intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thông khí một phổi ở một trường hợp phế quản khí quản và một trường hợp phế quản chính phải ngắn: Báo cáo 2 ca bệnh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

8
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông khí một phổi (one lung ventilation - OLV) ở bệnh nhân có phế quản khí quản (tracheal bronchus - TB) và bệnh nhân (BN) có phế quản (PN) chính phải ngắn có thể là một thách thức do bất thường giải phẫu của PQ. Bài viết báo cáo hai ca bệnh OLV bên phải khó do một BN có TB thuỳ trên phổi phải và một BN có PQ chính phải ngắn, được chỉ định cắt thuỳ trên phổi trái.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thông khí một phổi ở một trường hợp phế quản khí quản và một trường hợp phế quản chính phải ngắn: Báo cáo 2 ca bệnh

  1. Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 11, 310-315 ONE-LUNG VENTILATION IN A CASE OF TRACHEAL BRONCHUS AND A CASE OF SHORT RIGHT MAIN BRONCHUS: TWO CASE REPORT Ngo Van Chan*, Nguyen Ngoc Sa Da Nang Oncology Hospital - Hoang Thi Loan Street, Group 28, Hoa Minh Ward, Lien Chieu District, Da Nang City, Vietnam Received: 14/09/2023 Revised: 06/10/2023; Accepted: 30/10/2023 ABSTRACT Background: Establishing one-lung ventilation (OLV) in patients with tracheal bronchus (TB) may be challenging due to its unusual bronchial anatomy. We report two cases of difficult right OLV due to a case had right upper lobe TB and a case had a short right main bronchus, was scheduled to undergo left upper lobectomy. Case presentation Case presentation 1: Male patient, 67 years old, was scheduled to undergo video-assisted thoracic surgery left upper lobectomy, patient has right upper lobe TB. We planned right OLV, however, because the right upper lobe of the lung is located 3.4 cm above the carina, it is difficult to OLV with the right or left double-lumen tracheal tube (DLT). Therefore, we successfully performed right OLV by allowing placement of the left bronchial blocker (BB). Case presentation 2: Male, 69 years old, was scheduled to undergo video-assisted thoracic surgery left upper lobectomy. We planned right OLV, however, the patient had a short right main bronchus 0.8 cm, so the right OLV with the right DLT was difficult. Therefore, we successfully performed right OLV by placement of left DLT. Conclusion: For airway management in patients with TB, especially for OLV, it is essential to understand the anatomy of the trachea, bronchus, and TB and to select the appropriate OLV for each case. Keywords: Tracheal bronchus, anesthesia, one-lung ventilation, bronchial blocker, double-lumen tracheal tube. *Corressponding author Email address: Ngovanchan@gmail.com Phone number: (+84) 914082606 https://doi.org/10.52163/yhc.v64i11 310
  2. N.V. Chan, N.N. Sa / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 11, 310-315 THÔNG KHÍ MỘT PHỔI Ở MỘT TRƯỜNG HỢP PHẾ QUẢN KHÍ QUẢN VÀ MỘT TRƯỜNG HỢP PHẾ QUẢN CHÍNH PHẢI NGẮN: BÁO CÁO 2 CA BỆNH Ngô Văn Chấn*, Nguyễn Ngọc Sa Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng - Đường Hoàng Thị Loan, tổ 28, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam Ngày nhận bài: 14/09/2023 Chỉnh sửa ngày: 06/10/2023; Ngày duyệt đăng: 30/10/2023 TÓM TẮT Mở đầu: Thông khí một phổi (one lung ventilation - OLV) ở bệnh nhân có phế quản khí quản (tracheal bronchus - TB) và bệnh nhân (BN) có phế quản (PN) chính phải ngắn có thể là một thách thức do bất thường giải phẫu của PQ. Chúng tôi báo cáo hai ca bệnh OLV bên phải khó do một BN có TB thuỳ trên phổi phải và một BN có PQ chính phải