng   lực  vẫn là nhịp chẵn đều đặn 2/2/2 nó gợi ra  giải quyết vấn đề  và sáng tạo, năng  âm điệu da diết nên rất phù hợp cho việc  lực   giao   tiếp   và   hợp   tác,   năng   lực  diễn tả  những cung bậc cảm xúc của con  thẩm mỹ.  người. Trong thể vãn bốn kết hợp với lục  * Phương phap/kĩ thu ́ ật:   kĩ thuật  bát thì những câu vãn bốn là những câu nói  bản đồ tư duy,  kĩ thuật băng chuyền,  về những sự vật và ở đây nó là những hình  nhóm ghép nhóm chuyên gia. ảnh ngoại hiện còn những câu lục bát là  * Phương tiện:  trực tiếp giãi bày những tâm tư  tình cảm  16
  17. ­ Giáo án/thiết kế bài học của cô gái. Trong những bài ca dao khác  ­ Sách giáo khoa sáng   tác   theo   thể   thơ   này   chúng   ta   cũng  ­ Các slides trình chiếu  thấy rõ cấu trúc như thế. ­ Bảng phụ, bút dạ Hòn đá đóng rong  ­ Đồng hồ  đếm ngược có nhạc kích  vì dòng nước chảy thích học tập Hòn đá bạc đầu * Cách thức thực hiện: Bởi tại sương sa Bước   1:   Chuyển   giao   nhiệm   vụ  Thương anh chẳng dám nói ra học tập. Sợ mẹ bằng đất sợ cha bằng trời. Giáo viên chia lớp thành 3 cụm, mỗi  Thương anh cũng muốn kết đôi cụm 3 nhóm (nhóm 1, 2,3), thực hiện  Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan các nhiệm vụ sau Và  ở  bài ca dao này tác giả dân gian đã  Các nhóm số  1 của 3 cụm: Tìm hiểu  dùng thể vãn bốn để giúp cô gái bày tỏ nỗi  về hình ảnh “khăn” nhớ  một cách gian tiếp qua các hình  ảnh  Các nhóm số  2 của 3 cụm: Tìm hiểu  khăn đèn mắt. về hình ảnh “đèn” Các nhóm số  3 của 3 cụm: Tìm hiểu  ­ Nhân vật trữ tình: cô gái. về hình ảnh “mắt” * Nỗi nhớ thương: Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ  học   ­ Điệp từ “thương nhớ” (5 lần): tập  nỗi nhớ chồng chất, triền miên, cồn cào,  ­ Nhiệm vụ  1: Các nhóm thảo luận  da diết như  những lớp sóng đang dồn vỗ  theo nhiệm vụ  đã đã phân công. Nội  trong tâm hồn cô gái đang yêu. dung thảo luận ghi vào tờ  giấy A0.   tình yêu chân thành, mãnh liệt, sâu sắc. Thời   gian   thảo   luận   là   4   phút   theo  đồng hồ đếm ngược. ­ Nhiệm vụ  2:   Các nhóm thảo luận  thống   nhất   về   cách   thuyết   trình   về  sản phẩm của mình. Thời gian là 2  phút. ­ Nhiệm vụ  3: Các nhóm sẽ  phân số  cho nhau từ 1­3. Những người thừa ra  sẽ đứng ra lên trên bục giảng để giáo  viên phân số theo tứ tự từ 1­3. ­ Nhiệm vụ  4: Các nhóm di chuyển  về  nhóm mới (nhóm ghép) theo quy  luật:     số   1   về   đứng   tại   vị   trí   sản   phẩm   số   1,     số   2   sẽ   về   vị   trí   sản  phẩm số  2, những bạn số 3 về vị trí  17
  18. sản phẩm số 3, (Lưu ý chỉ di chuyển  trong cụm) ­ Nhiệm vụ  5: Các nhóm di chuyển  đến   sản   phẩm   của   nhóm   nào   thì  chuyên  gia của  thuyết  trình cho  các  thành viên khác trong nhóm ghép của  mình   hiểu   về   sản   phẩm   mà   nhóm  chuyên gia của mình vừa thảo luận.  Các thành viên khác nhận xét góp ý.  Thời gian là  2 phút đếm ngược. ­ Nhiệm vụ  6: Các nhóm di chuyển  trong cụm thuyết trình và nhận xét.  Bước 3: Báo cáo kết quả học tập: ­   Học   sinh  di   chuyển   trở   về   nhóm  chuyên   gia  ban   đầu.  Các   thanh   viên  thảo luận, sửa chữa lại sản phẩm sau   khi   đã   được   các   nhóm   khác   góp   ý.  