Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG TÁC DỤNG CỦA VEC-NI NHA KHOA NGUỒN<br />
GỐC NHỰA CÁNH KIẾN CÓ FLUOR (SHELLAC F)<br />
Hoàng Đạo Bảo Trâm*, Tạ Tố Trân*, Trần Thị Nguyên Ny*, Ngô Thị Quỳnh Lan*, Hoàng Tử Hùng*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Nhằm đánh giá tác dụng của véc-ni Shellac F trong điều trị nhạy cảm ngà và dự phòng sâu<br />
răng.<br />
Phương pháp nghiên cứu: (1) Thử nghiệm lâm sàng nửa miệng, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng<br />
trên bệnh nhân có răng nhạy cảm ngà ≥15 (VAS). Các răng nhạy cảm của ba nhóm được bôi một trong ba<br />
vật liệu : (1)Shellac F, (2)Duraphat® và (3)Isodan® vào ngày 0, 1, và 7. Nhạy cảm ngà được đánh giá trước<br />
và sau khi bôi vật liệu 15 phút, 1, 7, 14, 28, và 56 ngày, với kích thích cọ xát (0-100cN) và thổi hơi (VAS).<br />
(2) Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng trên 200 trẻ 7 tuổi, với ba nhóm (1)Shellac<br />
F, (2)Duraphat®, và nhóm chứng. Đánh giá tình trạng sâu răng mỗi sáu tháng trong 24 tháng.<br />
Kết quả: (1) : Nhạy cảm ngà giảm ở cả ba nhóm tại tất cả các thời điểm đánh giá sau khi sử dụng vật<br />
liệu cho thấy cả ba vật liệu có tác dụng giảm nhạy cảm ngà lập tức và kéo dài, không có khác biệt có ý nghĩa<br />
giữa ba nhóm. (2) : Tỷ lệ mắc mới sâu răng ở nhóm Shellac F là 0,8% sau 12 tháng và 12,6% sau 24 tháng,<br />
tỷ lệ giảm sâu răng tương ứng là 85% và 41,7% so với nhóm chứng. Tỷ lệ sâu mặt răng của răng số 6 giảm<br />
34,5% ở nhóm Shellac F và 16,34% ở nhóm Duraphat® sau 24 tháng.<br />
Kết luận: 1. Shellac F có tác dụng hiệu quả trong điều trị chống nhạy cảm ngà răng. 2. Shellac F có tác<br />
dụng dự phòng sâu răng. Vật liệu làm giảm sự phát triển sâu răng ở răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất trong<br />
giai đoạn sau mọc răng.<br />
Từ khóa: Shellac F, véc-ni có fluor, chất chống nhạy cảm ngà, dự phòng sâu răng.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
IN VITRO AND IN VIVO EVALUATION THE EFFICIENCY OF A NEW NATURAL RESIN-BASED<br />
FLUORIDE VARNISH (SHELLAC F)<br />
Hoang Dao Bao Tram, Ta To Tran, Tran Thi Nguyen Ny, Ngo Thi Quynh Lan, Hoang Tu Hung<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 143 - 149<br />
Objectives: To evaluate the efficiency of Shellac F in reducing dentin hypersensitivity and in caries<br />
prevention.<br />
Methods: (1) A double-blind, split-mouth, randomized controlled trial was performed on dentin<br />
hypersensitivity (DH) patients with VAS ≥ 15. Each group was applied one among three desensitizing agents:<br />
(1) Shellac F, (2) Duraphat® and (3) Isodan® at day 0, 1, and 7. The subjective response was assessed by tactile<br />
and thermal⁄evaporative methods. Data were collected at baseline and after the first application, at 15 min, 1, 7, 14,<br />
28 and 56 days. (2): A single-blind, randomized controlled trial was conducted on 200 children (7 years-old).<br />
Shellac F and Duraphat® were applied in the two experimental groups every 3 months and no application of<br />