ngắn, được chỉ định cắt thuỳ trên phổi trái. Báo cáo ca bệnh Báo cáo ca bệnh 1: BN nam, 67 tuổi, phẫu thuật lồng ngực có video hỗ trợ cắt thuỳ trên phổi trái, BN có TB thuỳ trên phổi phải. BN được OLV bên phải, tuy nhiên do thuỳ trên phổi phải nằm cách carina 3.4 cm nên OLV với ống nội khí quản (NKQ) 2 nòng phải hoặc trái đều khó khăn. Vì vậy, chúng tôi thực hiện OLV bên phải thành công bằng cách đặt NKQ với bóng chẹn PQ (bronchial blocker - BB) bên trái. Báo cáo ca bệnh 2: BN nam, 69 tuổi, phẫu thuật lồng ngực có video hỗ trợ cắt thuỳ trên phổi trái. BN được OLV bên phải, tuy nhiên BN có PQ chính phải ngắn 0.8 cm nên OLV bên phải bằng ống NKQ 2 nòng bên phải gặp khó khăn. Vì vậy, chúng tôi thực hiện OLV bên phải thành công bằng cách đặt ống NKQ 2 nòng bên trái. Kết luận: Để quản lý đường thở ở bệnh nhân có TB, đặt biệt OLV, điều quan trọng là phải hiểu rõ giải phẫu của khí quản, PQ và TB để lựa chọn chiến lược OLV phù hợp cho từng trường hợp. Từ khoá: Phế quản khí quản, gây mê, thông khí một phổi, bóng chẹn phế quản, ống nội khí quản 2 nòng. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Conacher phân loại TB thành ba loại dựa trên khoảng cách của nó đến chỗ chia đôi khí quản và đường kính Phế quản khí quản (tracheal bronchus - TB) là một dị tật khí quản sau khi chia TB. Phân loại này có ý nghĩa lớn bẩm sinh hiếm gặp, trong đó phế quản (PQ) thuỳ trên khi xem xét đặt NKQ và OLV [1]. xuất phát trực tiếp từ khí quản. Tỷ lệ TB bên phải
  3. N.V. Chan, N.N. Sa / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 11, 310-315 Hình 1. Phân loại phế quản khí quản theo Conache Chúng tôi báo cáo hai ca bệnh OLV bên phải khó do một 2. BÁO CÁO CA BỆNH BN có TB thuỳ trên phổi phải và một BN có PQ chính phải ngắn (gặp khó khăn tương tự TB type III), được chỉ Báo cáo ca bệnh 1 định cắt thuỳ trên phổi phải. Chúng tôi xem xét các tài BN nam, 67 tuổi, cao 172 cm, nặng 56 kg, ASA II, phẫu liệu hiện có về TB trong phẫu thuật lồng ngực và thảo thuật lồng ngực có video hỗ trợ cắt thuỳ trên phổi trái và luận về chiến lược OLV cho bệnh nhân TB. nạo hạch trung thất. Trước mổ, CT-scan lồng ngực và nội soi PQ BN phát hiện TB thuỳ trên phổi phải type II. Hình 2. Hình ảnh nội soi phế quản và CT-scan lồng ngực BN chưa có tiền sử phẫu thuật hay bệnh lý gì đặc biệt. giảm đau luồn catheter khoang cơ dựng sống, khởi mê Thăm khám lâm sàng và các xét nghiệm tiền phẫu khác với fentanyl, propofol, rocuronium. Đặt NKQ số 8.0 không có gì đáng chú ý. BN được OLV bên phải, tuy mm, cố định ống góc trái của miệng. Dùng ống nội soi nhiên do thuỳ trên phổi phải nằm cách carina 3.4 cm mềm (Karl Storz Scope with C-Max Monitor 8403ZX, nên OLV với ống NKQ 2 nòng phải hoặc trái đều khó Germany) soi qua ống NKQ phát hiện TB và cố định lại khăn. Vì vậy, chúng tôi quyết định OLV bên phải bằng đầu ống NKQ phía trên TB (chiều dài ống NKQ 18cm). cách đặt NKQ với bóng chẹn PQ (bronchial blocker - Sau đó dùng bóng chẹn PQ (Hitecare, China) đưa đến BB) bên trái. PQ chính trái và OLV được bắt đầu. Thời gian gây mê đến khi OLV mất 18 phút. Sau khi điều chỉnh tư thế BN vào phòng mổ, được lắp thiết bị theo dõi theo tiêu phẫu thuật, nghe kiểm tra OLV tốt. chuẩn Hiệp hội gây mê Hoa Kỳ (American Society of Anesthesiologists - ASA). Sau khi thực hiện thủ thuật 312