Thời gian là 2 phút đếm ngược. Bước   4:  Đánh   giá  kết   quả  thực   hiện nhiệm vụ ­ Giáo   viên   nhận   xét,  đánh   giá,   bổ  sung ­ Giáo viên kết luận, trình chiếu bằng  những  sile   ngắn  ngọn   cho  học   sinh  điều chỉnh lại sản phẩm của mình. *  Hình ảnh khăn Tại   sao   cô   gái   lại   mượn   khăn   để   thể   hiện nỗi nhớ  của mình mà không phải   một vật nào khác bởi vì ­ Ý nghĩa + Là vật trao duyên, vật kỉ niệm tình yêu + Là vật bất li thân với người con gái xưa. ­  ­ Nghệ thuật + Nhân hóa: Khăn thương nhớ ai + Động từ  vận động trái chiều => những  trạng thái của chiếc khăn      rơi xuống đất    vắt trên vai    chùi nước mắt  Những trạng thái của chiếc khăn nó đang  18
  19. phản chiếu tâm tư  rối bời, lo lắng bất an  của cô gái. Hành động này cũng giống như  hành động trèo lên cây bưởi   trèo lên cây  khế cứ treo lên lại trèo xuống vì tâm trạng  đang rối bời đang bất an. Chiếc khăn này  có thể roi xuống và nhặt lên rất nhiều lần  nghĩa là cô gái nhớ người yêu da diết mãnh  liệt  và   cảm  thấy   bất   an  để   rồi   cao   trào  thành dòng nước mắt. Đến đây ta lại càng  thấm thía hơn ý nghĩa của câu ca dao Nhớ   ai bổi hổi…. =>  Nỗi   nhớ   da   diết,   khắc   khoải   và   trải  rộng ra không gian. * Hình ảnh ngọn đèn ­ Ý nghĩa:  + Gợi thời gian ban đêm + Sự vật gắn liền với nỗi nhớ nhung, thao   thức, cô đơn ­ Nghệ thuật + Nhân hóa Đèn thương nhớ ai => nhờ đèn  nói hộ nỗi nhớ  + Ẩn dụ  đèn không tắt  chỉ  ngọn lửa tình  yêu bừng cháy, mãnh liệt.   Nỗi nhớ  chuyển từ  ngày sang đêm dằng   dặc theo thời gian. *Hình ảnh đôi mắt ­ Ý nghĩa + Là cửa sổ  tâm hồn con người khó giấu  cảm xúc, tình yêu qua nó. +   Thông   qua   đôi   mắt   để   thấy   được   nỗi  lòng của cô gái. ­ Nghệ thuật hoán dụ: Mắt ngủ không yên   (lấy bộ phận chỉ toàn thể, cô gái không nói  mình thương nhớ ai mà lại nói mắt thương  nhớ  ai. Từ   đôi mắt  ấy có thể  nhìn thấy   chiều sâu tâm hồn, chiều sâu tâm tư  tình  cảm của cô gái)              => Vì nhớ mà trằn trọc, thao thức  (nhớ trong cõi ý thức)  Ngủ mà vẫn nhớ (nhớ trong cõi  vô thức) 19
  20.  Có thể  trong mơ  vẫn nhớ  (nhớ  trong cả tiềm thức) b. Hoạt động tìm hiểu nỗi lo phiền * Muc tiêu:  ̣ ­     Học   sinh   phân   tích   được   nỗi   lo  phiền của cô gái ­ Rèn kỹ năng cảm thụ văn học, phân  tích văn học. ­   HS   phát   triển   năng   lực:   năng   lực  giải quyết vấn đề  và sáng tạo, năng  lực giao tiếp, năng lực thẩm mỹ.  * Phương phap/kĩ thú ật:   Học sinh làm trên phiếu học tập có  hướng dẫn, sau đó giáo viên cho học  sinh chấm chéo bài của nhau. * Phương tiện:  ­ Giáo án/thiết kế bài học ­ Sách giáo khoa ­ Các slides trình chiếu  ­ Phiếu học tập ­ Đồng hồ  đếm ngược có nhạc kích  thích học tập * Cách thức thực hiện: Bước   1:   Chuyển   giao   nhiệm   vụ  học tập. Giáo viên phát phiếu học tập cho học  sinh. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ  học   tập Học  sinh   trả   lời   vào   phiếu  học   tâp  trong 3 phút  Bước 3: Báo cáo kết quả học tập: Học sinh tráo đổi phiếu học tập và  nhận xét vào phiếu theo hướng dẫn  của giáo viên và báo cáo kết quả. Bước   4:  Đánh   giá  kết   quả  thực   hiện nhiệm vụ 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1