fluoride varnishes was done in the control group. Dental caries were evaluated every six months.<br />
Results: (1) Regardless of the type of stimulus, Shellac F showed significant immediate and progressive<br />
continuous efficiency in reducing DH until 56 days, this effect did not differ from that of the two desensitizing<br />
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM<br />
Tác giả liên lạc: TS Hoàng Đạo Bảo Trâm ĐT:090449484, Email: hoangdaobaotram@gmail.com<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
143<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br />
<br />
agents used as controls. (2) The incidence of caries was 0.8% and 12.6% in Shellac F group after 12 months and<br />
24 months, the percentage of caries reduction was 85% and 41.7% respectively compared to the control group. In<br />
considering of carious lesions on first permanent molar sufaces, the percentage of caries reduction was 34.5% and<br />
34.5% in Shellac F and Duraphat® group after 24 months.<br />
Conclusions 1. Shellac F was an effective desensitizing agent. 2. Shellac F was effective in caries prevention.<br />
It decreased the development of caries on permanent first molars in post-eruption phase.<br />
Key words: Shellac F, fluoride varnish, dentin desensitizing agent, caries prevention.<br />
sàng với các mục tiêu sau:<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Bắt nguồn từ phong tục dân gian, qua những<br />
bằng chứng thực tế và tìm hiểu khoa học ban<br />
đầu về phong tục nhuộm răng đen, từ những<br />
năm 1960-1970, nhựa cánh kiến đã bắt đầu được<br />
sử dụng trong nha khoa dưới dạng hỗn hợp tan<br />
trong cồn, dùng để trám lót và chống ê buốt cổ<br />
răng. Sau đó, nhiều tác giả đã thực hiện một số<br />
thử nghiệm lâm sàng và thấy rằng vật liệu này<br />
có tác dụng tốt đối với một số ứng dụng như<br />
điều trị chống nhạy cảm ngà, dự phòng sâu<br />
răng, và có thể được phát triển thành một vật<br />
liệu nha khoa có triển vọng.<br />
Năm 1997, Hoàng Tử Hùng và cộng sự<br />
(Khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược TP<br />
HCM) đã chế tạo thành công một véc-ni nha<br />
khoa nguồn gốc nhựa cánh kiến có fluor (NaF<br />
5%) (đề tài nghiên cứu cấp Bộ Y Tế). Phối hợp<br />
với Khoa Hóa - Đại học Bách Khoa (Việt Nam)<br />
và Khoa Nha - Đại học Adelaide (Úc), nhiều<br />
nghiên cứu in vitro, in situ, và in vivo đã được<br />
thực hiện nhằm hoàn thiện quy trình sản xuất<br />
ở mức thử nghiệm và đánh giá các đặc tính<br />
của vật liệu. Các kết quả nghiên cứu cho thấy<br />
khả năng sử dụng véc-ni này trong dự phòng<br />
và điều trị(6). Năm 2002, vật liệu chính thức<br />
được đặt tên là Shellac F.<br />
Trong loạt thử nghiệm in vitro đã thực hiện,<br />
kết quả cho thấy Shellac F có tính độc với tế bào<br />
tương đương với các vật liệu chứng đã qua kiểm<br />
nghiệm và được sử dụng trên lâm sàng, đồng<br />
thời vật liệu có tác dụng giảm tính thấm của ngà<br />