  4. N.V. Chan, N.N. Sa / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 11, 310-315 Hình 3. Phế quản chính trái trước vào sau khi OLV với BB Duy trì mê bằng Sevoflurane và fentanil, rocuronium Báo cáo ca bệnh 2: nếu cần. Các thông số theo dõi ổn định. Kết thúc phẫu thuật, rút ống NKQ trong phòng mổ. Thời gian gây mê, BN nam, 69 tuổi, cao 167 cm, nặng 60 kg, ASA II, phẫu phẫu thuật và OLV lần lượt là 207, 150 và 183 phút. thuật lồng ngực có video hỗ trợ cắt thuỳ trên phổi trái và BN xuất viện 10 ngày sau phẫu thuật. Quá trình hậu nạo hạch trung thất. Trước mổ, CT-scan lồng ngực và phẫu diễn ra bình thường, không có biến chứng lớn nào nội soi PQ BN có PQ chính phải ngắn 0.8 cm. được ghi nhận. Hình 4. Hình ảnh nội soi phế quản và CT-scan lồng ngực BN chưa có tiền sử phẫu thuật hay bệnh lý gì đặc biệt. gây mê, phẫu thuật và OLV lần lượt là 213, 165 và 196 Thăm khám lâm sàng và các xét nghiệm tiền phẫu khác phút. BN xuất viện 10 ngày sau phẫu thuật. Quá trình không có gì đáng chú ý. BN được OLV bên phải, tuy hậu phẫu diễn ra bình thường, không có biến chứng lớn nhiên BN có PQ chính phải ngắn 0.8 cm nên OLV bên nào được ghi nhận. phải bằng ống NKQ 2 nòng bên phải gặp khó khăn (tương tự TB type III). Vì vậy, chúng tôi quyết định OLV bên phải bằng cách đặt ống NKQ 2 nòng bên trái. 3. BÀN LUẬN BN vào phòng mổ, được lắp thiết bị theo dõi theo tiêu Ở BN TB, OLV có thể là một thách thức. Cho đến nay, chuẩn ASA. Sau khi thực hiện thủ thuật giảm đau luồn không có biến chứng lớn nào được báo cáo với OLV ở catheter khoang cơ dựng sống, khởi mê với dexamethe- BN TB. Sử dụng ống NKQ 2 nòng vẫn là kỹ thuật tiêu son, fentanyl, propofol, rocuronium. Đặt NKQ 2 nòng chuẩn vàng cho các phẫu thuật cần cách ly phổi. Chẩn bên trái 37 Fr, cố định ống góc trái của miệng, chiều dài đoán bệnh lao trước phẫu thuật là điều quan trọng nhất ống 29cm. Sau khi đặt ống và sau khi điều chỉnh tư thế trong quản lý gây mê. Vì vậy, cần xác định giải phẫu phẫu thuật, nghe kiểm tra OLV tốt. Thời gian gây mê đường thở bao gồm khí quản, PQ và lao trước phẫu đến khi OLV mất 15 phút. thuật để lựa chọn thiết bị bảo vệ đường thở thích hợp Duy trì mê bằng Sevoflurane và fentanil,rocuronium nhất cho cuộc phẫu thuật [1], [3]. Chiến lược thiết lập nếu cần. Các thông số theo dõi ổn định. Kết thúc phẫu OLV cho bệnh lao phải được tóm tắt trong hình 5. thuật, rút ống NKQ 2 nòng trong phòng mổ. Thời gian 313
  5. N.V. Chan, N.N. Sa / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 11, 310-315 Hình 5. Chiến lược OLV ở BN có phế quản khí quản *a: Sử dụng ống NKQ 2 nòng bên phải với thiết kế ống áp suất cuff của ống NKQ 2 nòng bên trái xuống dưới bên PQ được rút ngắn. 20 mmHg [4]; tuy nhiên, nên tránh điều này, đặc biệt là trong quá trình cắt phổi, vì khó kiểm soát dịch tiết và *b: vì thùy trên phổi phải không bị xẹp bằng kỹ thuật chảy máu ở thùy trên bên phải. Là một lựa chọn khác này nên kỹ thuật này phụ thuộc vào loại phẫu thuật mà cho OLV trái, đặt nội PQ bằng NKQ ở trường hợp nhi phẫu thuật viên có thể làm. khoa đã được báo cáo [8]. Ở TB type III, sử dụng ống NKQ 2 nòng có thể thực hiện được. Nếu các kỹ thuật được đánh giá là khó thì BB đơn block thuỳ giữa và OLV bên phải bằng cách đặt NKQ với BB bên trái [6], dưới phổi phải có thể thực hiện, vì thùy trên phổi phải đối với TB type I và II nên OLV bên phải bằng đặt NKQ không bị xẹp bằng kỹ thuật này nên kỹ thuật này phụ với BB bên trái nên tránh dùng ống NKQ 2 nòng ở BN thuộc vào loại phẫu thuật mà phẫu thuật viên có thể làm. TB type I và II vì ở type I, đường kính của PQ bên trái ở nhánh đầu tiên thường quá nhỏ nên ống NKQ 2 nòng Tóm lại, chúng tôi báo cáo hai ca bệnh OLV bên phải không thể tiến vào PQ chính trái, còn ở TB type II đặt khó do một BN có TB thuỳ trên phổi phải và một BN ống NKQ 2 nòng bên phải nếu đặt vào TB thì tối đa chỉ có PQ chính phải ngắn, được chỉ định cắt thuỳ trên phổi thông khí được