răng nhờ cơ chế bít các ống ngà mở(7).<br />
Dựa trên cơ sở kết quả các thử nghiệm in<br />
vitro, chúng tôi tiến hành hai thử nghiệm lâm<br />
<br />
144<br />
<br />
- Đánh giá tác dụng của Shellac F trong điều<br />
trị nhạy cảm ngà răng.<br />
- Đánh giá tác dụng của Shellac F trong dự<br />
phòng sâu răng ở bộ răng hỗn hợp, đặc biệt đối<br />
với răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất, ở trẻ em từ 7<br />
đến 9 tuổi.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Vật liệu<br />
Shellac F: Sodium fluoride (5%), shellac,<br />
modified epoxy resin, aceton, silica.<br />
Duraphat: ® (Colgate Pamolive): Sodium<br />
fluoride (5%), ethanol, white bee wax (E901),<br />
gum lac (E904), colophane, mastic, saccharine<br />
(E954), frasberry essence.<br />
Isodan® (Septodont): Potassium<br />
sodium fluoride, HEMA, excipients.<br />
<br />
nitrate,<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Đánh giá tác dụng của Shellac F trong điều trị<br />
nhạy cảm ngà răng<br />
Thử nghiệm được thực hiện theo<br />
“Guidelines for the design and conduct of<br />
clinical trials on dentine hypersensitivity” được<br />
đưa ra bởi Holland và cộng sự năm 1997(8). Thiết<br />
kế nghiên cứu nửa miệng, ngẫu nhiên, có nhóm<br />
chứng và mù đôi. Vật liệu chứng được sử dụng<br />
là Duraphat® và Isodan®. Đối tượng nghiên cứu<br />
là các bệnh nhân đến khám tại phòng khám của<br />
Khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược TP HCM<br />
và đồng ý tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân có ít<br />
nhất hai nửa cung răng có một hoặc nhiều răng<br />
nhạy cảm ngà trên mức 15 (theo thang đo VAS<br />
100mm) khi thử bằng thổi hơi trong một giây.<br />
Các răng này không bị sâu, trám, mang phục<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br />
hình, hoặc có khiếm khuyết hay bệnh lý khác<br />
của răng và mô nha chu; bệnh nhân không có rối<br />
loạn hay bệnh lý toàn thân, hoặc sử dụng các<br />
thuốc có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá.<br />
Các nửa cung răng khác nhau của mỗi bệnh<br />
nhân được phân ngẫu nhiên vào ba nhóm thử<br />
nghiệm, được bôi một trong ba vật liệu tại vùng<br />
răng nhạy cảm, vào ngày đầu tiên, ngày thứ<br />
nhất, và ngày thứ 7. Quy trình bôi vật liệu được<br />
thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Việc<br />
bôi vật liệu luôn luôn được thực hiện sau khi đã<br />
đánh giá nhạy cảm ngà (trừ ngày đầu tiên có<br />
đánh giá ngay sau khi bôi vật liệu 15 phút). Bệnh<br />
nhân tránh ăn, súc miệng, chải răng trong 2 giờ<br />
sau khi bôi. Đánh giá nhạy cảm ngà được thực<br />
hiện ngay trước lần bôi vật liệu đầu tiên, sau đó<br />
vào các thời điểm 15 phút, 1 ngày, 7 ngày, 14<br />
ngày, 28 ngày, và 56 ngày sau lần bôi vật liệu<br />
đầu tiên, sử dụng hai phương pháp đánh giá<br />
nhạy cảm ngà với kích thích cọ xát bằng thiết bị<br />
đo lực (0 đến 100cN)(11) và với thổi hơi bằng<br />
thang VAS (0 đến 100mm). Mỗi phép thử được<br />
lặp lại ba lần và lấy giá trị trung bình. Do<br />
phương sai không đồng nhất, phép kiểm phi<br />
tham số được áp dụng để phân tích kết quả.<br />
Trước tiên, phép kiểm Kruskall Wallis được áp<br />
dụng để đánh giá mức độ tương đương về triệu<br />
chứng nhạy cảm ngà giữa các nhóm ở thời điểm<br />
bắt đầu thử nghiệm. Tiếp theo, Wilconxon được<br />
thực hiện để so sánh mức độ nhạy cảm ngà ở<br />
thời điểm 15 phút sau khi bôi lần đầu tiên và thời<br />
điểm ban đầu. Sau đó, phép kiểm Kruskall<br />
Wallis được dùng để so sánh mức độ nhạy cảm<br />
ngà ở các nhóm khác nhau, tại từng thời điểm.<br />
Cuối cùng, phân tích tuyến tính được sử dụng<br />
để đánh giá sự diễn tiến theo thời gian.<br />
<br />
Đánh giá tác dụng của Shellac F đối với bệnh<br />
sâu răng<br />
Việc chọn mẫu được tiến hành trên 237 trẻ<br />
được gia đình xác nhận đồng ý tham gia<br />
nghiên cứu trong tổng số 270 trẻ được thông<br />
báo. Tiêu chuẩn chọn mẫu: 7 tuổi (± 6 tháng),<br />
sức khỏe toàn thân bình thường, không có bất<br />
thường đặc biệt về răng, có ít nhất một răng số<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
6 đã mọc và không có lỗ sâu. Tiêu chuẩn loại<br />
khỏi mẫu: có vấn đề về sức khỏe toàn thân, có<br />
phản xạ dễ nôn ói, bất thường đặc biệt về<br />
răng. Sau khi khám sơ khởi, 216 trẻ được đưa<br />
vào mẫu để tiến hành thử nghiệm. Đây là một<br />
thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm<br />
chứng, thực hiện trong thời gian 24 tháng.<br />
Các trẻ là học sinh bán trú, tham gia<br />
chương trình chăm sóc răng miệng tại trường,<br />
được cấp bàn chải, kem đánh răng và nhắc lại<br />
hướng dẫn vệ sinh răng miệng mỗi 6 tháng<br />
một lần. Mẫu được phân ngẫu nhiên thành ba<br />
nhóm: nhóm 1 bô Shellact), nhóm 2 (không bôi<br />
Duraphat®), nhóm 3 (không bôi véc-ni). Ở<br />
nhóm 1 và nhóm 2, véc-ni được bôi trên toàn<br />
bộ các mặt của răng số 6 đã mọc và mặt trong<br />
các răng cửa vĩnh viễn. Trẻ chải răng trước khi<br />
bôi. Các răng được cách ly bằng gòn cuộn và<br />
thổi khô vừa phải. Véc-ni được bôi một lớp<br />
đều đặn và thổi se bề mặt, gòn cuộn được lấy<br />
ra sau khoảng một phút. Trẻ được dặn không<br />
ăn uống trong vòng 30 đến 60 phút sau đó,<br />
không chải răng trong ngày hôm đó, ngày<br />
hôm sau chải răng bình thường. Quy trình bôi<br />
véc-ni được lặp lại mỗi ba tháng một lần.<br />
Khám lâm sàng được thực hiện mỗi sáu tháng<br />
một lần, bởi hai bác sỹ được huấn luyện và<br />
chuẩn hóa. Tiêu chuẩn chẩn đoán sâu răng của<br />
Tổ chức sức khỏe Thế giới(16) được áp dụng để<br />
đánh giá sâu răng trên toàn bộ hai cung răng.<br />
Tiêu chuẩn chẩn đoán sâu răng ICDAS(9) được<br />
áp dụng để ghi nhận các tổn thương sâu răng<br />
sớm tại các răng số 6. Các học sinh được chụp<br />
phim cánh cắn ở thời điểm bắt đầu nghiên<br />
cứu, 12 tháng và 24 tháng. Tổn thương sâu<br />
răng mặt bên ở răng cối lớn hàm trên và hàm<br />
dưới được đánh giá theo tiêu chuẩn của Hintz<br />
và cộng sự (1997) bởi một bác sỹ đã được huấn<br />