mỗi thuỳ trên phổi phải, nếu đặt NKQ 2 trái và nạo hạch trung thất. Mặc dù gặp những khó khăn nòng vào thuỳ giữa và dưới phổi phải thì không thông nhưng chúng tôi đã OLV bên phải thành công bằng cách khí được thuỳ trên phổi phải nên OLV có thể sẽ thất bại đặt NKQ với bóng chẹn PQ (bronchial blocker - BB) vì áp lực đường thở cao và hạ oxy máu do không đủ thể bên trái cho trường hợp TB và OLV bên phải thành công tích khí lưu thông, đồng thời thuỳ trên phổi phải với đặt bằng cách đặt ống NKQ 2 nòng bên trái cho trường hợp ống NKQ 2 nòng vào TB hoặc thuỳ giữa và dưới phổi BN có PQ chính phải ngắn. Để quản lý đường thở ở BN phải với đặt ống NKQ 2 nòng vào 2 thuỳ này có thể bị có TB, đặc biệt là OLV, cần hiểu rõ giải phẫu khí quản, dịch và máu ở bên trái khi phẫu thuật chảy vào, nếu PQ, TB và lựa chọn chiến lược OLV phù hợp cho từng TB type II đặt ống NKQ 2 nòng bên trái thì thuỳ trên trường hợp. phổi phải có thể không được thông khí do bị ống NKQ 2 nòng chèn. Đối với TB type III, có thể sử dụng ống NKQ 2 nòng bên trái. Một lựa chọn khác cho bệnh TB 4. KẾT LUẬN type III là sử dụng ống NKQ 2 nòng bên phải với thiết kế ống bên PQ được rút ngắn (Cliny, Create Medic Co., Đánh giá cẩn thận trước phẫu thuật về giải phẫu khí Ltd., Japan) có thể được sử dụng ngay cả trong những phế quản là bắt buộc để lựa chọn phương pháp OLV trường hợp PQ chính phải ngắn. Trong mọi trường hợp, thích hợp và ngăn ngừa các biến chứng tiềm ẩn. Ở phế tốt nhất cần xác nhận bằng nội soi PQ rằng TB không bị quản khí quản loại I có khí quản ở phần xa bị thu hẹp, tắc nghẽn bởi ống NKQ 2 nòng hoặc ống NKQ. lựa chọn bóng chẹn phế quản có thể có lợi thế hơn DLT thông thường để đạt được OLV hiệu quả. Đối với OLV trái, lựa chọn đầu tiên là đặt ống NKQ với BB 2 để block PQ chính phải và TB phải (kỹ thuật Dual BB) [7], [5]. Ở type I nên tránh dùng ống NKQ 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO nòng vì đường kính của PQ chính trái ở nhánh đầu tiên thường quá nhỏ nên ống NKQ 2 nòng không thể tiến [1] Conacher ID, Implications of a tracheal bron- vào phế quản chính trái. Ở type II, Lai và cộng sự báo chus for adult anaesthetic practice. Br J Anaesth, cáo rằng có thể làm xẹp thùy phải bằng cách điều chỉnh 2000;85:317–320. 314
  6. N.V. Chan, N.N. Sa / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 11, 310-315 [2] Ghaye B, Szapiro D, Fanchamps JM et al., Con- [6] Moon YJ, Kim SH, Park SW et al., The impli- genital bronchial abnormalities revisited. Radio- cations of a tracheal bronchus on one-lung ven- graphics, 2001;21:105–119. tilation and fibreoptic bronchoscopy in a patient [3] Jain P, Nguyen DM, Fermin L et al., 2nd Tra- undergoing thoracic surgery: A case report. Can cheal bronchus: Anesthetic implications and im- J Anaesth, 2015;62:399–402. doi: 10.1007/ portance of early recognition in the context of s12630-014-0293-8 bronchial blocker use for lung isolation. J Car- [7] Wiser SH, Hartigan PM, Challenging lung iso- diothorac Vasc Anesth, 2020;34:1019–1022. lation secondary to aberrant tracheobronchial [4] Lai KM, Hsieh MH, Lam F et al., Anesthesia for anatomy. Anesth Analg, 2011;112:688–692 patients with tracheal bronchus. Asian J Anes- [8] Zhang Y, Qin M, Wang X et al., Rare anaesthetic thesiol, 2017;55:87–88. challenge in a one-lung ventilated paediatric pa- [5] Lee HL, Ho AC, Cheng RK et al., Successful tient with right upper lobe tracheal bronchus. J one-lung ventilation in a patient with aberrant Int Med Res, 2020;48. tracheal bronchus. Anesth Analg, 2002;95:492– 493. 315
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2