luyện và chuẩn hóa.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Đánh giá tác dụng của Shellac F trong điều<br />
trị nhạy cảm ngà răng<br />
Thử nghiệm theo dõi nhạy cảm ngà trên 40<br />
<br />
145<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
răng với ba nhóm sử dụng ba vật liệu khác<br />
nhau, cho 60 cặp so sánh giữa các răng trên<br />
các nửa cung răng khac nhau, tức là giữa các<br />
vật liệu với nhau. Đồ thị trong hình 1 và 2 biển<br />
diễn cường độ lực gây đau khi sử dụng kích<br />
thích bằng thám trâm có đo lực và cường độ<br />
đau của bệnh nhân thể hiện trên thang VAS.<br />
VAS (mm)<br />
100<br />
<br />
90<br />
80<br />
70<br />
60<br />
50<br />
40<br />
30<br />
<br />
Shellac F<br />
<br />
20<br />
<br />
Duraphat®<br />
<br />
10<br />
<br />
Isodan®<br />
0<br />
ban ñầu<br />
<br />
15 phút<br />
<br />
1 ngày<br />
<br />
1 tuần<br />
<br />
2 tuần<br />
<br />
4 tuần<br />
<br />
8 tuần thời gian<br />
<br />
Hình 1. Ngưỡng lực gây đau do kích thích bằng thám<br />
trâm có đo lực (cN).<br />
Phân tích thống kê sử dụng phép kiểm<br />
Kruskall-Wallis xác định khác biệt không có ý<br />
nghĩa về mức độ nhạy cảm ngà giữa ba nhóm<br />
ở thời điểm bắt đầu thử nghiệm. Phép kiểm<br />
dấu xếp hạng Wilcoxon cho thấy khác biệt có<br />
ý nghĩa giữa thời điểm bắt đầu thử nghiệm và<br />
thời điểm 15 phút sau lần bôi thuốc đầu tiên,<br />
thể hiện cả ba vật liệu có tác dụng lập tức<br />
trong giảm nhạy cảm ngà, với ngưỡng lực gây<br />
đau tăng khi kích thích bằng thám trâm đo lực<br />
(Hình 1) và độ nhạy cảm ngà giảm khi kích<br />
thích thổi hơi (Hình 2).<br />
100<br />
<br />
cN<br />
<br />
90<br />
80<br />
70<br />
<br />
kích thích, chứng tỏ tác dụng của ba vật liệu<br />
tương đương nhau. Phân tích tuyến tính cho<br />
thấy có mối liên quan tuyến tính có ý nghĩa<br />
giữa mức độ giảm nhạy cảm ngà và các thời<br />
điểm đánh giá (15 phút, 1 ngày, 7 ngày, 14<br />
ngày, 28 ngày, 56 ngày). Đối với kích thích lực,<br />
phương trình tuyến tính về cường độ lực gây<br />
đau ở nhóm Duraphat® là (p=0,02) (y = 0,53 x +<br />
63,5 với R2 = 0,8), Isodan® là (p=0,03) (y = 0,47 x<br />
+ 75 với R2 = 0,7) và Shellac F là (p=0,02) (y =<br />
0,4 x + 61,8 với R2 = 0,95). Đối với kích thích<br />
thổi hơi, phương trình tuyến tính của cường<br />
độ đau theo thang VAS ở nhóm Duraphat® là<br />
(p=0,02) (y = - 0,11 x + 18 với R2 = 0,8), Isodan®<br />
là (p=0,02) (y = - 0,17 x + 21 với R2 = 0,8) và<br />
Shellac F là (p=0,04) (y = - 0,14 x + 24,8 với R2 =<br />
0,6).<br />
<br />
Đánh giá tác dụng của Shellac F đối với<br />
bệnh sâu răng<br />
Trong 24 tháng, 200 trẻ (72 trẻ thuộc nhóm<br />
Shellac F, 62 trẻ thuộc nhóm Duraphat®, và 66 trẻ<br />
thuộc nhóm chứng) tham gia tất cả các giai đoạn<br />
thử nghiệm. Mười sáu trẻ rời bỏ nghiên cứu, với<br />
nguyên nhân chủ yếu là đổi trường học, chiếm<br />
7,4% mẫu ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu.<br />
Bảng 1 trình bày chỉ số sâu răng (tính theo<br />
mặt răng và theo răng) của các răng sữa và răng<br />
vĩnh viễn của ba nhóm ở thời điểm 24 tháng. Chỉ<br />
số sâu răng của nhóm trẻ có sử dụng Shellac F<br />
hoặc Duraphat® luôn thấp hơn so với nhóm<br />
chứng, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa<br />
thống kê (ANOVA ; p>0,05).<br />
Bảng 1. Chỉ số sâu răng (theo WHO) của ba nhóm<br />
ở 24 tháng<br />
<br />
60<br />
50<br />
40<br />
30<br />
<br />
Chứng<br />
<br />
Duraphat®<br />
<br />
10<br />
<br />
Isodan®<br />
<br />
0<br />
ban ñầu<br />
<br />
15 phút<br />
<br />
1 ngày<br />
<br />
1 tuần<br />
<br />
2 tuần<br />
<br />
4 tuần<br />
<br />
8 tuần<br />
<br />
Răng sữa<br />
<br />
thời gian<br />
<br />
Hình 2. Mức độ đau khi kích thích bằng thổi hơi,<br />
đánh giá theo thang VAS (mm).<br />
Áp dụng phép kiểm Kruskall-Wallis cho<br />
thấy không có khác biệt có ý nghĩa giữa ba<br />
nhóm ở mọi thời điểm đánh giá, với cả hai loại<br />
<br />
146<br />
<br />
Shellac F Dura-phat<br />
<br />
Shellac F<br />
<br />
20<br />
<br />
Răng<br />
vĩnh viễn<br />
<br />
smtmr<br />
smtr<br />
SMTMR<br />
SMTR<br />
<br />
7,46 (8,92)<br />
3,01 (2,89)<br />
0,9 (1,38)<br />
0,71 (1,09)<br />
<br />
7,21 (9,25)<br />
3,15 (3,14)<br />
1,1 (1,65)<br />
0,87 (1,16)<br />
<br />
7,94 (7,81)<br />
3,27 (2,60)<br />
1,3 (1,79)<br />
1,03 (1,25)<br />
<br />
Theo dõi tình trạng sâu răng trên 696 răng số<br />
6 đã mọc cho thấy có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ<br />
sâu răng và tỷ lệ mắc mới sâu răng giữa ba nhóm<br />
(bảng 2). Ở thời điểm 12 tháng, tỷ lệ mắc mới sâu<br />
răng ở nhóm Shellac F là 0,8%, so với 5,3% ở<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br />
nhóm chứng, tương đương với mức giảm sâu<br />
răng là 85%; ở thời điểm 24 tháng, tỷ lệ mắc mới<br />
ở nhóm Shellac F là 12,6%, tương đương với mức<br />
giảm sâu răng là 41,7%. Đối với nhóm sử dụng<br />
Duraphat®, tỷ lệ sâu răng chỉ giảm sau 24 tháng,<br />
với mức giảm là 21,8%, so với nhóm chứng.<br />
Bảng 2. Số răng sâu thành lỗ và tỷ lệ mắc mới sâu<br />
răng thành lỗ (%) ở răng số 6<br />
<br />
Shellac F<br />
®<br />
<br />
Duraphat<br />
Chứng<br />
<br />
Số<br />
Số răng cối có lỗ sâu<br />
răng Ban 6th 12th 18th 24th<br />
n<br />
ñầu n(%) n(%) n(%) n(%)<br />
238 10<br />
12<br />
12<br />
16<br />
40<br />
(0,8) (0,8) (2,5) (12,6)<br />
213<br />
9<br />
21<br />
23<br />
26<br />
45<br />
(5,6) (6,6) (8,0) (16,9)<br />
245<br />
8<br />
18<br />
21<br />
28<br />
61<br />
(4,1) (5,3) (8,2) (21,6)<br />
696<br />
<br />
Tương tự, xét theo đơn vị mặt răng, sau 24<br />
tháng, tỷ lệ sâu mặt răng của răng số 6 giảm<br />
34,5% ở nhóm Shellac F và 16,34% ở nhóm<br />
Duraphat®. Nếu xét trên mặt nhai răng số 6, tỷ<br />
lệ sâu mặt nhai giảm 49,7% ở nhóm Shellac F<br />
và 43,7% ở nhóm Duraphat® sau 24 tháng. Đối<br />
với mặt trong và mặt ngoài răng số 6, tỷ lệ này<br />
là 35,5% ở nhóm Shellac F, không giảm ở<br />
nhóm Duraphat®.<br />
Khi đánh giá tổn thương sâu răng mặt bên<br />
trên các răng cối lớn hàm trên và hàm dưới<br />
trên phim cánh cắn, không có sự khác biệt về<br />
tỷ lệ sâu răng mặt bên giữa các nhóm.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Đánh giá tác dụng của Shellac F trong điều<br />
trị nhạy cảm ngà răng<br />
Như vậy, ngưỡng lực gây đau tăng dần và<br />
mức độ đau giảm dần theo thời gian đối với hai<br />
loại kích thích ở cả ba nhóm, với mức giảm đau<br />
liên tục tăng dần và tiến tới giảm đau hoàn toàn<br />
ở thời điểm đánh giá sau cùng (56 ngày sau lần<br />
bôi vật liệu đầu tiên hay 49 ngày sau khi hoàn tất<br />
quy trình điều trị với ba lần bôi), thể hiện tác<br />
dụng giảm nhạy cảm ngà liên tục và kéo dài của<br />
Shellac F trong suốt thời gian thử nghiệm 56<br />
ngày, tương đương với tác dụng của hai vật liệu<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
chứng đã được kiểm nghiệm qua nhiều nghiên<br />
cứu và lâm sàng(3,5,14,15). Kết quả cũng phù hợp<br />
với kết quả nghiên cứu của Lê Nữ Khôi Nguyên<br />
và cộng sự thực hiện năm 2005 ; trong nghiên<br />
cứu này, Shellac F thể hiện tác dụng giảm nhạy<br />
cảm ngà tốt với quy trình ba lần bôi vật liệu,<br />
đánh giá trong ba tuần, có nhóm placebo(12).<br />
<br />
Đánh giá tác dụng của Shellac F đối với<br />
bệnh sâu răng<br />
Sâu răng là một bệnh phổ biến có thể tiến<br />
triển trong suốt đời sống, đặc biệt trong thời kỳ<br />
trẻ em. Mặc dù nhóm nguy cơ cao ngày càng<br />
được chú trọng về các biện pháp dự phòng và<br />
điều trị, việc theo dõi và chăm sóc cần thiết đối<br />
với tất cả các đối tượng. Tốc độ tiến triển sâu<br />
răng nhanh trên các răng vĩnh viễn mới mọc<br />
được giải thích bởi mức độ khoáng hóa thấp của<br />
men răng chưa trưởng thành và ngà răng xốp,<br />
sau 6 tuổi đối với răng cối vĩnh viễn thứ nhất.<br />
Một số tác giả coi răng số 6 là một răng trụ cột dễ<br />
bị tổn thương(4). Quá trình khoáng hóa và trưởng<br />
thành tiếp tục diễn ra trong hai đến ba năm sau<br />
khi răng mọc. Việc dự phòng sâu răng sử dụng<br />
fluor là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn sau<br />
mọc răng(4).<br />
Chỉ số sâu răng đánh giá theo Tiêu chuẩn<br />
chẩn đoán sâu răng của Tổ chức Sức khỏe Thế<br />
giới, phản ánh tình trạng chung của toàn bộ bộ<br />
răng đối với bệnh sâu răng, cho thấy nhóm sử<br />
dụng Shellac F luôn có chỉ số sâu răng thấp hơn<br />
so với nhóm sử dụng vật liệu chứng, và cả hai<br />
nhóm này thấp hơn nhóm không can thiệp, và<br />
ngày càng rõ theo thời gian. Điều này có thể gợi<br />
ý theo dõi tác dụng của vật liệu khuếch tán trong<br />
môi trường miệng. Tuy nhiên, khác biệt không<br />
có ý nghĩa thống kê. Việc đánh giá trong một<br />
thời gian đủ dài có thể cho những kết quả đáng<br />
quan tâm.<br />
Kết quả đánh giá trên 696 răng cối vĩnh viễn<br />
thứ nhất trong 24 tháng cho thấy tỷ lệ giảm sâu<br />
răng đối với nhóm sử dụng Shellac F là 85% sau<br />
một năm, và 41,7% sau hai năm, so với nhóm<br />
không can thiệp. Ở nhóm sử dụng Duraphat®, tỷ<br />
<br />
147<br />
<br />